← Quay lại trang sách

PHẦN I *JANE* BRADGATE HOUSE, GROBY, LEICESTERSHIRE-MÙA XUÂN NĂM 1550

Tôi yêu cha vì tin rằng người là bất tử, và tôi cũng thế. Chúng tôi được Chúa chọn để bước đi trên con đường của Người. Chúng tôi sẽ không bao giờ lạc lối khỏi sự che chở của Người. Chúng tôi không phải tìm chỗ cho mình trên thiên đàng bằng cách hối lộ Chúa bằng lời nói, hành động hay dâng những món của lễ xa xỉ. Chúng tôi không phải ăn bánh thánh mà giả vờ là thịt, uống rượu nho mà nghĩ là máu. Chúng tôi biết điều xuẩn ngốc đó chỉ dành cho những kẻ mê muội và là cái bẫy đối với những con chiên ngoan đạo nhưng ngu dốt. Hiểu biết này là niềm tự hào và là vinh quang của chúng tôi. Chúng tôi tin rằng, cũng như ngày càng có nhiều người tin rằng, chúng tôi đã được cứu rỗi và tất cả mọi người đều được như thế. Chúng tôi không lo sợ gì, vì chúng tôi không bao giờ chết.

Thành thật mà nói, cha tôi rất trần tục: trần tục một cách tội lỗi. Tôi ước gì người cho tôi được gột rửa linh hồn người, nhưng thường người chỉ nói: “Đi đi, Jane, đi mà viết cho những người bạn của chúng ta, những nhà cải cách tôn giáo Thụy Sĩ. Cha còn nợ họ một bức thư – hãy viết giúp cha”.

Cái sai của cha tôi là người luôn lảng tránh các buổi thuyết giảng giáo lý, nhưng đó chỉ là tội lơ là không chủ ý. Tôi biết ông dành cả trái tim và tâm hồn mình cho chân giáo1*. Tuy nhiên, tôi phải luôn nhớ rằng người là cha tôi và tôi phải vâng lời người, bất luận ý kiến hay quan điểm riêng của tôi thế nào. Đức Chúa Trời, Đấng nhìn thấy mọi sự, mới là người phán xử tối cao. Nhưng Người đã nhìn thấy cha tôi và đã tha thứ cho ông. Cha tôi được cứu rỗi nhờ đức tin của người.

1* . True religion.

Tôi e rằng mẹ tôi sẽ không được cứu khỏi hỏa ngục, và em gái tôi, Katherine, chín tuổi, nhỏ hơn tôi ba tuổi, gần như chắc chắn không bao giờ được Chúa cho sống lại ngày sau. Nó ngốc không thể tưởng tượng. Nếu mê tín, có lẽ tôi đã tin rằng nó bị quỷ ám, thật vô phương hy vọng! Còn Mary, cô em út bé bỏng của tôi, sinh ra đã mắc tội tổ tông2* mà không có cách chi được giải thoát. Em ấy đẹp như một bản sao thu nhỏ của Katherine. Người em ấy bé xíu như búp bê. Lẽ ra mẹ tôi đã đưa em ấy đi thật xa để nuôi dưỡng cách biệt khỏi chúng tôi, để chúng tôi không xấu hổ vì em ấy, nhưng bởi cha tôi quá thương đứa con út bé bỏng của người, nên em được ở lại cùng chị em chúng tôi. Em ấy không phải là một đứa ngốc. Em ấy học giỏi, thông minh, nhưng chẳng có ý niệm gì về ơn Chúa; em ấy không phải là một trong những người được Chúa chọn, như cha và tôi. Một người như em ấy, người mà sự trưởng thành đã bị hủy hoại bởi quỷ Satan – cần đặc biệt sốt sắng nguyện cầu mới mong được cứu rỗi. Tôi nghĩ một đứa trẻ năm tuổi còn quá nhỏ để chối bỏ thế giới – nhưng hãy nhớ rằng mới bốn tuổi tôi đã học tiếng Latin cơ đấy – và Chúa Giêsu của chúng tôi khi ở vào tuổi tôi đã vào đền thờ Do Thái và đàm luận với các đạo sĩ. Nếu người ta không đi theo con đường của Chúa từ khi còn nằm nôi thì khi nào họ mới bắt đầu chứ?

2* . Theo giáo lý Thiên Chúa giáo, con người chịu “Tội tổ tông” do Adam và Eve gây ra vì phản nghịch Chúa và bị đuổi ra khỏi Vườn Địa đàng.

Tôi bước vào đường học hành lúc còn rất bé. Có lẽ tôi là đứa trẻ nhỏ tuổi nhất đi học trên toàn Vương quốc Anh. Tôi được nuôi dạy trong môi trường tân giáo vốn được ưa thích bởi các học giả vĩ đại và Hoàng hậu Kateryn Parr. Có lẽ tôi là đứa học trò trẻ nhất và là cô gái có học thức nhất châu Âu cũng nên. Tôi không nghĩ rằng dì tôi, Công chúa Elizabeth, là học trò đúng nghĩa, bởi vì có nhiều người được gọi nhưng ít người được chọn. Elizabeth tội nghiệp không có dấu hiệu của việc được lựa chọn, và chuyện học hành của dì ấy rất tầm thường. Dì ấy muốn được xem là người thông minh, muốn làm vui lòng các gia sư và muốn tự mình tỏa sáng. Tôi thậm chí phải giữ mình để không mắc tội kiêu ngạo, mặc dù mẹ tôi bảo – tuy có phần thô bạo – rằng tôi nên giữ mình trước hết để không biến thành một kẻ gàn dở. Nhưng khi tôi giải thích với bà rằng dì ấy đang phạm tội, bà đã xách tai tôi và dọa dần cho tôi một trận. Tôi sẵn sàng chịu đòn vì lòng tin của mình, như Thánh nữ Anne Askew đã từng chịu như vậy, nhưng tôi nghĩ một lời xin lỗi sẽ làm vui lòng Chúa hơn, thế là tôi nhún gối cúi mình ngồi vào bàn ăn tối, nơi có một chiếc bánh lê nướng thơm lừng, món yêu thích của tôi.

Thực sự không dễ gì làm một ngôi sao sáng tại Bradgate. Đó là một nơi ngụ cư hết sức trần tục của đại gia đình chúng tôi. Một tòa nhà nguy nga tráng lệ bằng gạch đỏ trông như Cung điện Hampton3* với cổng chính to lớn sừng sững nằm giữa khu rừng Charnwood rộng lớn. Chúng tôi nắm mọi quyền lực cao nhất của hoàng gia. Mẹ tôi4* là con gái của Công chúa Mary Tudor5*, về sau là Hoàng hậu Pháp quốc, người em gái được sủng ái của Vua Henry VIII, vì vậy mẹ tôi thuộc hàng kế vị ngai vàng nước Anh sau những người con của Đức Vua6*, gồm người cậu họ Edward và hai người dì họ của tôi, Công chúa Mary và Công chúa Elizabeth, những người thừa kế thuộc hàng sau em trai mình, Hoàng tử Edward7*. Điều này biến chúng tôi trở thành gia tộc quan trọng bậc nhất nước Anh và chúng tôi không bao giờ quên điều đó. Chúng tôi có hơn ba trăm người hầu chỉ để phục vụ năm thành viên gia đình. Chúng tôi có một chuồng ngựa đầy những con ngựa đẹp và sở hữu những cánh rừng quanh dinh thự cùng các trang trại, làng mạc, sông ngòi và ao hồ ngay trung tâm nước Anh.

3* . Cung điện Hampton là cung điện hoàng gia ở Richmond, London, gần sông Thames. Hoàng gia Anh không còn sinh sống tại cung điện này từ thế kỷ 18.

4* . Mẹ Jane Grey là Frances Brandon. Frances Brandon là con của Mary Tudor với người chồng sau, Charles Brandon, công tước Suffolk.

5* . Vua Henry VII (1457 – 1509) cưới Elizabeth xứ York (1466 – 1503) và sinh ba con: Arthur Tudor Hoàng tử xứ Wales; Henry Tudor, tức Vua Henry VIII; và Mary Tudor, tức bà ngoại của Jane Grey.

6* . Tức Vua Henry VIII (1491 – 1547).

7* . Tức Vua Edward VI (1537 – 1553).

Chúng tôi có con gấu để làm mồi nhử khi đi săn, được nhốt trong hầm gấu riêng, và chúng tôi có sân chọi gà riêng. Dinh thự của chúng tôi là một trong những dinh thự lớn nhất vùng trung tâm nước Anh, được thiết kế với một đại sảnh cao rộng có phòng hòa nhạc một bên và chính điện ở phía bên kia. Vùng nông thôn đẹp nhất nước Anh là của chúng tôi. Tôi được dạy rằng tất cả đất đai này thuộc về dòng họ chúng tôi, cũng như chúng tôi chính là nước Anh.

Tất nhiên, giữa mẹ tôi và ngai vàng là ba người con hoàng tộc: Vua Edward, 12 tuổi như tôi, và ngài cai trị với sự trợ giúp của một thừa tướng; kế đến là hai Công chúa Mary và Elizabeth, những người chị của ngài. Đôi khi mọi người không xem hai công chúa là người thừa kế ngai vàng, vì cả hai đều không ra gì và bị chính cha mình từ chối. Thậm chí họ cũng không được xem là thành viên hoàng tộc nhưng vì lòng bác ái Kitô giáo của Hoàng hậu Kateryn Parr đáng kính, vụ việc của họ được mang ra tòa để họ được thừa nhận. Không may là, Công chúa Mary (xin Chúa tha thứ cho dì ấy) bị tuyên là một Kitô hữu theo Công giáo La Mã nên bị xem là kẻ dị giáo, và dù tôi buộc phải yêu thương dì ấy như những người ruột thịt, thật khiếp khi tôi phải ở trong ngôi nhà của họ, nơi dì ấy thường bỏ ra hàng giờ mỗi ngày để thờ phụng Chúa, như thể dì ấy đang sống trong tu viện chứ không phải trong một vương quốc Cải cách, vì phần lớn nước Anh dưới thời Vua Edward theo Tin lành Kháng cách8*.

8* . Tin lành nói chung thường được dùng để chỉ một cộng đồng các giáo hội khởi phát từ cuộc cải cách tôn giáo bắt đầu vào thế kỷ XVI bởi Martin Luther, tu sĩ Dòng Augustino. Mục tiêu ban đầu của Luther là kêu gọi cải cách từ bên trong Giáo hội Công giáo La Mã, về sau ông tách rời khỏi Giáo hội Công giáo và thành lập Giáo hội Luther. Cũng thời kỳ này tại châu Âu, nhiều người có quan điểm tương tự Luther cũng bắt đầu tách khỏi Công giáo La Mã và thành lập các giáo phái khác nhau. Họ được gọi dưới tên chung là Kháng cách (Protestantismus, gốc từ tiếng Latin protestatio) hay còn gọi là Tân giáo để phân biệt với cựu giáo là Công giáo La Mã. Bốn nhánh chính hiện nay của Kitô giáo là Công giáo Rôma, Kháng cách, Chính thống giáo Đông phương, và Chính thống giáo Cựu Đông phương.

Tôi không muốn nói đến Công chúa Elizabeth. Tôi không bao giờ muốn thế. Những gì tôi nhìn thấy ở dì ấy đã quá đủ đối với tôi trong thời gian hai chúng tôi sống bên cạnh Hoàng hậu Kateryn Parr và Thomas Seymour9*, vị vương phu trẻ của bà. Tất cả những gì tôi muốn nói là Elizabeth phải biết xấu hổ về bản thân mình và dì ấy phải trả lời trước Chúa về những chuyện dì ấy đã làm. Tôi nhìn thấy tất cả. Tôi chứng kiến những cuộc đuổi bắt, dỗi hờn và đùa giỡn của dì ấy với chồng của người mẹ kế. Dì ấy đã đưa Thomas Seymour – một con người vĩ đại – vào sự bất cẩn dẫn đến cái chết. Dì ấy phạm tội đam mê sắc dục và ngoại tình từ trong trái tim mình nếu không muốn nói là từ trên giường của Thomas. Dì ấy có tội về cái chết của Thomas khi gọi anh ta là kẻ tạo phản và đưa anh ta lên đoạn đầu đài. Dì ấy muốn anh ta nghĩ mình là người yêu và là chồng của dì ấy, và cả hai đều là người thừa kế ngai vàng. Lẽ ra dì ấy không nên nói nhiều như thế. Dì ấy không cần phải nhiều lời. Tôi đã nhìn thấy dì ấy ở bên cạnh anh ta như thế nào và tôi biết dì ấy đã bắt anh ta làm những gì.

9* . Tức Nam tước Seymour (c. 1509 – 1549) xứ Sudeley.

Nhưng không, tôi không phán xét. Tôi sẽ không bao giờ phán xét. Đó là vì Chúa. Tôi phải có ý nghĩ khiêm nhường, cái nhìn khoan dung và lòng trắc ẩn đối với những kẻ có tội. Dẫu vậy, tôi chắc chắn rằng Chúa cũng không thèm nhìn đến dì ấy bất kể dì ấy có cầu xin từ hỏa ngục vì đã quá muộn cho sự không thanh khiết, không chung thủy và những dục vọng thấp hèn của mình. Chúa và tôi sẽ thương hại dì ấy, nhưng tôi muốn để dì ấy bị trừng phạt mãi mãi.

Dù sao thì, kể từ khi hai Công chúa Mary và Elizabeth bị tuyên bố không đủ tư cách thừa kế ngai vàng, hai người chị cùng cha khác mẹ10* với Hoàng tử Edward ít có đòi hỏi pháp lý hơn so với con gái của Hoàng hậu Mary11*, người em gái được Vua Henry sủng ái, hay chính xác mà nói, là mẹ tôi12*.

10* . Henry VIII có sáu người vợ và ba người con chính thức. Con gái cả, Công chúa Mary (1516 – 1558) là con của ông với Katherine xứ Aragon; con giữa, Công chúa Elizabeth (1533 – 1603) là con với Anne Boleyn (c. 1501 – 1536); con út, Hoàng tử Edward, sau này là Vua Edward VI, là con với Jane Seymour (c. 1508 – 1537).

11* . Tức Hoàng hậu Mary Tudor (1496 – 1533), vợ Vua Louis XII của Pháp, bà ngoại của Jane Grey.

12* . Con gái của Hoàng hậu Mary tức là Frances Brandon (1517 – 1559), mẹ của Jane Grey.

Và đây chính là lý do, cái lý do sâu xa vì sao điều đó lại quan trọng đến mức mẹ tôi phải nghiên cứu Đức tin Cải cách13* và gạt sang một bên mọi sự xa hoa phù phiếm bề ngoài. Bà phải tránh xa các lễ hội hay tiệc tùng, bà chỉ nên khiêu vũ với những phụ nữ thuần khiết nhất của hoàng gia và không nên cưỡi con ngựa đẹp nhất của mình rong ruổi suốt ngày khắp vương quốc để săn đuổi mọi thứ như một con mãnh thú đói mồi. Những khu rừng rộng lớn xung quanh nhà chúng tôi vang vọng tiếng còi săn bắn của bà, đồng cỏ được phát quang sạch sẽ để tìm thú săn. Những con chó bị vồ chết trong hầm gấu, những con bò cái bị chọc tiết ngay bên ngoài cửa bếp. Tôi e rằng bà là người đầy ham muốn xác thịt (dòng họ nhà Tudor rất đam mê nhục dục), tôi biết rằng bà rất kiêu hãnh (dòng họ Tudor sinh ra đều là những bạo chúa), và bất cứ ai cũng có thể thấy bà là người rất xa hoa và cực kỳ ưa thích những lạc thú trần tục.

13* . Reformed Faith: Đức tin Cải cách thuộc về Thần học Calvin, gọi theo tên của nhà cải cách tôn giáo John Calvin, hệ thống thần học và phương pháp ứng dụng đức tin vào đời sống Cơ đốc, đặt trọng tâm vào quyền cai trị tối cao của Thiên Chúa. Tin lành Kháng Cách đôi khi được gọi là “Đức tin Cải cách”, “Truyền thống Cải cách”, hay “Thần học Cải cách”. (Theo Wikipedia)

Tôi phải cảnh báo bà vì điều đó, nhưng khi tôi nói với gia sư của tôi rằng tôi rất căng thẳng với ý định nói cho mẹ tôi biết rằng bà đang mắc tội, ít nhất là tội kiêu ngạo, nóng nảy, tham ăn, ham mê xác thịt và tham lam, ông đáp lại một cách cương quyết: “Công nương Jane, thực lòng là, thôi, tốt nhất là cô đừng nói”. Tôi biết ông ấy sợ bà, cũng như mọi người khác sợ bà, thậm chí cha tôi cũng thế. Điều đó càng cho thấy bà có tội vì những tham vọng không dành cho phụ nữ và vì nhiều thứ khác nữa.

Đáng ra tôi cũng sợ bà như những kẻ yếu đuối khác, nhưng tôi phải tuyên xưng đức tin của mình. Thực sự là thế. Cũng không dễ dàng gì nếu bạn là người theo Tin lành Kháng cách. Lòng can đảm đối ở những người theo Công giáo La Mã là điều rất dễ dàng – vì mỗi kẻ ngốc nghếch ấy đều có hàng tá những thứ hướng dẫn và khích lệ họ: các biểu tượng bên trong nhà thờ, tranh kính trên cửa sổ, các nữ tu, các vị linh mục, ca đoàn, của lễ, những giọt rượu nho mùi vị váng cả đầu nhưng họ lại tự huyễn hoặc mình là có vị mặn của máu Đức Kitô. Song tất cả đều là phù phiếm và hư vô. Tôi biết rằng tôi đang tuyên xưng đức tin của mình, bởi khi tôi quỳ gối nguyện cầu bên trong ngôi giáo đường trắng tinh mát lạnh trong thinh lặng, tôi nghe thấy tiếng Chúa nói với tôi, dịu dàng như một người cha yêu thương. Tôi tự đọc kinh, không ai đọc nó thay tôi, và tôi nghe Lời Chúa vọng lại với tôi. Tôi cầu xin sự khôn ngoan và khi tôi cất tiếng, tôi biết nó nằm ngay trong từng lời từng chữ trong Kinh Thánh. Tôi là người hầu việc của Ngài và kẻ tuyên xưng Ngài – đó là lý do tại sao mẹ tôi thường rất sai lầm khi hét toáng lên rằng: “Vì tình yêu của Chúa, hãy đem cái bộ mặt học giả kênh kiệu ấy biến khỏi đây ngay. Hãy ra ngoài kia mà săn bắn đi trước khi mẹ tự tay tống cổ con ra khỏi thư viện đấy!”.

Thật là sai lầm! Tôi cầu xin Chúa tha thứ cho bà, cũng như tôi đã tha thứ cho bà. Nhưng tôi biết Ngài sẽ không quên sự sỉ nhục mà tôi, kẻ tôi tớ của Ngài, phải chịu; và tôi cũng sẽ không quên điều đó. Tôi dẫn một con ngựa trong chuồng ra ngoài nhưng không đi săn. Thay vào đó, tôi đi cùng em gái Katherine, theo sau chúng tôi là một đoàn người. Chúng tôi có thể cưỡi ngựa rong ruổi khắp nơi cả ngày mà vẫn không đi hết đất đai của chúng tôi. Chúng tôi băng qua những cánh đồng và những vùng ngoại ô, nơi có những đồng yến mạch xanh rì, dày đặc đang lớn nhanh như thổi; chúng tôi chọn những bãi cỏ ngập sâu để lũ ngựa được uống nước trong. Chúng tôi là dòng dõi hoàng gia, là những người hạnh phúc nhất ở vùng nông thôn nước Anh, chúng tôi được thừa hưởng tất cả những thứ đó.

Hôm nay, không hiểu vì lý do gì, mẹ tôi trông rất vui và tôi được bảo phải mặc bộ đầm mới, bộ đầm nhung đỏ thẫm được gởi đến từ London vào tuần trước, với một chiếc mũ trùm đầu và cổ tay áo đen tuyền vì chúng tôi phải tiếp đón các vị khách quý ở bữa ăn tối. Tôi hỏi vị tổng quản14*của chúng tôi và ông nói rằng đó là cựu Hộ Quốc công15* Edward Seymour, Công tước xứ Somerset. Ông ấy bị tống giam vì tội bất trung nhưng hiện đã được phóng thích và được gọi lại vào Hội đồng Cơ mật. Rõ ràng chúng tôi đang sống trong một thời kỳ rất nguy hiểm.

14* . Lord Chamberlain: người phụ trách công việc gia đình của Hoàng gia Anh.

15* . Lord Protector: Hộ Quốc công.

“Và ông ấy mang theo con trai của mình”, vị tổng quản nói và nheo mắt với tôi, như thể tôi là một cô gái dễ bị lừa phỉnh bởi loại tin tức đó.

“Ôi, thú vị làm sao!”, cô em gái Katherine cả tin của tôi thốt lên.

Tôi nén tiếng thở dài và nói rằng tôi sẽ đọc sách trong phòng ngủ trong giờ sửa soạn y phục cho bữa tối. Nếu tôi đóng cánh cửa ngăn giữa phòng ngủ của tôi và phòng chung của chúng tôi, có thể Katherine sẽ hiểu ý mà không vào.

Nhưng không có tác dụng.

Ngay lập tức, có tiếng gõ cửa và em ấy thò cái đầu ngây ngô của mình vào phòng riêng của tôi và nói: “Ồ! Chị đang học à?”. Cứ như thể tôi đang làm gì khác không bằng!

“Vâng, đó là lý do chị đóng cửa.”

Em ấy không biết đùa chút nào cả. “Chị nghĩ gì về Công tước Somerset, người đang đến đây?”. Katherine hỏi trong khi đường đột bước vào phòng tôi dù không được mời. Mary bám ngay theo sau, như thể phòng tôi là phòng chờ của hoàng gia và bất cứ ai cũng có thể vượt qua người giữ cửa nếu họ ăn mặc tươm tất một chút.

“Em dám mang con khỉ kinh tởm ấy vào đây à?”, tôi cắt ngang khi nhìn thấy con khỉ Nozzle đang ngồi trên vai em ấy.

Katherine trông có vẻ sốc. “Tất nhiên rồi. Ngài Nozzle16* đi cùng em khắp mọi nơi, trừ những lúc em ghé thăm con gấu tội nghiệp, nó sợ gấu”.

16* . Nozzle là tên chú khỉ cưng của Katherine. Nozzle tiếng Anh nghĩa là mũi, mỏ.

“Không, nó không được vào đây! Nó xé nát sách vở của chị mất!”

“Không đâu, nó sẽ ngồi trong lòng em. Nó là một quý ngài mỏ khẹc biết điều đấy!”

“Đem nó ra ngoài!” “Em không đem.”

“Mang nó đi, chị ra lệnh đấy!”

“Chị đừng làm thế với em.”

“Chị là người lớn nhất ở đây và đây là phòng của chị.”

“Còn em là người xinh đẹp nhất và em đang đến thăm chị một cách rất lịch sự mà...”

Chúng tôi gấu ó nhau. Katherine khoe với tôi sợi dây xích bằng bạc mà em ấy tròng quanh cái cổ màu đen xám của con khỉ. “Jane, làm ơn đi mà! Em sẽ giữ chặt nó”, em ấy hứa.

“Em sẽ giữ nó cho chị!”. Mary đề nghị, và giờ đây tôi có hai kẻ đang gào lên bênh vực con khỉ, con vật đáng ghét không được vào phòng của tôi.

“Ồ thôi nào, hãy biến ngay!”, tôi nói một cách giận dữ. “Cả hai em nữa!”. Nhưng thay vào đó, Katherine quay lại và vẫy Mary ngồi vào cái ghế nơi con khỉ, không lớn hơn một con búp bê, đang ngồi, và nở một nụ cười với tôi bằng tất cả sự dịu dàng trên đời. “Không! Hãy đi đi!”

“Em sẽ đi ngay, sau khi em hỏi chị câu này”. Katherine rất mãn nguyện vì em ấy đang dùng lại chiêu cũ của mình như thường lệ. Em ấy đẹp lạ lùng, và nhạy cảm như ngài “Mũi khẹc” vậy.

“Tốt! Hỏi và biến ngay nhé!”, tôi nghiêm nghị nói.

Katherine hít một hơi. “Chị biết vì sao Công tước Somerset lại đến đây không?”.

“Không!”

“Nhưng em biết. Sao chị lại không biết? Chị là người rất, rất thông minh cơ mà!”

“Chị không muốn biết”, tôi gằn giọng.

“Em nói cho chị biết này. Tất cả những gì chị biết toàn là sách vở.”

“Sách vở à?”, tôi lặp lại như một đứa trẻ ngây thơ. “Đúng là chị biết ‘sách vở’, nhưng nếu muốn biết mọi tin tức trên đời, chị sẽ hỏi cha, người sẽ cho chị biết tất cả. Chị không cần đi nghe lỏm cha mẹ hay từ bọn người hầu hóng hớt”.

Em ấy nhảy phóc lên giường tôi như thể sẽ ở lại cho đến giờ ăn tối và duỗi thẳng người nằm lên gối của tôi như thể em ấy sắp sửa ngủ ở đây. Con khỉ Nozzle cũng tự tìm chỗ thoải mái cho mình bên cạnh em ấy trong khi gãi gãi bộ lông bóng mượt bằng những ngón tay xương xẩu bé xíu của nó.

“Nó có chấy rận không đấy?”, tôi hỏi.

“Có, nhưng không phải chấy rận”, Katherine trả lời bâng quơ. “Thế thì mang nó ra khỏi giường chị ngay lập tức!”

Đáp lại, Katherine bế nó vào lòng. “Đừng lo! Em có chuyện này rất hay. Họ đến để làm lễ đính hôn cho chị!”, em ấy thông báo. “Thấy chưa! Em biết thế nào chị cũng nhảy chồm lên cho mà xem!”.

Tôi chỉ hơi nhổm người lên một chút trong khi giữ một ngón tay đánh dấu vị trí đang đọc trong cuốn sách. “Em nghe tin này từ đâu?”.

“Mọi người đều biết cả!”. Em ấy đáp, nghĩa là tin đồn từ những người hầu, như tôi đã tiên đoán. “Mà này, chị thật may mắn! Em nghĩ Ned Seymour là anh chàng đẹp trai nhất trên đời”.

“Ừ, em thì gì cũng thích.”

“Anh ấy có đôi mắt đẹp thế cơ mà!”

“Chắc chắn anh ấy có mắt, nhưng chúng không có sức hút, mà chỉ để nhìn thôi.”

“Và có nụ cười đáng yêu. Em nghĩ anh ấy mỉm cười như bất cứ ai khác, nhưng em không phiền khi nhìn anh ấy. Anh ấy cưỡi ngựa rất cừ, ăn mặc đẹp và là con trai của người quyền lực nhất nước Anh. Không có dòng họ nào vĩ đại hơn dòng họ Seymour. Không ai giàu có hơn họ. Họ giàu có hơn chúng ta. Họ thậm chí còn ở hàng thừa kế gần ngai vàng hơn cả chúng ta.”

Tôi nghĩ, nhưng tôi không nói ra, rằng sự vĩ đại của một dòng họ không phải là sự đảm bảo cho Thomas Seymour, người bị chặt đầu cách đây một năm vì Elizabeth, và thậm chí người anh trai cũng không thể cứu anh ta. Người anh trai, người tự bảo hộ mình, sau đó bị thất sủng và giờ đây đang cố gắng gây dựng lại quyền lực.

“Ôi, đứa con đẹp trai của Đức Vua!”, em ấy thở dài.

Như thường lệ, em ấy đang nghĩ ngợi lung tung. “Ông ấy không còn là vua nữa; vị trí của ông ấy đã bị phế truất”, tôi sửa em ấy. “Hội đồng Cơ mật17* được điều hành bởi Đức ông John Dudley, Chủ tịch Hội đồng18*. Nếu em muốn lập liên minh với những người kế vị, thì đó là dòng họ Dudley”.

17* . Privy Council: Hội đồng Cơ mật.

18* . Lord President: Chủ tịch Hội đồng Cơ mật.

“Vâng, ngài ấy vẫn là cậu của vua, còn Ned vẫn là Bá tước vùng Hertford.” “Là Edward Seymour”, tôi sửa em ấy.

“Mặc kệ Edward hay Ned! Ai thèm quan tâm!”

“Và mọi người nói rằng chị sẽ đính hôn với anh ta?”, tôi hỏi.

“Vâng”, em ấy đáp gọn lỏn. “Và khi kết hôn, chị phải ra đi lần nữa. Em sẽ nhớ chị lắm. Dù chị luôn phàn nàn rằng em là đứa ngu ngốc, nhưng có chị ở đây vẫn tốt hơn. Em từng rất nhớ chị hồi chị sống với Hoàng hậu Kateryn Parr. Thành thực mà nói, em đã rất vui lúc bà ấy chết – dù rất tiếc thương bà – bởi vì em chỉ mong chị trở về nhà với chúng em”.

“Đừng đi, Jane”, Mary đột nhiên hét lên, chẳng ra phẩm cách của một công nương.

Mặc dù Kinh Thánh nói rằng mỗi môn đệ phải rời khỏi nhà mình, từ bỏ anh chị em, cha mẹ mình để đi rao giảng lời Chúa, tôi khá xúc động khi nghe những lời này. “Nếu chị được gọi đến một nơi tuyệt vời trên thế giới, chị phải đi em ạ”, tôi nói với em ấy. “Người cậu họ của chúng ta, Vua Edward, là một quan tòa công minh, và chị rất vui khi sống ở đó. Nếu Chúa kêu gọi chị đến bất cứ nơi nào, chị sẽ vâng lời và sẽ là hình mẫu cho những ai tìm kiếm. Và khi đến lượt em, chị sẽ chỉ cho em biết phải cư xử như thế nào nếu em làm đúng theo những gì chị bảo. Thực lòng mà nói, chị cũng nhớ em, và cả Mary bé bỏng, nếu chị phải ra đi”.

“Chị sẽ nhớ Mũi khẹc chứ?”. Katherine hỏi với niềm hy vọng trong khi bò ra khỏi giường và bế con khỉ đưa về phía tôi để khuôn mặt bé choắt buồn rười rượi của nó áp gần sát mặt tôi.

Tôi nhẹ nhàng gạt tay em ấy ra: “Không!”.

“Vâng, khi nào đến lượt em lấy chồng, em mong gặp được người đẹp trai như Ned Seymour”, em ấy nói. “Và em cũng không thấy có vấn đề gì nếu trở thành Bá tước Phu nhân Hertford”.

Tôi nhận ra rằng đây sẽ là tên và tước hiệu mới của tôi, và khi cha Ned qua đời, Ned sẽ trở thành Công tước xứ Somerset còn tôi sẽ trở thành công nương. “Ý Chúa sẽ được thực hiện đối với em cũng như đối với chị”, tôi nói và nghĩ về những chiếc lá dâu trên vương miện của một công tước phu nhân và sự mềm mại của chiếc vương hiệu nặng trịch trên cổ áo tôi.

“Amen”, Katherine mơ màng nói, như thể em vẫn đang nghĩ đến nụ cười của Ned Seymour. “Ồ, Amen!”.

“Chị rất nghi ngờ việc Chúa có thể biến em thành một nữ công tước”, tôi nói.

Em ấy nhìn tôi, đôi mắt xanh biếc mở rộng, làn da của em ấy, nhợt nhạt như tôi, giờ đang ửng hồng. “Ôi, hãy cầu nguyện cho em”, em nói một cách tin tưởng. “Chị có thể mang đến cho em một bá tước nếu chị cầu nguyện cho em, Jane. Chị rất gần với Chúa mà, chị chắc chắn có thể xin Chúa cho em một bá tước. Hãy cầu xin Ngài ban cho em một người thật đẹp trai vào”.

Nói về mong ước của Katherine, tôi phải thừa nhận rằng Ned Seymour dễ thương như mọi thành viên khác nhà Seymour. Anh ta nhắc tôi nhớ về ông chú Thomas của anh ta, người tốt bụng nhất mà tôi từng biết, phu quân của gia sư của tôi, Hoàng hậu Kateryn Parr trước khi Elizabeth hủy hoại hạnh phúc của họ. Ned có mái tóc nâu với đôi mắt màu hạt dẻ. Trước kia tôi chưa bao giờ để ý thấy đó là đôi mắt đẹp, nhưng cô em tôi đã nói đúng, anh ta có nụ cười ấm áp và khó cưỡng. Tôi hy vọng là anh ta không có những ý nghĩ tội lỗi đằng sau vẻ ngoài sáng chói ấy. Anh ta được nuôi dưỡng trong cung điện cùng với Đức Vua, người họ hàng của tôi, vì vậy chúng tôi biết nhau, chúng tôi cùng nhau cưỡi ngựa, cùng nhau học khiêu vũ, và thậm chí cùng học hành với nhau. Anh ta có lối suy nghĩ giống tôi – như tất cả chúng tôi đều như thế – và tất cả những người trẻ thông minh lanh lợi đều theo Tin lành. Tôi xem anh ta là một người bạn như mọi người khác trong cung điện. Anh ta là người ủng hộ nhiệt thành cho đức tin Kháng cách và đương nhiên chúng tôi cũng chia sẻ cùng nhau đức tin ấy. Tuy nhiên, phía sau lòng nhiệt thành của anh ta là một đầu óc sâu sắc và nghiêm khắc. Vua Edward người cậu họ của tôi là người trí tuệ và nghiêm nghị như tôi, vì thế chúng tôi rất thích đọc sách cùng nhau. Nhưng Ned Seymour làm cả hai chúng tôi phải bật cười. Anh ta chưa bao giờ tỏ ra thô lỗ – Đức Vua cậu họ tôi không muốn trêu đùa anh ta – nhưng anh ta rất hóm hỉnh và có sức hút khó cưỡng; sự đáng yêu được thừa hưởng từ dòng họ Seymour ấy giúp anh ta rất dễ kết bạn bất cứ nơi nào anh ta đến. Anh ta là người có thể làm bạn mỉm cười mỗi khi gặp mặt, thật thế đấy!

Tôi ngồi cùng các phu nhân bạn của mẹ tôi trong bữa tối, anh ấy ngồi cùng với các quý ông của bố mình. Bố mẹ chúng tôi ngồi ở bàn đầu trên tất cả, nơi có thể bao quát và nhìn xuống chúng tôi. Khi tôi nhìn thấy chiếc cằm nghiêng quá mức tự hào của mẹ mình, tôi nhớ ra rằng người cuối cùng sẽ là người đầu tiên, và người đầu tiên sẽ là người cuối cùng, vì rất nhiều người được gọi, nhưng chỉ ít người được chọn. Cụ thể ở đây là mẹ tôi, tôi chắc chắn rằng bà không bao giờ được lựa chọn; khi nào tôi trở thành công tước phu nhân, tôi sẽ ở vị trí cao hơn bà, và bà sẽ không bao giờ được phép la mắng tôi nữa.

Sau khi các bàn tiệc được dọn xong, các nhạc công bắt đầu chơi và tôi được lệnh phải khiêu vũ cùng những quý bà của mẹ tôi và với cô em gái Katherine của mình. Tất nhiên, Katherine thích xoay tròn người xòe rộng váy và thường nâng nó thật cao để em ấy khoe đôi giày đẹp và đôi chân thoăn thoắt của em ấy. Em ấy luôn nhoẻn miệng cười hướng về chiếc bàn trên cùng, nơi Ned đang đứng phía sau ghế của cha mình. Tôi phải xin lỗi mà nói rằng có một lần anh ta nháy mắt với chúng tôi. Tôi nghĩ cái nháy mắt đó hướng về cả hai chúng tôi, nhưng không hướng thẳng vào Katherine. Tôi rất vui vì anh ấy đang xem chúng tôi khiêu vũ – nhưng tôi không nghĩ rằng anh ấy nên nháy mắt.

Sau đó là màn khiêu vũ tập thể và mẹ tôi ra lệnh tôi kết đôi với Ned. Mọi người đều cho rằng chúng tôi trông thật đẹp đôi dù anh ấy cao hơn tôi cả một cái đầu. Tôi nhỏ bé và xanh xao; thật ra không có cô gái nào trong dòng họ Grey chúng tôi có khổ người to lớn; nhưng tôi rất vui vì mình mảnh mai dịu dàng chứ không hùng hổ mạnh bạo như Công chúa Elizabeth.

“Em nhảy đẹp lắm!”. Ned nói với tôi khi chúng tôi bước ra khỏi sàn nhảy và chờ một cặp đôi khác để kết thúc phần của họ. “Em có biết tại sao bố anh và anh ở đây không?”.

Điệu vũ tách chúng tôi ra trong chốc lát và tôi có thêm thời gian để tìm ra một câu trả lời tương xứng với phẩm giá của mình.

“Không, em không biết”, là câu trả lời mà tôi có thể thốt ra.

Anh ấy nắm tay tôi khi chúng tôi tiến về cuối hàng. Chúng tôi đứng thẳng và vòng tay lên cao thành hình mái vòm và anh ta mỉm cười với tôi trong khi những người khác cúi chào như khích lệ. “Họ muốn hai ta kết hôn”, anh ta hân hoan nói. “Điều này đã được chấp thuận. Chúng ta phải trở thành vợ chồng”.

Chúng tôi đứng đối diện nhau trong khi một cặp vũ công khác đang di chuyển về phía cuối hàng, vì vậy anh ta có thể thấy phản ứng của tôi khi nghe tin này. Tôi cảm thấy hai gò má mình nóng lên, và tôi cố kiềm chế để không chồm lên như một kẻ ngốc đang háo hức. “Lẽ ra cha em phải nói với em điều này, chứ không phải chàng”. Tôi nói cứng.

“Em có vui không, khi cha em thông báo tin đó?”

Tôi nhìn xuống để anh ta không thể đọc vị những gì tôi nghĩ. Tôi không muốn để lộ đôi mắt nâu vốn đang bừng sáng của mình như đôi mắt của anh ấy. “Em vâng Lời Chúa mà nghe lời cha em”, tôi nói.

“Vậy em có vui lòng vâng lời cha và đồng ý làm vợ anh?” “Rất vui lòng!”

Cha mẹ tôi rõ ràng tin rằng tôi là người cuối cùng được hỏi ý, vì đến tận ngày hôm sau tôi mới được gọi đến phòng của mẹ tôi, trong khi Edward và cha anh ta sắp sửa rời đi với những con ngựa đang đứng chờ trước cửa, hương mùa xuân Anh quốc ùa vào lâu đài mang theo tiếng hót hân hoan của những chú chim đang tán tỉnh nhau.

Tôi có thể nghe thấy tiếng những người hầu lấy yên cương dưới sảnh chính trong khi tôi đang quỳ gối trước mặt cha mẹ mình, và mẹ tôi khẽ gật đầu với người hầu ngầm bảo họ đóng cửa lại.

“Con sẽ kết hôn với Edward Seymour”, mẹ tôi nói nhanh. “Cha mẹ đã đồng ý, tuy chưa lập thành văn bản. Trước tiên, chúng ta cần xem liệu cha cậu ấy có thể quay lại Hội đồng và làm việc với John Dudley. Dudley là người quyền lực nhất hiện giờ. Chúng ta phải nhìn thấy rằng Seymour sẽ làm việc với ông ấy và quyền lực sẽ trở lại với nhà Seymour”.

“Trừ phi xảy ra vấn đề khác...”, cha tôi nói trong khi nhìn mẹ tôi đầy ý nghĩa.

Mẹ tôi nói: “Không, cậu ấy chắc chắn sẽ lấy một công chúa nước ngoài”. Tôi biết ngay rằng họ đang nói về Vua Edward, người đã tuyên bố công khai rằng mình sẽ kết hôn với một công chúa ngoại quốc và đưa nàng lên làm hoàng hậu. Chính tôi cũng chưa bao giờ nghĩ điều gì khác, mặc dù một số người nói rằng tôi sẽ là một hoàng hậu tuyệt vời, và tôi sẽ là ánh sáng và là ngọn hải đăng cho một tôn giáo Cải cách mới và thúc đẩy cải cách tôn giáo ở một đất nước đang chết một nửa con tim ngay lúc này. Tôi muốn chắc chắn rằng tôi luôn cúi đầu và không nói một lời nào.

“Nhưng chúng rất hợp nhau”, cha tôi khẩn khoản. “Cả hai đều học cao biết rộng, cả hai đều rất ngoan đạo. Jane của chúng ta sẽ là một người thừa kế hợp pháp của Kateryn Parr. Chúng ta nuôi dưỡng con vì điều này. Hoàng hậu Kateryn đã dạy dỗ con bé vì điều này”.

Tôi có thể cảm thấy đôi mắt của mẹ đang nhìn tôi dò xét, nhưng tôi không nhìn lên. “Con bé sẽ biến triều đình thành tu viện mất!”, bà nói và cười lớn.

“Ánh sáng của cả thế giới”, cha tôi nghiêm nghị đáp lại.

“Em nghi ngờ điều đó sẽ xảy ra. Nhưng dù thế nào, quý cô Jane, cô có thể xem rằng mình đã hứa hôn với Edward Seymour cho đến khi cha mẹ nói điều gì khác”.

Cha tôi đặt tay vào khuỷu tay tôi và nâng tôi đứng dậy. “Con sẽ là một công nương, hay hơn thế nữa”, người hứa với tôi. “Con có biết điều tốt đẹp hơn là gì không? Đó là ngai vàng của nước Anh!”.

Tôi lắc đầu. “Mắt con đang hướng về chiếc vương miện trên trời”, tôi nói với cha trong khi mặc kệ tiếng cười khàn đục thô thiển của mẹ âm vang bên cạnh.

LÂU ĐÀI SUFFOLK, LONDON MÙA XUÂN NĂM 1553

Như thể chuyện tôi không trao trái tim mình cho Ned Seymour đẹp trai để thành vợ chồng là điều đã được định trước. Việc trở lại nắm quyền lực của cha anh ta chỉ kéo dài trong một quãng thời gian ngắn ngủi và kết thúc bằng cái chết của chính ông ấy. Ông ấy bị bắt vì âm mưu chống lại John Dudley, bị buộc tội và sau đó bị xử tử vì tội phản bội. Người đứng đầu dòng họ đã chết và dòng tộc này một lần nữa bị hủy hoại. Người vợ kiêu hãnh nổi tiếng của ông, Anne Stanhope, người từng phạm tội khi quân khi đẩy gia sư của tôi, Hoàng hậu Kateryn, sang một bên để bước vào trước trong bữa ăn tối, trở nên góa bụa và bị giam trong ngục thất. Ned không phải ra tòa nào cả. Tôi may mắn thoát được cuộc hôn nhân với một chàng trai trẻ – bất kể đôi mắt anh ta có đẹp đến thế nào – giờ đây là đứa con bị thất sủng của kẻ phản bội.

Như thể mọi chuyện phải thế khi tôi không bao giờ để tham vọng của cha tôi đi vào lời cầu nguyện của tôi, mặc dù tôi không thể không biết rằng tất cả các vị tu sĩ Kháng cách, tất cả các tín đồ Tin lành và mọi vị thánh sống ở Anh đều muốn tôi kết hôn với nhà vua và dẫn dắt vương quốc của những kẻ hành hương về đến ngôi nhà đích thực của chúng tôi trên thiên đường. Không phải Vua Edward, cậu họ tôi, khăng khăng nói rằng mình sẽ kết hôn với một người ngoại quốc có dòng dõi hoàng tộc; nhưng rõ ràng là cậu ấy không thể chịu đựng một công nương theo Công giáo La Mã. Trong tất cả các cô gái Tin lành, tôi là người phù hợp nhất, tận hiến cho tôn giáo mà cậu và tôi cùng theo, từng là bạn của cậu thời thơ ấu và là con gái của một công nương có cùng dòng máu19*.

19* . Anne Stanhope và Edward là họ hàng. Mẹ của Jane Grey là em dâu họ của Vua Edward. Bà ngoại của Jane là con vua Henry VII (1457 – 1509).

Hơn thế nữa, cha tôi đã ra lệnh cho tôi được dạy phép giao tiếp – một kỹ năng hoàng gia – và tôi chọn học tiếng Ả-Rập và tiếng Do Thái cổ cùng với tiếng Latin và tiếng Hy Lạp. Nếu ơn trên gọi tôi phải nhận lấy vương miện, tôi sẽ luôn sẵn sàng. Tôi được sống với Hoàng hậu Kateryn Parr và tôi nhận ra rằng một phụ nữ có thể vừa là bậc trí giả vừa là một nữ hoàng. Trên thực tế, tôi được chuẩn bị tốt hơn bà. Nhưng tôi sẽ không để mình mắc vào tội ham muốn vương miện.

Các chị em của nhà vua không theo gương tôi cả trong học hành lẫn sự tận hiến cho Chúa. Tôi ước gì họ đã làm thế. Họ làm tất cả những gì họ có thể để duy trì địa vị trong hoàng tộc và gia tộc của họ trước mắt thế gian chứ không phải trước mặt Chúa. Không ai trong số các họ hàng hoàng tộc của tôi sống trong ánh sáng lời Chúa như tôi. Công chúa Mary là một con chiên Công giáo La Mã quyết đoán, còn Elizabeth thì chỉ có Thiên Chúa mới biết những gì dì ấy tin. Người thừa kế trực hệ khác, Mary xứ Scots, cũng là một con chiên Công giáo La Mã, được nuôi dưỡng trong sự xa xỉ đầy tội lỗi của hoàng gia Pháp. Còn Margaret Douglas, con gái của bà dì20* Margaret của tôi, người kết hôn với một người Scotland, được mang đến Yorkshire, cũng được cho là một người theo Thiên Chúa giáo La Mã.

20* . Great-Aunt.

Nhưng Công chúa Mary là người thừa kế ngai vàng gần nhất và chúng tôi nhất nhất phải tôn trọng dì ấy, bất kể chúng tôi nghĩ gì về đức tin tôn giáo của dì ấy. Mẹ tôi và vợ của John Dudley đi xe ngựa cùng Công chúa Mary khi dì ấy vào London bằng sự phô trương thanh thế hùng mạnh như để nhắc nhở mọi người rằng dì ấy là người thừa kế ngai vàng, và rằng họ là bạn bè rất tốt của nhau.

Nhưng đối với gia đình chúng tôi, tôi từ chối mặc quần áo đính đầy trang sức và đi cùng xe ngựa của Mary. Tôi sẽ không khoe khoang bản thân bằng một chiếc mũ trùm đầu thêu gấm thêu hoa lộng lẫy. Nhưng dì ấy gửi cho tôi những bộ áo choàng với hy vọng mua được tình yêu thương thân thích của tôi. Tôi bảo thị nữ Anne Wharton của dì ấy rằng tôi không thể chịu được khi nghe người ta nói rằng một kẻ vô tích sự như Công chúa Elizabeth lại được khen ngợi vì ăn mặc khiêm tốn hơn tôi. Tôi sẽ không mặc gì ngoài bộ y phục tinh tươm nhất. Chỉ có duy nhất một nhà thần học hoàng gia của nước Anh, người sẽ thừa kế nhà cải cách, Hoàng hậu Kateryn Parr, người sẽ phụng sự để dẫn dắt Giáo hội Cải cách, và người đó sẽ là tôi. Tôi không nên được nhìn thấy ăn mặc phóng khoáng vui nhộn hơn Elizabeth, và tôi không nên nổi loạn trong cỗ xe của người Công giáo La Mã.

Đó là cái kết của tình yêu thương họ hàng. Tôi không tin rằng Công chúa Mary có tình cảm sâu sắc đối với tôi, bởi vì tôi đã từng sỉ nhục cái Mặt Nhật21* pha lê khổng lồ chứa bánh thánh trên bàn thánh trong giáo đường của dì khi hỏi người thị nữ của dì ấy rằng tại sao cô ấy lại hiến dâng cho nó. Tôi dự định thách đấu với linh hồn của cô ấy – mời cô ấy tham gia vào một buổi cầu nguyện thánh thiện, nơi cô có thể giải thích rằng cô, là một tín hữu Kitô giáo, tin rằng bánh mì chính là thân thể của Chúa Giêsu Kitô. Rồi tôi chỉ cho cô ấy thấy rằng đó chẳng qua chỉ là mẩu bánh mì mà Chúa Giêsu muốn các môn đồ của Ngài hiểu rằng Ngài đang cho họ ăn bánh trong Bữa Tiệc Ly, bánh thật, và mời họ cầu nguyện cho Ngài. Ngài không hề nói rằng đó là thân thể của Ngài. Ngài không nói thế theo nghĩa đen. Chắc chắn là thế, kẻ ngốc nào cũng nhận ra điều đó!

21* . Mặt Nhật là tiếng Việt dùng để dịch từ Latin ostensorium hay từ tiếng Anh monstrance, là một đồ thánh dùng đựng bánh thánh để tín hữu tôn thờ trong lễ Chầu Mình Thánh Chúa Kitô. Mặt Nhật có nghĩa là Mặt Trời vì nhìn cấu tạo bên ngoài, vật ấy hình tròn, có nhiều tia như tia sáng mặt trời tỏa ra xung quanh.

Tôi nghĩ đó sẽ là một cuộc tranh luận cực kỳ thú vị và nó sẽ đưa cô ấy đến sự hiểu biết thực sự. Nhưng không may thay, mặc dù tôi biết chính xác những gì tôi định nói, cô ấy đã không đáp lại như tôi mong đợi. Cô ấy không nói theo những gì tôi nghĩ, cô ấy chỉ nói rằng cô ấy đang tận hiến cho Ngài, người đã tạo ra tất cả chúng ta – một câu trả lời hoàn toàn vô nghĩa.

“Làm thế nào?”. Tôi hỏi, thoáng bối rối. “Làm sao mà Ngài có thể ở đó để tạo ra tất cả chúng ta, còn người làm bánh thì lại tạo ra Ngài?”.

Chuyện này xuất hiện thật không đúng lúc chút nào, và Chúa phải tha thứ cho tôi rằng tôi không tạo ra cuộc tranh luận bằng cách lặp đi lặp lại quan điểm của tôi ba lần, như được dạy trong bài học về thuật hùng biện của tôi. Tôi làm điều này tốt hơn trong phòng ngủ của mình hơn là trong nhà thờ Công giáo tại Beaulieu, và điều này chỉ có thể lý giải là do ma quỷ bảo vệ chính nó, còn Anne Wharton nằm trong cái móng vuốt đầy lông lá của nó.

Tôi trở về phòng riêng để tập nói lần nữa trước gương. Tôi nhìn thấy một khuôn mặt nhợt nhạt và mái tóc màu đồng hun cùng những vết tàn nhang nhỏ xíu trên mũi mà sợ rằng chúng làm hỏng vẻ đẹp dịu dàng của tôi. Làn da nhợt nhạt của tôi giống như món đồ sứ tinh xảo nhất ngoại trừ đám bụi22* mùa hè nước Anh như những hạt giống bé xíu rơi xuống từ những cây liễu. Tôi cực kỳ thuyết phục khi tôi đóng cả hai vai trong cuộc tranh luận một mình: Tôi tỏa sáng như một thiên thần khi chiến đấu với linh hồn của Anne Wharton tưởng tượng. Nhưng Anne Wharton ngoài đời thì không thể thuyết phục.

22* . Ý nói những nốt tàn nhang trên gương mặt của Jane.

Tôi thấy người ta rất khó thay đổi; mà sao họ ngốc thế không biết! Thật khó mà hoán cải kẻ có tội. Tôi đã thử luyện vài dòng cho chính mình và tôi thấy mình mạnh mẽ như một nhà truyền giáo. Nhưng trong khi tôi luyện bài tranh luận, Anne Wharton đến gặp Công chúa Mary và kể cho dì ấy nghe những gì tôi đã nói, và công chúa biết tôi là kẻ thù truyền kiếp đối với đức tin của dì ấy, và điều đó thật đáng tiếc, vì dì ấy luôn tử tế và yêu thương tôi trước đây. Giờ đây dì ấy khinh miệt tôi vì đức tin của tôi, mà dì ấy xem như một lỗi lầm. Đức tin xuất chúng của tôi là lỗi lầm ư? Nhưng tôi phải tha thứ cho điều đó.

Tôi biết rằng dì ấy sẽ không tha thứ hay quên đi điều này, vì vậy tôi không cảm thấy thoải mái khi đi cùng mẹ tôi trong cỗ xe với Công chúa Mary, nhưng ít nhất Công chúa Elizabeth còn ở vị thế tồi tệ hơn. Dì ấy thậm chí không dám bước ra sân vì sự nhục nhã của mình đối với Thomas Seymour. Nếu là dì ấy, tôi nghĩ mình sẽ xấu hổ đến mức chỉ muốn độn thổ. Mọi người đều biết tỏng dì ấy là nhân tình của Seymour. Sau cái chết của vợ, anh ta thú nhận rằng anh ta định cưới Elizabeth và đoạt lấy ngai vàng. Cầu mong Chúa cứu nước Anh khỏi tay Elizabeth bê tha trơ trẽn! Cầu mong Chúa cứu nước Anh khỏi tay một nữ hoàng Công giáo như Mary! Cầu mong Chúa phù trợ nước Anh nếu như Edward băng hà mà không có con trai nối dõi để đất nước này chọn một người theo Thiên Chúa giáo La Mã, một công nương Pháp, tức là mẹ tôi!

Công chúa Mary không ở lại lâu. Cung điện của em trai23* dì ấy không phải là một nơi vui vẻ. Đức Vua Edward, người cùng tuổi nhưng ở vai cậu họ tôi, bị ho chưa hết. Tôi có thể nghe thấy tiếng khò khè trong lồng ngực cậu ấy khi tôi ngồi bên cạnh và đọc Plato – một triết gia mà cả hai chúng tôi đều yêu thích – cho cậu ấy nghe, nhưng cậu ấy nhanh chóng mệt mỏi và cần phải nghỉ ngơi. Tôi thấy nụ cười ẩn giấu của cha tôi khi ông quan sát thấy tôi đang đọc bằng tiếng Hy Lạp cho nhà vua của nước Anh, nhưng mọi người khác chỉ lo lắng rằng cậu ấy trông có vẻ ốm nặng.

23* . Tức Vua Edward VI.

Edward vẫn gắng gượng dự buổi thiết triều nhưng sau đó phải về giường nghỉ ngơi. Các nghị viên và chưởng khế24* đi vào đi ra phòng ngủ của Đức Vua và có tin đồn lan truyền rằng cậu ấy đang tìm người kế thừa và viết di chúc. Tôi nghĩ chuyện này thật khó tin. Cậu ấy chỉ mới mười lăm tuổi – hai chúng tôi cùng tuổi – tôi không thể tin rằng cậu ấy đang làm di chúc. Cậu ấy quá trẻ để chết. Chắc chắn trong mùa hè đang đến cậu ấy sẽ khá hơn và trong tiết trời ấm áp cậu ấy sẽ hết ho và khỏe trở lại. Tôi nghĩ rằng nếu cậu ấy đến Bradgate và ngồi chơi trong vườn, đi dạo dọc theo bờ sông hay đi thuyền trên những hồ nước rộng và đẹp của chúng tôi, chắc chắn cậu ấy sẽ khỏe lại. Di chúc của cậu ấy có thể được lưu trữ trên những tờ giấy lớn của nghị viện và sẽ rơi vào quên lãng. Cậu ấy sẽ kết hôn, có con trai và tất cả mọi tính toán về người nối ngôi dù được tán thành bởi những người ủng hộ nhà vua rồi sẽ bị lãng quên. Cậu ấy sẽ kết hôn với một nàng công chúa tuyệt vời từ châu Âu với một gia tài lớn, và tôi sẽ trở thành bạn của cô ấy và là một đại phu nhân trong triều đình, có lẽ là một nữ công tước. Có lẽ tôi sẽ cưới Ned Seymour bất kể cha anh ta bị thất sủng. Anh ta có thể giành lại tước vị, còn tôi vẫn là một nữ công tước nổi tiếng và sáng chói trước những kẻ không xứng đáng xung quanh mình.

24* . Cố vấn pháp luật, luật sư.

CUNG ĐIỆN GREENWICH MÙA XUÂN NĂM 1553

Triều thần xuôi dòng sông Thames đi Greenwich, nơi đến yêu thích của mọi người nhằm thoát khỏi mọi tiếng ồn và mùi vị của London, nơi có cái cầu cảng vàng bị ngập nước một bên bởi thủy triều lên xuống ngày hai lần, nhưng sáng lấp lánh như một bờ biển ánh kim. Nó như tấm gương phản chiếu vương quốc thiên đàng, chỉ có điều là không có sự hiện diện của Chúa. Cha và tôi được đi cùng với nhà vua trên chiếc long thuyền, nhưng Edward thì nằm bẹp dí trên long sàng, người quấn đầy chăn lông và run lẩy bẩy như đang lên cơn sốt. Khi tiếng đại bác chào mừng vang lên từ cung điện và các tàu cũng bắn đại bác đáp lễ sau khi neo đậu, cậu ấy có vẻ nao núng trước tiếng đại bác và quay khuôn mặt nhợt nhạt của mình đi hướng khác.

“Liệu cậu ấy có bình phục không?”, tôi khẽ hỏi. “Cậu ấy trông tệ quá; nhưng cậu ấy sẽ khá hơn vào mùa hè phải không ạ?”.

Cha tôi lắc đầu, gương mặt tối sầm. “Cậu ấy đã viết di chúc”, ông nói. Tôi nghe có sự phấn khích trong giọng nói run run của cha. “Cậu ấy đã chọn người thừa kế ngai vàng của mình”.

“Có phải ngai vàng sẽ được trao cho người kế vị lớn tuổi nhất không cha?” “Tất nhiên, người đó phải là Công chúa Mary. Nhưng làm thế nào cô ấy có thể là nữ hoàng trong khi đã tuyên thệ tuân phục Giáo hoàng La Mã?

Làm thế nào cô ấy có thể trở thành nữ hoàng khi cô ấy chắc chắn sẽ kết hôn với một người nước ngoài theo Công giáo La Mã và đặt ông ấy lên trên chúng ta? Không, nhà vua đã làm điều đúng; cậu ấy đã vâng theo ý muốn của Đức Chúa Trời và đã loại Mary ra khỏi danh sách kế vị – giống như cách cha cậu ấy đã làm”.

“Liệu Đức Vua có nói ra tên người kế vị không?”, tôi hỏi. “Luật có bắt phải thế không ạ?”.

“Nếu ngai vàng là tài sản của cậu ta, hiển nhiên cậu ta có quyền nêu tên người kế vị”, cha tôi nói, giọng đủ nhỏ để chàng trai đang run rẩy trong chăn lông không thể nghe được, nhưng trong giọng nói của ông có gì đó cho thấy ông sẽ không chịu đựng sự mâu thuẫn. Đây là những lập luận đang được bàn tán ở mọi ngõ ngách trong cung điện. “Vương miện là tài sản: cũng như tất cả chúng ta đều có tài sản riêng của mình. Mỗi người có quyền tự do định đoạt tài sản của mình và họ có quyền chọn người thừa kế; Henry VIII đã chọn những người thừa kế của mình. Và điều quan trọng nhất – một người trẻ tuổi như Edward, được nuôi dưỡng bằng thứ tôn giáo Cải cách, không bao giờ có một ý nghĩ về Công giáo La Mã trong đầu, sẽ không nhường ngôi của mình cho một người đầy tớ của La Mã. Cậu ta sẽ không chấp nhận điều đó – và John Dudley sẽ đảm bảo rằng cậu ta sẽ không làm vậy”.

“Thế thì ai?”, tôi hỏi nhưng nghĩ rằng có lẽ tôi biết câu trả lời.

“Đức Vua và các quân sư của ngài hẳn thích những người thừa kế hàng gần nhất và cùng tôn giáo Cải cách, người nào có con trai thì có quyền thừa kế ngai vàng.”

“Có phải là một cậu bé nhà Tudor?”

Cha tôi gật đầu. Điều này giống như một lời nguyền đối với dòng dõi này. Nhà Tudor phải có con trai để nối ngôi, nhưng chuyện đó cực kỳ khó xảy ra. Sáu người vợ của Vua Henry chỉ sinh được cho ông một con trai duy nhất là Edward. Chị gái của ông, Margaret, chỉ có một đứa con trai, James, người sinh ra Nữ hoàng Mary của Scotland, sống ở Pháp và được hứa hôn với thái tử. Con gái của Margaret là một lãnh chúa Scotland và cả hai đều theo Công giáo La Mã và có lẽ bất hợp pháp. Còn Henry Stuart là con trai của Margaret Douglas, vì vậy khó mà tới lượt. Người em gái được sủng ái của Vua Henry25*, Nữ hoàng Mary Tudor26*, là bà ngoại của tôi, đã được Đức Vua đưa tên vào danh sách kế vị; và con gái bà, tức mẹ tôi27*, vẫn còn sống. Mẹ tôi có ba cô con gái, và chắc chắn không sinh thêm đứa nào nữa. Công chúa Elizabeth (chị của Vua Edward), người đang hẹn hò với một kẻ hoang đàng trong hoàng tộc và hầu như không có của hồi môn, thì không có kế hoạch đám cưới nào! Riêng người chị cả, Công chúa Mary28*, thì được hứa hôn nhưng đã từ chối gần như tất cả các vị vua ở châu Âu. Rõ ràng là dòng họ Tudor không chỉ không có con trai ở hàng chúng tôi, mà còn không có chút triển vọng nào là sẽ có.

25* . Tức Henry VIII.

26* . Mary Tudor (1496 – 1533): là con gái Vua nước Anh Henry VII và Elizabeth xứ York. Bà là người vợ thứ ba của Vua Louis XII và làm Vương hậu nước Pháp.

27* . Tức Frances Brandon.

28* . Mary Tudor (1516 – 1558) hay Mary I: là con gái cả của Vua Henry VIII, nằm trong danh sách kế vị chính thống. Nhưng khi cha bà hủy hôn với mẹ bà, Catherine xứ Aragon để cưới Anne Boleyn, Mary bị xem là con bất hợp pháp, bà bị tước đi khả năng thừa kế Vương vị của cha. Sau khi xử tử Anne Boleyn và cưới Jane Seymour, nhà vua có người con trai tên Edward do Jane sinh ra, về cơ bản Mary hoàn toàn không còn khả năng kế vị, cùng với em gái Elizabeth Tudor. Năm 1547, em trai của Mary là Edward lên ngôi, tức Edward VI của Anh. Tuy vậy, nhà vua có sức khỏe không được tốt và không có khả năng sinh được người kế vị.

“Nhưng không ai trong chúng con có đứa con nào”, tôi nói và nghĩ rằng tất cả chúng tôi đều thuộc dòng dõi hoàng tộc. “Nếu họ muốn ngai vàng được truyền cho một cậu bé Tudor, thì chẳng có ai cả. Thậm chí không ai trong năm người chúng con đang được hứa hôn và tất nhiên không ai trong chúng con đã kết hôn”.

“Và đó là lý do tại sao con sẽ là người đó”, cha tôi nói nhanh. “Kết hôn nhé? Ngay lập tức!”.

“Con ấy à?”

“Tất cả các con!”

“Ý cha là Công chúa Mary và Công chúa Elizabeth?”

“Không! Chỉ các con của cha mà thôi: Con, Katherine và Mary.”

PHILIPPA GREGORY CUNG ĐIỆN GREENWICH MÙA XUÂN NĂM 1553

Katherine không làm được gì trong việc giúp chúng tôi chống lại kế hoạch bất ngờ này. Mẹ tôi ra lệnh cho em ấy tiến hành một cuộc viếng thăm hoàng cung chớp nhoáng, và Katherine bị choáng ngợp bởi những căn phòng xa hoa rộng lớn, những người hầu, đồ ăn thức uống hoàng gia và những chiếc áo choàng của em ấy. Em ấy mặc cho quý ngài Nozzle chiếc áo choàng Tudor xanh lá và mua một con mèo trắng muốt có thắt nơ. Tất nhiên em ấy gọi nó là “Nơ” và đưa nó đi khắp mọi nơi bằng cách đặt nó bên trong túi áo choàng của em ấy. Sự tiếc nuối duy nhất của em ấy là bị tách khỏi những con ngựa và con gấu ở Bradgate. Em ấy từng hy vọng có thể thuần hóa con gấu bằng lòng tốt của mình để nó có thể trở thành một con vật thích nhảy múa thay vì giết người. Em ấy không bị khiếp sợ như những cô gái trinh nguyên trước khả năng bất ngờ của một cuộc hôn nhân; trái lại, em ấy rất vui.

“Em phải kết hôn à? Ồ, ngợi khen Chúa! Cảm ơn Chúa! Cuối cùng điều đó cũng đến!”

“Với ai? Cho ai? Ai hả?”, tôi lạnh lùng hỏi.

“Em không cần biết! Mà với ai thì đã sao nào? Em sẽ kết hôn với ai? Chị nói cho em biết đi!”

“Công tử Henry Herbert”, tôi đáp ngắn gọn. “Con trai của Bá tước xứ Pembroke”.

Mặt Katherine bỗng đỏ ửng như gấc. “Ồ! Anh ta thật đẹp trai!”, em ấy hít thở mạnh. “Và còn rất trẻ, độ tuổi như chúng ta chứ không phải là một đống xương khô cũ kỹ”. Em ấy hôn và nói với chú chim nhỏ, con vật cưng đang đậu trên các ngón tay em: “Chị sẽ kết hôn đấy! Và kết hôn với một chàng công tử đẹp trai!”. Chú chim nhỏ khẽ kêu chíp chíp như thể nó hiểu cô chủ đang nói gì. Thế rồi Katherine đặt nó lên vai, nó xòe đuôi giữ thăng bằng và nghiêng đầu sang một bên nhìn tôi, đôi mắt sáng rỡ vui mừng như cô em gái tôi.

“Vâng”, tôi bình thản nói. “Chàng rất dễ thương”.

“Và chàng rất ngoan đạo”, em ấy nói cốt để tôi vui. “Chàng là cháu trai của Hoàng h?