← Quay lại trang sách

THAY LỜI TỰA SỰ LIỀU LĨNH CỦA MỘT CAO THỦ ĐIỆN ẢNH-S.N. Behrman-

Ông S.N.BEHRMAN là một soạn giả truyện phim, kịch tác giả, giám đốc sản xuất và các địa hạt này đều lỗi lạc và thành công lớn. Ông được coi như một thứ sư tổ của điện ảnh Hoa Kỳ. Elia Kazan thì bắt đầu bằng sự nghiệp đạo diễn, rồi viết truyện phim, viết đối thoại, và cuối cùng mới vào sự nghiệp văn chương bằng cuốn VÙNG TRỜI MƠ ƯỚC nguyên tác mang tên: AMERICA AMERICA và nối tiếp bằng hai cuốn TRỞ LẠI THIÊN ĐƯỜNG và NHỮNG KẺ SÁT NHÂN nguyên tác: THE ARRANGEMNET và THE ASSASSINS. Tất cả ba tác phẩm của Elia Kazan đều được quay thành phim, do chính tác giả đạo diễn, và được coi là những cuốn phim có giá trị lớn của nền điện ảnh Tây Phương. Sau đây lời giới thiệu tác phẩm thứ nhất của Elia Kazan, do giám đốc điện ảnh S.N.BEHRMAN viết trong những niềm khắc khoải thú vị nhất, chúng ta phải kể được một người bạn thân chưa từn viết lách gì, trao cho một tác phẩm để nhờ phê bình. Nếu người bạn đó lại là kẻ đã có một tiếng tăm lừng lẫy trên một địa hạt gần gũi với sự nghiệp của mình, thì niềm khắc khoải đó lại được cộng thêm một chút gì tế nhị. Lúc ông Kazan yêu cầu tôi đọc cuốn America America, tôi nhờ ngay đến cái giai đoạn mà văn hào Somerst Maugham kể cho tôi nghe, về người bạn của ông, là Winston Churchill. Khoảng năm 1910, Maugham đã đột ngột nổi tiếng như một kịch tác gia. Ông đang có bốn vở kịch cùng được trình diễn một lúc trên các sân khấu Luân Đôn. Trong một bữa tiệc cuối tuần, Churchill nói với ông ta là ông đang có một ý kiến tuyệt diệu cho một vở kịch. Maugham lo sợ khuyên Winston viết ra đi, và đề nghị một ông bầu – ông bầu của chính Maugham, Charles Frod – man – để nhận đọc bản thảo. Sự thực thì Maugham đề nghị gửi ông bầu đến thẳng với Winston. Ông đề nghị bất cứ việc gì, ngoại trừ việc phải đọc bản thảo của bạn mình. Nhưng Churchill thì nhất định đòi thảo luận với Maugham. Đây là một kinh nghiệm cá nhân, và vì ông quá bận bịu (đang làm thủ tướng) không thể viết được, nên muốn thu xếp để hợp soạn với Maugham.

Vậy là không còn cách gì khác. Hai người bèn hạn nhau dùng bữa tối ở nhà hàng Athe-nacum. Maugham đã chờ đợi buổi chiều đó, trong cái tinh thần tôi chờ đón cuốn America America. Cái ý của Churchill tỏ ra rắc rối hơn là uyển chuyển: ông đã thuê bao một phòng trên chuyến tàu hỏa đêm đi Edimburg, và ông vào phòng vệ sinh. Lúc ông cố mở cửa để đi ra, thì cửa kẹt không chịu mở. Ông đấm cửa nhưng vô ích. Những tiếng động của đoàn tàu át tiếng đập cửa của ông. Đoàn tàu lảo đảo và ông lo sợ tàu có thể gặp tai nạn. Ông không sợ cho cá nhân lắm nhưng lo sợ rằng một ý kiến mà ông vừa phát hiện về một giải pháp cho một cuộc khủng hoảng chính trị nào đó có thể bị uổng phí.Vì vậy ông ghi vội cái ý kiến đó lên một tờ giấy trong sổ tay, mà ông thường mang theo trong túi, rồi thả xuống khe hở của toa xe, để ý kiến không bị mất mát và làm thiệt hại nặng cho thế giới. Thế đó. Bất cứ ai đã nhận được “những ý kiến tuyệt diệu” cho những vở kịch từ những tay tài tử đều phải công nhận rằng đây là một ý kiến có nhiều hứa hẹn hơn tất cả. Đối với Maugham thì nó lại không đủ hứa hẹn.

Có nhiều trò giải trí văn nghệ say mê hơn là đọc bản thảo của kẻ khác, Lúc cuốn America America đến tay tôi, thì tôi đang bận rộn đạo diễn phim The Guns of August. Tôi cảm thấy bực mình. Điều làm cho tình trạng đặc biệt này trở nên khắc khoải hơn nữa, là vào lúc đó tôi đang cố gắng – tôi đoán chừng tất cả những kẻ viết truyện phim đương thời cũng như tôi – nài nỉ ông Kazan đứng ra đạo diễn cuốn phim của tôi. Lúc ngồi lại với đứa con không được mong muốn, tôi tự hỏi, tại sao một nhà đạo diễn đắt giá nhất, được mời mọc nhất thế giới lại phải đi viết văn! Trong lúc suy nghĩ về chuyện trái cựa đó, tôi cầu nhầu một mình: “Tôi có khoái đạo diễn đâu! Tôi thích viết thôi. Vậy tại sao Kazan lại viết văn?” Nhưng tôi bị cưỡng bách, cũng như Maugham bị cưỡng bách trong nhà hàng Athanaeum, và tôi đành phải đọc.

Nhưng nếu không có niềm khắc khoải nào thú vị bằng chờ đợi thì cũng không có thú vị nào khoái trá hơn cái kinh ngạc của khám phá – niềm vui sướng của kẻ đi tìm mỏ vàng vừa khám phá ra một mỏ vàng không pha trộn. Ít lâu sau, tôi nghe nói Tennessee Williams cũng đã trải qua một kinh nghiệm với cuốn America America tương tự như kinh nghiệm của tôi. Ông nói: “Tôi không muốn đọc cuốn đó, và gác sang một bên, cho đến lúc tôi không có gì để đọc nữa tôi bèn phải đọc vậy, và bạn biết gì không, thật TUYỆT!” Sự hoài nghi của tôi kéo dài một lúc khá lâu: độ sáu mươi trang đầu, tôi vừa đọc vừa lẩm bẩm: Hay, tuyệt nhưng chắc là ông ta không thể duy trì trình độ này mãi được. Thế nào, rồi ông ta cũng sụm. Nhưng đến trang sáu mươi, thì đành đầu hàng cuốn America America, và đắm mình vào trong câu chuyện. Đề tài thật gần gữi với tôi, gần gũi đặc biệt. Bản thảo đem lại một sự khai triển và soi sáng cho những băn khoăn của riêng tôi bao nhiêu năm nay.

Đề tài là di dân. America America kể câu chuyện của một gã Hy Lạp Stavros, sống với một chế độ độc tài tàn bạo trên quê hương gã, và là câu chuyện của những nỗ lực phi thường của gã đến vào quốc gia này. Sự say mê nồng cháy, bản tính sắt thép, và ý chí sắt thép cần phải được gắn liền lại với nhau thì mới có thể làm cho cuộc vượt thoát được thực hiện – một trường bản ca về những trở ngại không thể tưởng tượng nổi từ năm 1620 đến hôm nay, trong đó, riêng những khó khăn về thủ tục thôi cũng đã khủng khiếp lắm rồi – đó là những bí mật mà tôi từng suy ngẫm, từ ngày nào tôi có thể nhớ nổi.

Tôi ra đời trên quốc gia này, nhưng cha mẹ tôi, và các anh tôi là những di dân từ vùng Memel, ở đó, họ đã sống trong cơn ác mộng của những hà khắc của Nga Hoàng. Lúc còn là một cậu bé ở Worcester, Massachusetts, tôi hỏi cha mẹ tôi về cuộc mạo hiểm di cư của họ, nhưng tôi chưa bao giờ khám phá ra được gì nhiều. Tôi đã luôn luôn băn khoăn, cố gắng thêu dệt những hành lang đen tối trong đời sống như trước khi họ đến đất này. Lúc tôi thấy, trong đoạn đầu câu chuyện của ông Kazan, những người lính Thổ Nhĩ Kỳ châm lửa đốt Nhà Thờ, trong đó những người Hy Lạp và Armenia khiếp sợ đang xúm lại cầu nguyện xin Chúa cứu họ khỏi ngọn lửa sắp thiêu đốt họ trong ngôi thánh đường của họ, thì tôi hiểu cha mẹ tôi đã cảm nghĩ như thế nào. Trong những chuyến đi Âu Châu sau này, tôi đã gặp - ở Anh, và Ý, và ở Đức sau Đệ Nhị Thế Chiến – niềm khát vọng của người dân muốn sang Mỹ, nhưng cái khát vọng đó có xuất xứ từ hy vọng cải thiện tình trạng kinh tế. Nhưng đối với những người dân của Stavros, cũng như những người dân của tôi, đây là một vấn đề sinh tử. America – Hoa Kỳ - biểu hiện cho một chỗ trú an toàn mà không một thứ lãnh chúa nào có thể châm lửa đốt. Động cơ này đã là động cơ đầu tiên của nhiều đợt di dân từ Âu Châu. Nó dệt thành bức họa linh động của cuộc sống trên quốc gia này, trong một màng lưới rộng lớn của những trí nhớ chủng tộc. Tôi chưa bao giờ được thấy nó được viết thành bi kịch. Thật là lạ lùng vì đã không có ai làm việc đó. Ông Kazan đã làm. Và không cần ai phải làm lại.

Lần đầu tiên tôi đọc cuốn America America, thì cuốn sách còn mang tựa đề là Nụ Cười của chàng Anatolia. Cái tên sách nhắc nhớ đến nụ cười của Stavros dùng để đương đầu với thế giới thù nghịch.Nụ cười nhường nhịn, nụ cười cầu hòa, nụ cười xin tha thứ. “Lạy quan, lạy các quan da trắng, con có làm gì đâu” nhân vật Mylas, một người da đen trong tác phẩm của Faulkner đã nói cậu đó với những người bắt hắn ta, những người không thèm cho hắn ta biết hắn bị tố cáo vì tội gì. Mãi cho đến đoạn kết cục trong diễn trình làm tình của Stavros, vào cuối truyện, Stavros mới cười lớn tiếng tự nhiên. Cho đến giây phút đó, chàng chỉ biết cười bằng nụ cười “thưa quan, con có làm gì đâu” với những kẻ thù lạnh lùng, cũng như trong tác phẩm của Kafka, để xin tha thứ một tội ác không tên. Tội ác của bất cứ một dân thiểu số nào vì đang ở đay, mà không nơi khác, vì có sự sống. Nụ cười thường xuyên của Stavros là một lời xin tha thứ vì cái trọng tội Sống.

Kazan đã tạo ra (có thể đã nhớ lại) những nhân vật thật đặc biệt và sống động. Ông tạo ra, hay nhớ lại, thì chúng cũng là những tác phẩm của ông. Trái với Candide (Voltaire) ngu đần, Stavros lại thông minh. Chàng thoát lên từ sự ngây thơ, chàng học những bài học sống ở đời, trong đó có bài học anh phải giết người trước khi người giết anh. Trên đường đến Constantinople, đi qua những lưới nhện tham nhũng, Stavros gặp một nhân vật tướng cướp thật tuyệt diệu, nói với chàng:

“Mày chỉ biết mỉm cười và nuốt ục xuống. Chỉ là một đống phân. Tao đã giết những người như mày mà không khác gì giết một con cừu. Chỉ cần thọc một chỗ nào, thế là sự sống thoát ra. Giẫy dụa vài cái và thế là xong. Uống đi. Không. Dĩ nhiên, Mày không uống rượu. Mày không tranh đấu. Mày không ích lợi gì với đàn bà. Như vậy mày là hạng người gì vậy”?

Stavros đã trả lời cho tên tướng cướp biết. Chàng giết hắn. Đây là một vụ sát nhân làm người đọc hài lòng nhất trong văn chương.

Khi chàng sát nhân trẻ tuổi, cuối cùng đến được Constantinople, trong túi không còn đồng xu, thì thời kỳ tôi luyện trong lò đời của chàng bắt đầu. Chàng trỏ thành của một phần rác rền thành phố. Nhưng cái rác rền đó cũng rực sáng lên, không phải chỉ nhờ thối rữa, mà còn nhờ nhân tính. Chẳng hạn Gabaret – một nhân vật được xây dựng một cách tuyệt diệu – thương Stavros và muốn giúp cho chàng khỏi đói về tình dục, nếu có phải đói về các món khác. Nhưng cái tình thương của hắn làm cho Stavros mất hết số tiền dành dụm bé nhỏ của chnafg để mua vé tàu đi Mỹ, thêm một lần nữa. Đã thoát khỏi tất cả các ảo tưởng, Gabaret muốn giáo dục Stavros. Hắn nói: “Này, nói nghe, từ khi anh bỏ nhà đi, anh đã gặp người nào trong những người Công Giáo của anh một tín đồ (thực) của Chúa không? Anh đã gặp giữa rừng người, một người nào không?”

Stavros trả lời:

- Ông.

- Tôi! Anh có nhìn vào mặt tôi không? Anh không biết tôi. Anh không biết tôi là ai…Tôi có một tư tưởng về thế giới này. Phá hủy đi và bắt đầu lại hết. Quá nhiều bụi bặm nên không thể dùng một cái chổi để mong quét sạch. Cần phải có một mồi lửa. Cần phải có một trận lụt.

Từ đáy vực, Stavros chồi lên cái thế giới buôn bán tháo vát. Và ở đây, Kazan cố gắng tạo ra một bầu không khí hiền hòa, thật hấp dẫn, của một gia đình trưởng giả, và hình ảnh dễ thương của một nhân vật nữ buồn phiền khiêm tốn ít được ai đề cập đến: Thomna. Một khi chàng không thể kiếm ra tiền để mua vé tầu đi Mỹ bằng sức lao động cực nhọc, Stavros quyết định cưới số tiền đó. Thomna là một cô gái dễ thương, nhưng tội nghiệp thay, có một chiếc mũi dài. Bà cô của Stavros ở nhà, nhìn bức hình của Thomna nói: “Thiên hạ nói một chiếc mũi dài là dấu hiệu đức hạnh.” Và ông chú trả lời: “Với một chiếc mũi như thế, đức hạnh là điều không thể tránh được.” Trong giới trưởng giả ở Constantinople, Stavros gặp một nhà triệu phú Mỹ buôn thảm và Sophia, vợ của lão ta, và hai người này đã có công giáo dục chàng thêm, và góp phần giúp chàng đào thoát. Những nhân vật sôi sục sức sướng. Cả nhân vật bị hy sinh, Hohanness mà cái chết sẽ trở nên chìa khóa cửa cho đời sống của Stavros.

Xin nói một lời về văn chương, đã làm tôi sửng sốt: với sự đơn giản và cô động tình cảm, nó như thể văn của Thánh Kin. Gia đình Stavros rất sùng đạo theo truyền thống Thiên Chúa Giáo. Họ ít nói, nhưng những gì họ nói rực sáng vì những cảm xúc. Trong cuốn sách này không có một tiếng nào – gần như – mà không rực sáng cảm xúc, ngây thơ trong đoạn đầu, và phức tạp hơn khi nhân vật trẻ của chúng ta bắt đầu cuộc phiêu lưu, nhưng suốt cuốn truyện, những tiếng mà các nhân vật nói ra có vẻ như tiết ra thành một chất rượu cay nồng từ một giòng suối ngầm nào của kinh nghiệm cay đắng và của dục vọng dấu kín. Đây là một lời than vãn chung cho hai vùng đất – cho vùng đồi núi nắng ấm của quê hương Anatolia, và cho vùng đất kia, vùng đất chưa được thấy, bờ biển tỏa ánh vàng chưa được khám phá và khó đạt tới: Hoa Kỳ - thổn thức như tiếng khóc của David khóc Absalon. Chàng trai Stavros bị giằng co vì hai miền thương nhớ quê hương: cho quê hương mà chàng đã bỏ đi, và cho quê hương mà chàng đang tìm kiếm. Nhưng đây cũng có một niềm hứng thú lớn. Stavros đã thành công.

Và Kazan cũng thế.

S.N. Behrman