Chương VI -
Chiếc tầu The Kaiser Wilhelm đang tiến ra khơi. Một đợt sóng lớn chạm vào mũi tầu, bắn tung tóe lên sàn tầu.
Đứng trên mũi tầu, Stavros và Hohannes dõi mắt tìm dấu bờ biển,mặc dầu họ biết phải lâu ngày mới thấy lại.
Cô tớ gái Bertha từ dưới cầu thang trèo lên, theo sau là một thủy thủ. Đoạn đường này trước đây họ đã từng đi qua. Gã thủ thủ nhìn ra Stavros và đi về phía chàng. Chiếc tầu chòng chành. Đám hành khách nghèo trên boong tum lại sau phòng máy thành từng toán ướt nhẹp.
Gã thủy thủ vốn có tánh khinh miệt bất cứ công việc gì không phải là những công việc gã coi là công việc lao động lương thiện. Gã đi lại bên Stavros, đứng trước mặt chàng tra, cười mỉa: “Bà lớn đến cử đòi kẹo rồi đó.”
Stavros bây giờ đã thành thạo trong việc che đấu tình cảm thật của mình, làm như không nhận ra sự khiêu khích đó. Nhưng chàng trai bắt đầu cảm thấy nhục nhã trong địa vị khó xử của chàng. Hohannes không hiểu chuyện gì xảy ra, nhưng nó cũng nhận thấy được vẻ xấu hổ của bạn.
Stavros: “Tại sao anh nhìn tôi kiểu đó?”
Hohannes bằng giọng gắt gỏng: “Tôi muốn đi.” Rồi như hối hận, thêm: “Tôi sẽ đem cho anh ít bánh kẹo.”
Stavros cảm thấy như mọi người trên thế gian này chê trách chàng. Chàng làm bộ dạng phớt tỉnh một cách thách thức khi đi xuống, theo sau cô Bertha. Trong hoàn cảnh hiện tại, chàng không tìm ra cách nào khác để có thể sống được.
Đoàn người – Bertha, Stavros, gã thủy thủ - đi đến trước cửa phòng gia đình Kebabian. Bertha gõ nhè nhẹ lên cửa. Có một tiếng trả lời nhỏ. Nàng quay lại Stavros, nói thẳng ra: “bà thích anh mỉm cười.”
Nàng mở hé cửa cho Stavros đi vào, còn nàng thì đi lại cửa bên cạnh, cửa phòng ngủ của ông Arartoon Kebabian, và mở cửa bước vào trong. Nàng đóng cửa lại, và nhón gót nhè nhẹ lại bên giường ngủ. Ông Aratoon ngáy nặng nhọc nhưng không to lắm, tiếng ngáy của một ông già. Bertha ngồi xuống một chiếc ghế cạnh giường, cầm lên một mảnh vải, và bắt đầu thêu.
Ngày hôm sau, biển lặng. Mũi tàu rẽ sóng lướt tới. Đứng sát mạn tàu, phía mũi, Hohannes đứng nhìn Stavros. Stavros càng trở nên gắt gỏng bao nhiêu, thì Hohannes lại càng trở nên thông cảm bấy nhiêu. Nó cảm nhận được sự nhục nhã của chàng trai đằng sau cái mặt nạ, và thương chàng vì vậy.
Stavros: “Đừng có nhìn tôi hoài bằng cặp mắt thương hại đó nữa.
Hohannes quay mặt đi, lúng túng. Rồi gã bắt đầu lên cơn ho. Cứ mỗi lần nó lên cơn ho mà không thể dằn xuống được, nó lại đảo mắt lấm lét nhìn xem ông Agnotis có ở đâu đó không?
Stavros: “Anh bị vậy bao lâu rồi?”
Hohannes: “Bệnh ho của tôi ấy à? Đó là điều đầu tiên mà tôi nhớ được khi lớn lên.”
Nó cúi thấp người và thì thầm, đưa tay chỉ vào ngực: “Tôi biết mình bị sao rồi.”
Stavros: “Bình tĩnh lại đi nào.” Chàng cố gắng làm cho hắn chú ý sang chuyện khác. “Họ nói ngày mai thấy đất liền rồi.”
Hohannes: “Nhưng trước khi cơn bệnh đó đánh ngã được tôi, nếu tôi có thể…Tôi đã nói cho anh hay chưa?”
Stavros: “Thôi để lúc khác nói…”
Hohannes: “Lúc ở nhà, sáng sớm nào tôi cũng phải đi xách nước. Từ nhà đến giếng khá xa. Anh biết nước nặng lắm. Bây giờ đứa con trai duy nhất là tôi đã đi khỏi, thì mẹ tôi phải đi xách nước lấy. Vì vậy sáng nào tôi cũng nghĩ đến cái đoạn đường cực nhọc đó cảu mẹ tôi.”
Hắn xúc động và lại lên cơn ho, nhìn quanh quất xem có ông Agnostis có ở gần không? Một tiếng còi xe lên.
Từ dưới, gã thủy thủ bước lên kiếm Stavros. Stavros đi vài bước về phía gã thủy thủ, rồi chợt quay lại với Hohannes, nói bằng một giọng lần đầu tiên không còn giữ kẽ, không còn ngờ vực: “Ở nhà tôi có ba em gái, bốn em trai.”
Hohannes có vẻ không hiểu: “Vậy hả? Rồi sao…”
Stavros: “Dần dần tôi sẽ đem chúng nó sang với tôi. Rồi anh sẽ xem.”
Hohannes: “Chuyện tự nhiên rồi. Đó là…điều quan trọng. Đó là điều quan trọng duy nhất. Tự nhiên rồi.”
Bây giờ bằng một dáng điệu ngông nghênh Stavros đi về phía gã thủy thủ.
Hohannes cảm thấy thương Stavros hơn. Nó nói một mình: “Có chuyện gì quan trọng hơn được nữa! Tự nhiên!”
Những đàn chim biển vừa bay lượn quanh cột buồm chiếc tầu The Kaiser Wilhelm vừa kêu. Từ xa, hiện ra sau làn sương mỏng, là bờ biển Long Island. Hohannes đứng trước mũi tàu, quay lui gọi lớn:
“Stavros! Stavros!”
Nhưng Stavros không có ở đó.
Những hành khách hạng chót ở trên boong tầu chạy lại nhìn lên bờ biển. Những chiếc đầu đưa ra ngoài các cửa sổ tầu. Những hành khách này phần lớn là những người nghèo khổ nhất sống trong những vùng đất quanh Địa Trung Hải. Họ vẫn còn bận những y phục bản xứ của họ. Những gói đồ của họ để sát bên cạnh. Họ là những người Ý, Lỗ Ma Ni, Albania, Serbia, Nga, Tiệp Khắc, những người Do Thái theo đạo Chính Thống để râu dài, những người cuồng tín. Và toàn là đàn ông. Chỉ có một đứa trẻ với chiếc khăn quấn quanh cổ.
Trong phòng riêng, ông Aratoon Kebabian đã thức dậy. Nàng Bertha ngồi bên cạnh, tiếp tục thêu.
Ông Aratoon hỏi: “Cái gì ồn áo vậy?”
Bertha: “Đến Long Island rồi.”
Ông Aratoon tỏ ra không quan tâm: “Thế à. Tôi ngủ bao lâu rồi?”
Bertha: “Một hai giờ gì đó.”
Họ nghe có tiếng xì xầm bên phòng bà Sophia. Stavros đang sửa soạn đi lên, mặc dầu bà Sophia muốn giữ lại.
Nàng Bertha nói vội: “Để tôi sang báo cho bà biết ông đã thức.”
Nàng đi lại cửa phòng ngủ của Bà Sophia, và mở cửa đi vào thật nhẹ nhàng. Ông Aratoon lắng tai nghe.
Bertha: “Thưa bà ông đã dậy.”
Có tiếng thầm thì, những tiếng chân thật nhẹ, tiếng cửa thông qua hành lang mở ra và đóng lại. Ông Aratoon ngáp một hơi dài. Bertha lại trở vào.
Bertha: “Thưa ông, bà sẽ sang ngay sau khi trang điểm xong.”
Ông Aratoon: “Tôi đã chờ đợi quá lâu rồi.” Rồi ông nhìn thẳng vào mắt Bertha: “Bertha! Bertha! Bây giờ nói đi.”
Nàng Bertha đứng trước mặt ông: “Thưa ông, thưa ông, tôi đã làm hết sức để vừa được lòng ông, vừa được lòng bà. Nhưng ông hiểu bà như thế nào. Ông hiểu như thế nào?
Ông Aratoon: “Tôi cũng hiểu ai trả lương cho cô. Cô hiểu không?”
Bertha: “Thưa có.”
Ông Aratoon: “Nếu vậy, nói hết cho tôi nghe đi. Gọi cho tôi một bình trà Anh, rồi nói cho tôi nghe.”
Trên boong tầu, đằng mũi, Stavros chạy lại bên Hohannes. Những đứa con trai kia và cả ông Agnostis cũng đứng đó.
Hohannes: “Stavros! Nhìn xem. Nhìn đi. Ông Agnostis nói đó là thành phố Coney Island.”
Stavros: “Những vệt cong cong kia là gì?”
Hohannes tỏ vẻ hiểu biết: “Đường xe. Người Mỹ làm dường trên cao.”
Stavros và Hohannes nhìn lên miếng đất mơ ước. Chợt Hohannes nổi cơn ho dữ dội. Hắn lo sợ ông Agnostis sẽ để ý. Hắn gục đầu vào vai Stavros để cố dằn những tiếng ho. Stavros cảm thấy lúng túng vì bị ôm chầm. Chàng cố làm tỉnh. Chàng cố gắng trấn an Hohannes và làm cho hắn khỏa lấp cơn ho, như người ta dỗ dành một đứa trẻ:
“Coi kìa! Coi kìa! Hohannes, đừng ho nữa. Đừng. Coi đây này.Tôi có đem cho anh một ít kẹo đây này.”
Hohannes, nói một cách khó khăn: “Có điều này…Cái bà bạn của anh…có những thứ kẹo thật ngon.”
Hắn cầm một chiếc kẹo.
Một nơi khác trên tầu, một nhóm người lớn gồm nhiều gia đình, có cả những người đàn bà bồng con, cất tiếng hát một bản nhạc bằng tiếng Ukrania, ngầm chứa bao nhiêu lưu luyến.
Hohannes đã trấn tỉnh lại được. Hắn và Stavros đưa mắt nhìn vào bờ biển.
Đêm xuống, Stavros và Hohannes vẫn còn đứng đó. Những boong tàu, sau lưng họ gần như không còn ai. Hai chàng trai cùng hát một bản nhạc cho nhau nghe. Bản nhạc đến đoạn cuối.
Hohannes: “Chúng ta sẽ luôn luôn là bạn thân.”
Stavros: “Đời khó được như vậy. Đời đầy dẫy hội ngộ và chia ly.”
Hohannes: “Cha tôi thích bản nhạc này lắm. Chủ nhật nào ông cũng nói: Hohannes, lại đây, hát đi con.”
Hắn cất tiếng hát bản nhạc mà Stavros và Vartan đã hát đầu câu chuyện này, bên sườn núi. Stavros phụ họa, và vừa hát, chàng vừa lấy chiếc khăn đội đầu cảu Vartan ra, chiếc khăn mà chàng luôn mang trên đầu, nhìn một lúc, rồi thả xuống biển.
Stavros: “Ngày mai, việc đầu tiên của tôi là kiếm một chiếc nón rơm mà người Mỹ hay đội.”
Ông Aratoon đã được Bertha cho nghe hết câu chuyện, và đã đến lúc ông hành động. Trong phòng ngủ của ông, vẫn nằm trên giường, ông bắt đầu hành hạ Stavros.
Aratoon: “Như vậy là ngày mai, vì anh không có ai bảo lãnh, cũng như không có nghề nghiệp bảo đảm, nhà chức trách sẽ trả anh lại nguyên quán. Bây giờ, tôi có thể tặng anh vài lời khuyên nhủ không? Anh nên đến trước ông Aleko Sinyosoglou, quì gối xuống, cố nhỏ ra vài giọt nước mắt dù là giả dối chăng nữa, cầm tay ông ta lên mà hôn, rồi xin lỗi ông ta. Ông ta sẽ cho phép anh trở lại. Con gái ông ta xấu quá, thành ra ông ta không còn cách nào khác. Được không?” Stavros im lặng. “Và từ những chuyện đáng buồn đó, nên nhớ lấy một bài học: khi anh buộc một người đàn bà phải chọn lựa, thì nàng sẽ chọn lựa tiền bạc. Đúng không?”
Stavros: “Nàng là một người tốt.”
Ông Aratoon: “Nàng đang ở phòng bên cạnh, dán tai sát vách để nghe hết mọi tiếng nói. Tại sao nàng lại im lặng? Tại sao?” Stavros lại im lặng. “Anh sẽ làm gì? Ê? Anh biết không, tôi chưa bao giờ thấy một khuôn mặt nào như của anh trừ trong nhà giam. Tôi có cảm tưởng là anh sẽ không ngừng lại ở một cái gì hết. Đúng không? Anh không có chút danh dự nào cả sao?”
Stavros: “Tôi chôn kỹ danh dự trong lòng tôi.”
Có một vẻ độc ác lộ ra trên nét mặt lão già.
Ông Aratoon: “Cái gì? Cái gì? Chôn kỹ trong lòng anh? Này trước đây anh là gì tôi không biết, nhưng bây gờ anh là một thằng điếm. Một chàng điếm đực! Bán trôn nuôi miệng! Anh hiểu không? Đừng đứng đó huýt sao. Tao đã thấy hàng trăm thằng như mày. Những thằng con trai bỏ nhà đi để tìm một đời sống tốt lành, nhưng chỉ càng ngày càng trở nên bẩn thỉu hơn. Mày ngừng huýt sáo kiểu đó lại ngay đi. Này, nói tao nghe thử: Ít lâu nay mày có soi mặt mày vào gương không? Hỏi thật mày, giả thử lúc này cha mày thấy mày, còn nhận được ra mày không? Ông ta còn biết mày là ai không?”
Những tiếng khóc uất nghẹn thốt ra từ cuống họng chàng trai, đứt quãng, và không giúp chàng thấy nhẹ đi được phần nào. Cánh cửa phòng bật mở, và bà Sophia chạy vào. Bertha đang đứng tại ngưỡng cửa. Bà Sophia: “Thôi! Thôi!”
Ông Aratoon: “Bà về phòng bà ngay lập tức.”
Trong hành lang ngoài phòng, hai thủy thủ và một người bồi đã được cắt canh gác.
Bà Sophia: “Đừng hành hạ anh ta như vậy nữa. Đừng hành hạ anh ta nữa. Anh ta đã làm cho đời sống của tôi trở nên phong phú, chỉ trong hai tuần lễ vừa qua, hơn là ông đã làm suốt đời ông!”
Stavros đẩy bà Sophia ra cửa: “Sophia, bà đỉ a ngoài đi.”
Sophia: “Ông ta không thể xử với anh như vậy được.”
Stavros: “Vậy là phải. Tôi đã đi quá xa. Cảm ơn bà đã đem tôi đến đây.”
Chàng đóng cửa lại, và đứng đối diện với ông Aratoon. Chàng cảm thấy nhẹ nhõm trong người phần nào, khi thấy vụ này đã kết thúc, mặc dầu bây giờ chàng lại phải tìm cho được một lối thoát cho riêng mình.
Stavros: “Này, ông Kebabian.”
Ông Aratoon: “À, té ra có lúc anh cũng phải mở miệng.”
Stavros: “Phải.” Chàng ngừng lại. “Tôi không có gì để nói cả.”
Ông Aratoon: “Anh còn nói gì được nữa? Sự thật là sự thật. Anh biết anh là hạng người gì rồi.”
Stavros: “Phải. Ngoại trừ…Này, ông Kebabian, tôi đã bị đánh đạp, bị đánh cắp, bị bắn, bị vứt bỏ coi như đã chết. Tôi đã phải ăn những đồ thừa vất cho chó, đã phải đuổi chó đi để giành giật. Tôi đã đi làm phu bến tàu…”
Ông Aratoon: “Bây giờ…! Bây giờ anh mới biết anh là hạng người gì...một tên phu!”
Stavros: “Phải. Thưa ông, phải. Nhưng bây giờ tôi đã đến được đây. Tôi đã được nhìn bờ biển và thành phố này từ xa. Ông tưởng có thể có một kẻ nào đủ sức ngăn cản không cho tôi đến đó sao?”
Ông Aratoon: “Tôi đang chờ chứng kiến đây”.
Stavros: “Tôi sẽ tìm được cách, tôi sẽ tìm ra một cách…” Chàng ngừng nói. Chợt hiểu ra ý nghĩa lời nói của lão già. “Ông nói sao? Sao?”
Ông Aratoon đưa cánh tay đang đưa ra định bấm chuông gọi bồi.
Ông Aratoon: “Tôi nói là tôi chờ chứng kiến. Tôi sẽ trông thấy người ta đưa anh trở về nguyên quán.”
Stavros chồm lên người lão già, một tay bụm miệng lão không cho lão la lên, tay kia bóp cổ lão, trước khi lão kịp bấm chuông. Bertha từ phòng bên kia bước vào.
Stavros: “Ông phải thề là sẽ không nói gì, không hành động gì!
Bertha đã chạy ra ngoài hành lang la lớn: “Bớ người ta, cứu cứu, cứu chủ tôi với.” Hai tên bồi và một thủy thủ nhào vào phòng. Stavros bị kéo ra khỏi lão Aratoon. Những quả đấm, chửi bới, náo loạn. Trong lúc đó. Bertha la hét “Đồ khốn nạn. Đồ khốn nạn.”
Ông Aratoon: “Thằng này đánh tôi. Hắn tính giết tôi. Hắn là một tên sát nhân.”
Một thủy thủ và hai tên bồi kéo Stavros ra khỏi phòng. Ông Aratoon đi theo sau.
Ông Aratoon: “Ê tên phu kia, đây là nước Mỹ. Mày nghe không? Nước Mỹ đây rồi. Bây giờ mày tính làm gì? Mày làm gì nói nghe thử? Ê, ê, tên phu kia.”
Bằng một phản ứng tuyệt vọng cuối cùng, chàng trai quay lại những kẻ đang lôi kéo chàng cào cấu, cắn xé, đấm đá. Nhưng lần này, họ đánh chàng nhừ tử, cho đến lúc chàng chịu khuất phục rồi kéo chàng ra khỏi phòng, lúc đó mềm nhũn, bất động.
Bác sĩ trên tầu là một người Đức nhỏ con, yếu đuối, mặc một chiếc áo trắng vấy bẩn. Ông cầm miếng bông thấm thuốc sát trùng. Rồi ông lại nơi Stavros nằm trên một cái võng trong phòng cứu thương của chiếc tầu, dành cho hành khách hạng ba. Hohannes cũng đang ở đó. Stavros rùng mình khi bác sĩ chậm thuốc vào các vết thương.
Ông bác sĩ: “Đáng lý không nên đánh người ta trên tầu. Đầu người không cứng như nó tưởng đâu. Thôi để cho nó nghỉ.
Hohannes: “Tôi sẽ ở lại đây với anh ấy.”
Giữa đêm, Stavros mơ cơn ác mộng đầu tiên của chàng. Hohannes nằm trên sàn tầu, bên cạnh chàng.
Stavros, thì thào: “Hohannes! Hohannes!”
Hohannes: “Gì đó? Có tôi đây.”
Stavros: “Cha của tôi còn ở đây không?”
Hohannes: “Cái gì của anh? Cái gì? Ờ…Không. Không có”
Stavros: “Vậy té ra…Người vừa rồi là ai vậy?”
Hohannes: “Bác sĩ.”
Stavros: “Ông ta có nghe không? Ông ta có nghe được chúng ta nói chuyện không?”
Hohannes: “Đừng lo. Ông ta ngủ rồi”
Stavros: “Cha tôi nói: chừng đó đủ rồi. Cha xấu hổ vì con. Cha xấu hổ vì những hành động của con. Hãy trở về, hãy bắt đầu lại.”
Chàng bật cười lớn: “Cười làm cho tôi đau nhức quá. Nhưng anh có tưởng tượng được không? Làm lại cuộc hành trình này một lần nữa? Trời đất!”
Hohannes: “Anh nằm mơ đó! Ngủ lại đi.”
Stavros: “Trời đất! Hohannes, anh có tưởng tượng nổi không?” Chàng bật cười và lại cảm thấy đau nức. “Hohannes ở lại đây với tôi.”
Hohannes: “Tôi ở lại đây nếu anh thức.”
Stavros mê dần đi. Nét mặt chàng tối sầm lại, và trông chàng có vẻ lo âu.
Stavros: “Anh biết sự thật chớ? Điều tôi thích nhất trên đời này là làm lại cuộc hành trình này một lần thứ hai. Sự thật là như vậy đó. Bắt đầu lại hoàn toàn, từ đầu…Ồ…ồ…”
Hohannes xúc dộng nhiều. Đột nhiên hắn lại lên cơn ho dữ đội. Hắn đảo mắt nhìn sang lão bác sĩ, lúc đó đã thức vì tiếng ho của Hohannes.
Bác sĩ: “Hắn ra sao?”
Hohannes sợ hãi: “Anh ta đang nằm mơ. Chuyện này chuyện kia.”
Bác sĩ: “Không có gì đáng ngạc nhiên. Hắn bị đánh trên đầu nhiều quá. Anh nên trông chừng hắn đi.”
Hohannes: “Vâng.”
Bác sĩ: “Hắn có thể làm một hành động điên rồ không chừng. Thôi, ngủ đi. Anh ho hơi nặng rồi đó. Ngày mai gắng đừng để cho người Mỹ nghe được anh ho. Bằng không họ sẽ trả anh về nguyên quán.”
Ngày hôm sau, trên boong tàu, đằng mũi, hành khách khó thấy được gì, vì sương mù khá dày. Chiếc The Kaiser Wilhelm chầm chậm chạy tới. Những tiếng ồn ào thông thường của một hải cảng vang đến tận tai mọi người. Giữa đám sương mù hiện ra tượng Nữ Thần Tự Do, làm như đang tiến lại phía tầu. Vừa thấy kho tượng, các hành khách đều đứng cả dậy. Có một âm thanh – hay chỉ là tưởng tượng? – âm thanh của một tiếng thở ra đồng loạt.
Một chiếc tầu kéo lớn chạy đến cặp vào sát mạn tầu. Những viên chức thuộc cơ quan y tế Hoa Kỳ chuẩn bị lên tầu.
Stavros bị băng ở đầu. Chàng giống như một kẻ tuyệt vọng điên cuồng sắp tự tử.
Một cậu bé đánh giầy được sai đi tìm Hohannes. Hắng gọi, vẫy, rồi gọi.
Hohannes định đi tới. Stavros kéo hắn lại, và thì thầm với hắn những lời căn dặn cuối cùng:
“Tại anh hồi hộp quá nên mới phát ho. Nhắm mắt lại đi. Tưởng như anh đã xây xong cái giếng. Và mẹ anh, cha anh nhìn anh biết ơn. Anh tưởng tượng được cái quang cảnh đó không?”
Hohannes: “Được. Được chớ.”
Stavros: “Tôi sẽ chờ anh ngay dưới hành lang. Ngay sau khi khám xong, đến gặp tôi ngay nghe.”
Chàng ra dấu cho Hohannes chạy đi, đẩy hắn đi, nhưng hắn quay lui.
Hohannes: “Nhưng rồi còn anh thì sao?”
Stavros: “Tôi có kế hoạch của tôi.”
Hohannes đến gần, thì thầm: “Kế hoạch gì?”
Stavros làm một cử chỉ giải thích rằng chàng sẽ nhảy xuống biển rồi bơi vào bờ.
Hohannes: “Anh bơi xa được vậy không?”
Stavros quay mặt đi: “Người ta nói rằng khi cần con người biết cách làm được bất cứ việc gì để cứu mạng sống mình.”
Hohannes: “Nếu anh không biết bơi, thì không thể nào bơi được.”
Stavros: “Anh nên đi đi thôi. Đi đi. Đi”.
Hohannes: “Nhưng nếu anh chết đuối?”
Stavros: “Còn hơn là phải trở về.” Chàng đẩy hắn đi. “Thôi đi. Họ chờ anh kia kìa.”
Hohannes cầm tay Stavros và hôn.
Hohannes: “Tôi sẽ đền ơn anh. Một ngày nào đó. Tôi sẽ đền ơn anh.”
Stavros, giọng gắt gỏng: “Nên thực tế một chút. Sau ngày mai chắc chúng ta không bao giờ gặp mặt nhau nữa đâu. Rồi anh sẽ quên tôi. Còn tôi? Tôi không biết sẽ ở đâu”.
Những cậu trai đánh giầy ngồi tụ tập trên mép giường trong phòng nhỏ của họ. Ông Agnostis và viên chức y tế công cộng đứng giữa phòng.
Ông Agnostis: “Cũng như năm ngoái vậy. Tám thằng nhỏ khỏe mạnh.”
Hohannes đang làm theo lời dặn của Stavros. Hắn áp một bên mặt vào gối, còn tay kia thì đưa lên che tai. Hắn tưởng tượng ra cái cảnh bên cái giếng, với cha mẹ hắn đang tỏ lòng biết ơn đối với hắn.
Ông Agnostis: “Tất cả đều con nhà tử tế cả. Sức khỏe hoàn toàn. Có công ăn việc làm, không có chi phải lo ngạ. Mọi việc đã kiểm soát hợp lệ cả.
Cuối hành lang, Stavros đứng chờ.
Đôi mắt Hohannes sáng rực lên vì cái quang cảnh trong tưởng tượng đó.
Viên chức y tế: “Tốt. Tốt.”
Ông bước ra khỏi phòng của những cậu trai đánh giày, và đi lại phía Stavros, sau lưng ông bắt đầu rộn lên những tiếng vui mừng.
Stavros chờ cho viên chức y tế đi ngang qua. Sau lưng ông ta những tiếng reo vui vẫn còn tiếp tục. Chợt chúng ta nghe được một tràng pháo ho, át tất cả mọi tiếng ồn ào khác: tiếng ho dữ dội của Hohannes. Stavros nghe tiếng ho đó, và chàng bỗng có ý nghĩa là chân viên chức y tế lại, giữ ông ta lại, để ông ta có thể nghe tiếng ho đó. Rồi ngay khi viên chức y tế lại sát chỗ chàng đứng, Stavros quay người, và áp mặt vào vách hành lang. Chàng đã chế ngự được cái ý nghĩa phản bội bạn. Bây giờ chàng áp mặt thật sát vào vách hành lang. Viên chức y tế đi qua chỗ Stavros đứng, bước vào cánh cửa sau lưng chàng.
Stavros vẫn áp mặt sát vách hành lang, run lên vì cơn xúc động khi nghĩ rằng suýt chút nữa chàng đã phản bội bạn. Hohannes sướng điên người, chạy ra khỏi phòng và đến gần Stavros, hoan hỉ tràn trề.
Hohannes: “Stavros! Stavros!”
Rồi hắn lại nổi cơn ho, lần này không thể nào dằn được. Lúc hắn đến bên Stavros, cơn ho làm cho hắn kiệt sức. Hắn ngã vào giữa đôi tay của Stavros, ngất xỉu.
Cánh cửa mà viên chức y tế vừa bước vào là cửa vào bệnh viện trên tầu, giành cho hành khách hạng ba. Viên chức y tế lúc đó nghe cơn ho, bên chạy ra cửa. Viên bác sĩ trên tàu bước theo sau. Bây giờ không ai nghi ngờ gì về số phận của Hohannes nữa.
Stavros vẫn ôm chặt Hohannes. Chàng nhìn viên chức y tế.
Trong phòng của các cậu trai đánh giầy, một cuộc họp đang diễn ra, và mọi người đều có mặt. Ông Agnostis nói với Stavros:
“Tôi nói với anh rồi, là tôi chịu thuê anh. Nhưng anh đọc đây, đây này. Văn kiện của chín phủ Hoa Kỳ. Không có tên anh. Anh muốn tôi vào tù sao chớ?”
Im lặng. Mọi người ngồi im.
Hohannes: “Thế tên tôi đi. Tôi xin ông. Để anh ấy lấy tên tôi, Hohannes Gardahian.”
Ông Agnostis: “Nhưng không thể có hai các anh được. Không thể nào lại có hai Hohannes Gardshian được. Thôi chịu thu đi. Cả hai anh trở về đi. Trở về với nhau cho đỡ buồn.”
Đêm đó, trên tàu mọi người đều ăn mừng. Sáng mai, bảy giờ, mọi người sẽ bắt đầu lên bờ. Đây là đêm cuối cùng các hành khách đánh giá cái tình bạn đồng hành trên một chuyến vượt biển.
Đầu mũi tầu, Stavros và Hohannes đứng sát vào nhau, choàng tay qua vai nhau.
Hohannes: “Bao giờ?”
Stavros: “Ngay khi mọi người ngủ say.”
Hohannes: “Tôi không muốn anh…”
Stavros quay lại mỉm cười với Hohannes, một nụ cười kẻ cả, quyết liệt, nửa như khinh khi, nửa như thương xót, một nụ cười cương quyết.
Một đám hành khách hạng nhất tràn lên mũi tầu. Những người đàn bà đều bận váy dài, màu sắc tươi sáng.
Một cô gái: “Đi hạng ba thơ mộng đó chớ.”
Người đàn ông: “Họ chiếm chỗ tốt nhất trên tầu.”
Hohannes: “Tôi quyết định rồi. Nếu anh nhảy xuống, tôi cũng nhảy theo…Tôi không biết bơi. Tôi sẽ đeo cứng anh. Tôi sẽ la lên. Tôi không thể để anh đi. Không thể được.” Hắn xuống giọng năn nỉ bạn. “Stavros, thôi đi, thôi đừng điên như thế nữa.”
Hắn khóc.
Những người ăn mừng đêm cuối cùng trong chuyến vượt biển đã đem những nhạc sĩ theo họ, và bây giờ đờn ca vang lên. Những hành khách hạng nhất bắt đầu khiêu vũ.
Stavros cảm thấy ghen tức, giận dữ, và uất hận. Chàng nhảy vào giữa đám người khiêu vũ, làm những bước nhảy và quay, điên cuồng kỳ lạ.
Một người: “Coi kìa. Coi ngoài kia kìa. Coi kìa.”
Stavros nhảy nhót và đá vào không khí như một người điên. Những tiếng hét man dại, điên khùng thoát ra khỏi miệng chàng. Bao nhiêu đau khổ dồn nến bấy lâu nay đã nổ tung ra.
Hohannes nhìn Stavros với lòng thương yêu tuyệt đối. Bây giờ Stavros quay như một giáo sĩ Hồi Giáo, chạy vòng quanh, đầu nghiêng sang một bên, đôi mắt sáng rực bằng một tia sáng cuồng nhiệt. Hohannes không một lúc nào rời mắt khỏi Stavros, chầm chậm đứng lên. Stavros càng lúc càng tuyệt vọng hơn lên. Hohannes đột ngột quay mặt đi nhìn xuống biển. Hắn có một ý nghĩa bất chợt. Hắn nhìn xuống mặt biển đen trong vịnh. Cứ mỗi lần nói: “Trước khi cơn bệnh này đánh ngã tôi!” Hắn lại đưa tay nhẹ đặt lên ngực. Bây giờ hắn làm cử chỉ này lần cuối.
Stavros làm cho mọi người khâm phục. Họ reo hò ầm ĩ.
Không để ai thấy, Hohannes trèo qua lan can tầu, rồi để thân thể rơi xuống mặt nước đen ngòm.
Những hành khách hạng nhất vỗ tay reo hò ca tụng Stavros. Ngay lúc đó, chàng ngừng hẳn lại. Chàng không muốn nhận bất cứ một thứ gì từ tay họ, kể cả sự ca tụng. Chàng nhìn họ bằng ánh mắt thú ghét. Rồi chàng hét lên: “Lạy Chúa!” và bỏ đi.
Hohannes khiếp sợ khi xuống nước. Hắn bắt đầu lên cơn ho. Hắn chìm xuống, rồi nổi lên, rồi ho, và mất sức rất mau. Hắn chìm hẳn.
Những người ăn mừng chạy theo Stavros, yêu cầu chàng khiêu vũ nữa, những cô gái tán tỉnh, liếc mắt với chàng trai man dại, níu kéo không cho chàng đi.
Trên mặt nước đen ngòm, không còn chút dấu vết nào của Hohannes.
Stavros gỡ đám đông ra, bước đến chỗ chàng vừa đứng với Hohannes. Chàng nhìn quanh tìm kiếm, gọi khẽ: “Hohannes! Hohannes.”
Những hành khách hạng nhất đang lên bờ. Ban nhạc trỗi một bản nhạc vui. Những hành khách hạng ba đứng nhìn theo. Họ chờ đến lượt họ.
Tám cậu trai đánh giầy, bây giờ Stavros thay vào chỗ Hohannes, đang nhìn theo những hành khách hạng nhất rời tầu. Bà Sophia và ông Aratoon đang đi xuống cầu thang. Không ai nhìn lui, Stavros không mong chờ được chào từ biệt. Có một bàn tay vỗ nhẹ lên vai.
Đó là cô tớ gái Bertha. Vội vàng, cô ta đưa cho chàng một gói giấy và một phong thư.
Bertha: “Của bà Kebabian.”
Cô ta quay gót chạy đi. Stavros mở gói giấy lôi ra một chiếc nón rơm đàn ông. Chàng nhìn chiếc nón, mỉm cười, đội lên đầu. Chàng khẽ reo: “Lạy Chúa!” Rồi chàng mở phong thư ra. Bên trong có một tờ giấy bạc. Không có gì khác. Ông Agnostis và các cậu trai kia xúm quanh.
Ông Agnostis: “Ồồồồ! Năm mươi Mỹ Kim.Ồồồồ!”
Trong dãy nhà dành cho di dân ở khu Ellis Island, ba hàng người sắp hàng trước ba chiếc bàn. Trước một phong ba chiếc bàn, tám cậu trai đánh giầy đang đứng, do ông Agnostis hướng dẫn. Bây giờ đã đến phiên họ. Stavros đội chiếc nón rơm. Ông Agnostis thì cầm các giấy tờ của ông ta, và bây giờ ông ta đưa ra trình viên chức cơ quan Di Dân ngồi sau bàn. Viên chức này đã từng gặp ông Agnostis trước đây rồi.
Viên chức: “Ồ, xem những ai đây! Lại thêm tám thằng nhỏ nữa. Chúng sang hoài, sang hoài. Mấy tên nô lệ nhỏ của ông sao?”
Ông Agnostis cười gượng gạo. Mấy cậu trai nhìn lo lắng.
Viên chức: “Sợ hết hồn phải không?”
Ông ta quay sang viên chức ngồi bàn gần đó: “Jack! Cái tên mà chúng ta đang tìm kiếm là ai vậy – người Hy Lạp – phải không? Vì tội hành hung, phải không?”
Stavros nhìn chằm chằm. Ông Agnostis cúi xuống, làm bộ thắt lại nút giầy. Ông ta lồng trong bàn tay một tờ mười Mỹ kim, và đưa về phía gã viên chức nhà nước. Ông kia đưa tay cầm lên. Trong lúc đó…
Jack: “Trong tờ giấy vàng ấy mà.”
Stavros đang nhìn tờ mười Mỹ kim và đôi chân cảu gã viên chức nhà nước.
Stavros: “Lạy Chúa.”
Tiếng kêu chuông lớn lắm. Gần như một tiếng lẩm bẩm. Nhưng đó là lời phản kháng. Giấc mơ của chàng đang bị phá tan.
Viên chức nhà nước nhìn Stavros. Rồi ông mỉm cười một cách kỳ lạ. Ông ta lấy tờ giấy vàng ra. Viên chức nhà nước, đọc hơi sai: “Stavros Topouzoglou. Ai trong mấy người có tên đó?”
Ông Agnostis: “Thằng đó chết đêm qua.”
Viên chức: “Còn mày, mày tên gì?”
Ông ta nhìn Stavros.
Ông Agnostis: “Hohannes.”
Viên chức: “Tôi không hỏi ông. Hắn nói được, nói được không? Mày tên gì?”
Bây giờ Stavros đã hiểu: “Hohannes Gardashian.”
Viên chức: “Mày muốn trở thành công dân Mỹ không?”
Ông Agnostis: “Có. Thưa có. Có”
Viên chức: “Vậy thì việc trước tiên là phải đổi lại cái tên đó. Mày có muốn có một cái tên Mỹ không?”
Ông Agnostis ra hiệu cho Stavros đồng ý đi, nhưng Stavros không hiểu. Chàng lặp lại mạnh bạo: “Hohannes Gardahian.”
Viên chức: “Tao biết rồi.”
Stavros gần như hét lên: “Hohannes!”
Viên chức nhà nước vội vàng: “Đủ rồi, Hohannes. Mày chỉ cần chừng đó là được.”
Ông ta viết loáy ngoáy gì đó lên giấy rồi trao cho Stavros.
Viên chức: “Đây này. Mày có đọc được không?”
Dĩ nhiên là Stavros không đọc được. Ông Agnostis đến gần và đọc: “Joe Arness.” Rồi ông chợt hiểu ra, lẩm bẩm: “Hohannes Joe Arness. Hohannes. Ông quay sang Stavros: “Joe Arness. Joe.”
Stavros lặp lại: “Joe.”
Ông Agnostis: “Arness.”
Stavros: “Arness.”
Ông Agnostis: “Joe Arness.”
Stavros gật đầu tỏ ý đã hiểu: “Joe Arness”.
Ông Agnostis nói với vieenchuwcs: “Tuyệt!”
Viên chức nhà nước hãnh diện, quay sang Stavros: “Mày thích tên đó không?”
Stavros gật đầu, làm dấu hiệu: “Joe Arness. Joe Arness. Hay! Hay tuyệt.”
Viên chức nhà nước: “Bây giờ kể như mày được sống lại. Mày được rửa tội, đặt tên lại. Lại khỏi cần cha cố chi cả. Đến phiên người kế tiếp.”
Ông Agnostis và tám cậu trai dùng đó đi lên khu phố Mahattan. Dãy nhà di dân trên đảo Elhs bây giờ trốn trơn, ngoại trừ ba viên chức nhà nước. Họ đang nhìn xuống một vật: tấm chăn phủ lưng khuân vác của Stavros.
Viên chức thứ hai: “Cái quái gì đó vậy?”
Viên chức kia: “Ờ…chắc là món đồ gì một trong mấy đứa kia bỏ lại.”
Trên đó.
Stavros: “Té ra ở đây cũng vậy! Họ cũng ăn tiền.”
Ông Agnostis: “Bất cứ ở đâu con người cũng ăn tiền. Nhưng mày có thấy hắn nhảy dựng lên khi mày nói không? Mày có thấy hắn nhảy dựng lên không?”
Stavros: “Có. Lạy Chúa!”
Ông Agnostis cười lớn. Và Stavros bây giờ cũng cười theo, tiếng cười đầu tiên vô tư, tự do thốt ra từ miệng chàng trai kể từ khi chàng bỏ nhà ra đi. Rồi những cậu trai kia cũng họa theo, cười lớn.
Tám cậu trai đi xuống chiếc cầu ván, rồi đến ông Agnostis. Stavros đi đầu đám. Chàng quì xống đất và cúi mặt hôn lên đất. Rồi chàng đứng lên và hét lớn một tiếng reo mừng.