← Quay lại trang sách

PHẦN II *KATHERINE* BAYNARD, LONDON-BAYNARD, LONDON

Chị gởi em, Katherine ngoan của chị, quyển sách này. Dù bìa của nó không được dát vàng, nhưng bên trong nó còn quý hơn cả ngọc ngà châu báu. Em ạ, đó là cuốn sách về các quy luật của Đức Chúa Trời: Kinh Thánh và Ý nguyện Cuối cùng48* mà Ngài đã để lại cho chúng ta, những kẻ khốn khổ, để dẫn dắt chúng ta trên con đường đến với niềm hân hoan vĩnh cửu. Nếu em đọc nó bằng một tâm trí tốt đẹp và với lòng sốt sắng cao nhất, nó sẽ đưa em đến cuộc sống đời đời bất tử.

48* . Testament and Last Will.

Nó sẽ dạy em cách sống và hiểu rằng em phải chết... Nó sẽ giúp em có được nhiều hơn là những thứ của cải em sở hữu từ đất đai, tài sản vật chất của cha chúng ta... vì của cải đó rồi sẽ rời khỏi tay em, nếu không phải bởi kẻ trộm thì cũng bởi vì chúng sẽ mục ruỗng đi...

Trong giờ phút lâm chung này, hãy vui mừng vì thân xác chị sẽ mục rữa để được trở nên tinh tuyền, vì chị tin rằng chị thà mất đi cuộc đời trần tục này để được sống hạnh phúc muôn đời.

Tạm biệt em, em gái ngoan của chị, hãy đặt trọn niềm tin vào Chúa, đấng luôn luôn nâng đỡ em.

Chị yêu thương của em,

Jane Dudley

Tôi đọc với nỗi hoài nghi ngày càng lớn về lời dạy này, dù đó là lời từ biệt duy nhất tôi có từ người chị thân thương của mình. Tôi đọc lại lần nữa và lần này tôi tức giận. Tôi thực sự không biết chị ấy nghĩ tôi sẽ làm gì với bức thư đầy thống khổ này. Tôi không biết chị ấy nghĩ bức thư này mang lại điều gì tốt lành cho tôi. Tôi chỉ muốn nói rằng nếu tôi là kẻ sắp chết, tôi sẽ không viết một lá thư như thế cho em gái nhỏ Mary của chúng tôi. Viết thế mà cũng viết! Làm thế nào điều đó có thể an ủi em ấy được chứ? Tôi đọc đi đọc lại dù mắt tôi đau nhức vì khóc đến nỗi tôi không còn nhìn thấy nét chữ nắn nót của chị ấy. Không một chữ nào bị gạch bỏ hay tẩy xóa. Chị ấy không khóc trong khi viết nhưng tôi đang khóc như mưa khi đọc nó. Chị ấy không viết nguệch ngoạc một cách tuyệt vọng trong nỗ lực cuối cùng để nói lời tạm biệt tôi, cô em gái ngưỡng mộ và yêu quý chị ấy biết nhường nào. Chị ấy không bận tâm gì đến việc nói cho tôi biết rằng chị ấy yêu tôi, rằng chị ấy nghĩ về tôi, rằng trái tim chị ấy như vỡ vụn vì chúng tôi sẽ không còn được cùng nhau trưởng thành. Chúng tôi sẽ không còn là những cô gái quyền quý trong cung điện để vui đùa cười nói khúc khích với nhau trước mặt những người ngưỡng mộ chúng tôi. Chúng tôi sẽ không bao giờ được các quý phu nhân đọc truyện cổ tích cho nghe nữa. Chị ấy viết ra những dòng chữ thanh tao này một cách tự nhiên và bằng sự thông tuệ của người có học không một chút ngập ngừng. Tất cả là về Chúa, Đấng Tối Cao, như thường lệ.

Tất nhiên, ngay sau khi đọc lại bức thư lần nữa, tôi biết mình phải làm gì. Tôi không vo tròn và ném nó vào lò lửa trong cơn phẫn nộ vì buồn đau tột độ, dù đó là ý nghĩ đầu tiên đến với tôi. Tôi sẽ làm những gì chị ấy muốn. Chị ấy thậm chí không cần phải nói vì chị ấy biết tôi hiểu rõ. Chị ấy không cần phải hủy hoại sự thánh thiện của mình bằng một hướng dẫn thực hành tầm thường. Tôi biết chị ấy muốn gì mà chẳng cần chị ấy nói ra. Tôi phải gửi bức thư này, một bức thư đầy băng giá không hề đề cập đến tình chị em, cho những người mà chị ấy gọi là những người bạn quan trọng ở Thụy Sĩ để họ in và phát hành nó đến tất cả mọi người. Mọi người sẽ đọc nó và bảo rằng đó là một lá thư tuyệt vời của một con chiên ngoan đạo, rằng cô gái này là một vị thánh. Quả là những lời khuyên nhủ khôn ngoan dành cho em gái mình và chắc chắn rằng đức tin của chị ấy đã đưa chị ấy lên thiên đường. Thật may mắn cho tất cả chúng ta vì được ban phước bằng sự có mặt của chị ấy trên cõi đời này.

Sau đó tất cả mọi người sẽ tung hô ngưỡng mộ Jane và trích dẫn lá thư chết tiệt này mãi mãi. Họ sẽ in nó ở Anh và Đức và Thụy Sĩ như một phần của trí tuệ vĩ đại của Jane Grey, là bằng chứng nói rằng chị ấy là một cô gái trẻ đặc biệt mà sự tưởng nhớ dành cho chị ấy sẽ tiếp diễn từ đời này sang đời khác và cuộc đời chị ấy là một bài giảng sống động cho giới trẻ. Nếu có ai đó nghĩ đến tôi, chắc họ sẽ nghĩ rằng tôi là một cô gái ngu ngốc vô tích sự mới nhận bức thư cuối cùng của một người tử vì đạo. Nếu Mary Magdalene49* đến ngôi mộ trống vào buổi sáng Phục sinh và không nhận ra người làm vườn là Đức Giêsu đã sống lại thì bà ấy đã hủy hoại phép lạ Phục sinh mãi mãi. Tôi sẽ là bà ấy, người đóng vai phụ trong cảnh vĩ đại nhất, nhưng hoàn toàn thất bại trong vai chính của mình. Nếu Mary Magdalene vấp phải đá tảng và nhảy dựng lên ôm lấy ngón chân thì tôi cũng thế. Mọi người sẽ nhớ về Jane hiển thánh chứ không ai nhớ đến tôi – đứa em gái ngu ngốc, người nhận bức thư tuyệt vời cuối cùng của chị ấy. Không ai nghĩ rằng tôi muốn và xứng đáng được nhận một lá thư cuối cùng, một bức thư thích hợp và mang tính cá nhân. Và cũng không ai nghĩ đến cô em gái Mary của chúng tôi, người thậm chí còn không nhận được lời nào từ Jane.

49* . Mary Magdalene: vị thánh nữ được cả Tân Ước quy điển và Tân Ước ngụy thư miêu tả là một môn đệ của Chúa Giêsu. Bà cũng được Công giáo La Mã và Chính Thống giáo Đông phương xem là thánh với ngày lễ mừng vào 22 tháng 7. Tên của bà có nghĩa là “Mary thành Magdala”, một thị trấn nhỏ ở Galile nằm bên bờ tây của hồ Tiberia.

Nếu Jane không chết, tôi sẽ rất tức giận với chị ấy về chuyện này. “Hãy hiểu rằng em phải chết”! Viết thế mà cũng viết, nhất là cho một đứa em gái nhất mực yêu thương chị ấy! Nếu chị ấy còn sống, tôi sẽ đến Tháp ngay bây giờ và đập vào cái đầu bên dưới cái mũ trùm đen của chị ấy và túm tóc chị ấy mà giật vì đã viết một bức thư vô tâm như thế cho em gái mình, là tôi – cho tôi! Lại còn nói tôi nên vui mừng vì đã mất tất cả của cải và nhà cửa, rằng tôi nên vui mừng vì có quyển Kinh Thánh trong tay, là thứ quý hơn cả châu cả ngọc. Làm như thể tôi yêu Kinh Thánh hơn ngôi nhà đáng yêu của chúng tôi. Ôi, Kinh Thánh thay vì Bradgate! Làm như thể ai cũng nghĩ như chị ấy vậy. Làm như thể tôi không thích châu báu và những thứ đẹp đẽ xung quanh và xem chúng quan trọng hơn mọi thứ khác trên đời! Làm như thể chị ấy không biết điều này vậy; như thể chị ấy chưa từng cười nhạo tôi vì sự phù phiếm ngớ ngẩn hàng trăm lần trước đây!

Và rồi tôi nhớ ra, một cơn nấc nghẹn kinh hoàng lạnh ngắt quặn thắt cả lòng tôi khi cái mũ trùm đầu của chị ấy rơi xuống và đầu chị ấy lìa khỏi cổ. Nếu tôi nắm mớ tóc dài của chị ấy mà kéo lên, có lẽ đầu chị ấy sẽ đong đưa như một quả bóng buộc vào đầu một sợi dây thừng. Tôi thấy mình đang gào thét, hơi thở hổn hển và đưa hai tay bịt chặt lấy miệng cho đến khi tôi hoàn toàn bất tỉnh.

Tôi ngủ trong trạng thái kiệt sức cùng cực trên giường của tôi trong căn nhà yên tĩnh. Chồng tôi, Henry, không nằm cùng tôi. Tôi nghĩ anh ta sẽ không bao giờ ngủ cùng tôi. Tôi nghĩ anh ta thậm chí còn bị cấm gặp tôi. Chắc chắn chúng tôi không được ở cùng nhau kể từ khi Nữ hoàng Mary trở lại London trong chiến thắng của mình. Tôi tưởng tượng cả nhà Herbert đang tuyệt vọng ra sức dẹp bỏ cuộc hôn nhân này sang một bên để giải phóng mình khỏi thế bất lợi khủng khiếp khi chị của vợ mình bị chặt đầu vì tội phản bội. Cả nhà họ sẽ viết những lời thú tội và thề rằng họ hầu như không biết gì về gia đình nhà Grey chúng tôi. Mới chín tháng trước đây thôi, đó là một cuộc hôn nhân huy hoàng, tiếp theo là bắt bớ, và bây giờ tôi đang rối như tơ vò. Tôi ở phòng của mình và khi ăn tối tôi phải ngồi cùng bàn với những người hầu. Tôi cúi mặt và mong rằng không ai nói chuyện với tôi, vì tôi thậm chí còn không biết tên của tôi là gì. Liệu tôi có còn là Katherine Herbert hay không? Hay tôi là Katherine Grey như trước kia? Tôi không biết tôi phải là ai, tôi không biết tôi phải nói gì. Tôi nghĩ an toàn nhất là tôi không nói gì cả.

Tôi phải cầu nguyện cho cha tôi nhưng tôi không biết lời cầu nguyện nào được phép. Tôi biết chúng tôi không được cầu nguyện bằng tiếng Anh nữa, và mọi nghi thức liên quan đến thánh lễ cũ đều bị nghiêm cấm. Tôi hiểu tiếng Latin khá tốt – chứ không phải tôi hoàn toàn ngờ nghệch – nhưng thật kỳ quặc khi tôi phải cầu nguyện bằng một thứ tiếng mà hầu hết mọi người không thể hiểu. Vị linh mục đang quay lại cộng đoàn tín hữu của mình và cử hành thánh lễ như thể đó là một bí mật giữa ông và Chúa và điều này thật quái dị đối với tôi, người được nuôi dưỡng và lớn lên trong sự hiệp thông với mọi người và tất cả họ đều cùng dâng bánh mì và rượu. Giờ đây người ta lầm bầm đáp lời vị linh mục, nhưng không chắc chắn gì về những từ ngữ lạ lùng. Không ai biết thần thánh là gì, không ai biết điều gì đúng điều gì sai, và không ai biết tôi là ai – thậm chí cả tôi cũng vậy.

Họ đưa cha tôi ra xét xử và lại buộc tội ông. Tôi nghĩ trước đây Nữ hoàng đã tha tội cho ông một lần, liệu bà ấy có tha tội ông lần nữa? Vì đó là cùng một vụ? Sao lại không? Nếu phản bội không phải là quá tồi tệ lần đầu tiên, nó có tệ hơn nhiều khi lặp lại không? Tôi không gặp mẹ tôi nên không hỏi được liệu bà có hy vọng cứu được chồng mình như lần trước, bởi vì tôi không đi đâu cả. Tôi không rời lâu đài Baynard. Tôi không biết tôi có được phép ra ngoài không, nhưng tôi nghĩ là không.

Không ai hỏi tôi xem tôi có muốn đi đây đó thăm viếng ai không. Không ai dẫn tôi đi bất cứ đâu bằng thuyền hay chí ít mời tôi đi dạo bên ngoài cùng họ. Không ai hỏi liệu tôi có muốn cưỡi ngựa không. Không một ai nói chuyện với tôi ngoài những người hầu. Tôi thậm chí không biết liệu những lính gác ở cổng ngoài có mở cửa cho tôi nếu tôi đi về phía họ. Tất cả những gì tôi biết là: tôi là một tù nhân trong ngôi nhà của chồng tôi. Tất cả những gì tôi biết là tôi đang bị quản thúc tại gia, đối mặt với tội mưu phản. Tuyệt nhiên không ai nói gì với tôi cả.

Thực ra, cũng không có ai đi đâu. Không ai đi ra ngoài ngoại trừ cha chồng tôi, người hay vội vội vàng vàng khoác lên mình chiếc áo choàng đẹp nhất và gấp rút vào triều để ngồi vào hội đồng xét xử rất nhiều người là đồng minh của ông chỉ mới vài tuần trước. Giờ đây họ bị buộc tội mưu phản và bị treo cổ từng người một tại mọi ngã tư trong thành. Chính Elizabeth, người em cùng cha khác mẹ với Nữ hoàng Mary, người thừa kế, theo tất cả những gì tôi biết, kẻ mưu phản giấu mặt kín nhất, cũng bị nghi ngờ phản bội. Tôi e rằng họ cũng sẽ chặt đầu cô ấy. Vì họ dám chặt đầu Jane, người ngay từ đầu không bao giờ muốn nhận ngai vàng, nên tôi thấy họ không có lý do gì phải do dự khi chặt đầu Elizabeth, người luôn muốn có vương miện, vốn là một kẻ hư hỏng, vô tích sự và là trung tâm của mọi chuyện đàm tiếu.

Thậm chí tôi cũng không gặp Mary. Em ấy đang ở nhà chúng tôi ở London, Lâu đài Suffork cùng với mẹ tôi. Tôi không gặp bất cứ ai ngoại trừ cha chồng tôi và người được gọi là chồng tôi trong bữa ăn tối và tại nhà nguyện, nơi chúng tôi cầu nguyện bốn lần một ngày, lẩm bẩm những từ ngữ kỳ lạ hết lần này đến lần khác cho đến lúc lên đèn dưới ánh chiều tà. Họ không nói chuyện với tôi, nhưng cha chồng tôi nhìn tôi như thể ông ấy rất ngạc nhiên vì tôi vẫn còn ở đây, và ông ấy không hiểu tại sao.

Tôi không cho ông ấy có lý do gì để than phiền. Tôi làm ra vẻ ngoan đạo như thể tôi là một nữ tu dòng kín – một nữ tu dòng kín rất e dè. Đó không phải lỗi của tôi! Tôi sinh ra và được nuôi dưỡng trong tôn giáo Cải cách và tôi học tiếng Latin để học hành tấn tới, chứ không phải để lẩm bẩm nói theo mấy ông linh mục. Tôi biết ngữ pháp Latin, nhưng tôi không bao giờ thuộc được những lời cầu nguyện bằng thứ tiếng này. Vì vậy, các bài Thánh vịnh và các ơn phước cũng vô nghĩa đối với tôi như thể chúng bằng tiếng Do Thái cổ. Tôi cúi đầu thì thầm những lời nghe rất thành kính. Tôi đứng lên quỳ xuống và làm dấu thánh theo mọi người xung quanh. Nếu không vì quá đau buồn, chắc tôi sẽ chán đến chết đi được. Khi họ thì thầm với tôi, ngay trước lễ Matins, rằng cha tôi đã bị chặt đầu cùng với những kẻ phản bội khác, tôi cảm thấy kiệt sức hơn là bất hạnh, và tôi không biết phải cầu nguyện thế nào cho cha. Tôi nghĩ rằng vì Nữ hoàng Mary lên ngôi, ông phải qua luyện ngục50* và chúng tôi cần xin lễ cho linh hồn ông được mau lên thiên đàng. Nhưng tôi không biết phải xin lễ ở đâu trong khi các các tu viện vẫn đóng cửa im lìm. Tôi không biết có thật là có luyện ngục hay không, vì chị Jane của tôi nói rằng không có nơi nào như thế cả.

50* . Purgatory: Luyện ngục hay Tòa luyện tội, nơi nằm giữa thiên đàng và địa ngục, dành cho những linh hồn cần được “thử thách, tôi luyện” thêm trước khi được lên thiên đàng.

Tôi chỉ cảm thấy rất, rất mệt mỏi vì điều này, và tất cả những gì tôi thực sự quan tâm là khi nào tôi có thể ra ngoài, và khi nào tôi mới được hạnh phúc trở lại. Tôi nghĩ rằng điều này có nghĩa là tôi, như Jane nói, hoàn toàn không có ân điển của Chúa Thánh Thần. Trong khoảnh khắc, tôi nghĩ tôi sẽ nói với chị ấy rằng chị ấy đã đúng và tôi là một kẻ phàm tục, và buồn một cách không thể lý giải. Nhưng rồi tôi nhớ ra rằng tôi sẽ không bao giờ còn được nói với chị ấy về bất cứ điều gì thêm một lần nào nữa, và có lẽ đó là lý do tại sao tôi buồn.

Thật không thể tin nổi, mẹ tôi – người không có chút gì là thiên thần trên đời này – lại đem đến một phép màu thực sự. Bà tham dự không ngừng nghỉ các buổi thiết triều, cầu xin Nữ hoàng rằng chúng tôi, những nạn nhân vô tội với tham vọng của cha tôi, rằng gia đình nhỏ còn lại của ông ấy, đáng được tha thứ. Mẹ tôi van nài thiện ý của Nữ hoàng như thể đó là một con nai sừng tấm, để rồi cuối cùng mang nó ra bờ vịnh và cắt cái cổ họng lông lá của nó. Một khi Jane đã mất và không còn là trung tâm bất đắc dĩ của bất kỳ cuộc nổi loạn nào, một khi cha tôi đã chết và đã được chôn, Nữ hoàng sẽ trả lại chúng tôi một trong những ngôi nhà của chúng tôi, Beaumanor, gần Công viên Bradgate, và toàn bộ công viên Loughborough đẹp đẽ đầy muông thú của chúng tôi, và chúng tôi được sống giàu có một lần nữa.

“Còn con gấu thế nào?”, tôi hỏi mẹ khi bà nói với tôi về sự xá tội phi thường này.

“Con gấu nào?”

“Con gấu Bradgate. Con gấu mà con đã thuần hóa. Liệu chúng ta có được đưa nó đến Beaumanor?”

“Lạy Chúa, chúng ta đang cách đoạn đầu đài chỉ một gang tay thôi và con thì đang nói với mẹ về con gấu! Chúng ta đã mất cả nó và Bradgate, mất cả bầy chó săn và đàn ngựa. Chúng sẽ vào nhà người nào được Nữ hoàng sủng ái. Cuộc đời mẹ tan nát hết rồi, mẹ là một góa phụ đau khổ tột cùng, còn con thì đang nói với mẹ về con gấu?”

Nếu là Jane, chị ấy sẽ đứng lên và quả quyết rằng con gấu phải đi cùng chúng tôi đến Beaumanor. Tôi không dám làm thế. Tôi không có đủ từ ngữ như chị ấy và tôi không thể nói với mẹ rằng tôi cảm thấy con gấu, cũng như con khỉ Nozzle và mọi sinh vật sống khác, đều đáng được để mắt tới và phải được xem xét, là phù hợp với lòng yêu thương. Tôi muốn nói với bà rằng tôi cũng đau khổ cùng cực, nhưng tôi không thể tìm ra từ ngữ thích hợp và dù gì thì bà cũng không quan tâm. “Đi qua nhà Herbert đi!”. Bà hét lên. “Đi mà dọn đồ đạc của cô ra khỏi nhà họ”.

BEAUMANOR, LEICESTERSHIRE MÙA XUÂN NĂM 1554

Chỉ đến khi về tới nhà tôi mới nhận ra rằng chúng tôi đã được an toàn, vì lưỡi hái tử thần vừa sượt đầu chúng tôi. Mary, mẹ tôi và tôi, khỉ Nozzle và mèo Ribbon, bầy ngựa và bầy chó săn (nhưng không có con gấu) về nhà nhưng không hẳn là nhà. Đó là một ngôi nhà khác cạnh công viên, đủ gần để nhìn thấy những chiếc ống khói cao của ngôi nhà cũ của chúng tôi, để nhớ về ngôi nhà cũ của chúng tôi. Nhưng dù sao chúng tôi vẫn còn sống. Dù sống cùng nhau nhưng chúng tôi cãi cọ triền miên, điều đó cho thấy chúng tôi vẫn còn có thể nói chuyện với nhau, còn có thể nghe thấy nhau, và chúng tôi được an toàn.

Chúng tôi may mắn – may mắn hơn nhiều so với những người khác. Cha tôi không bao giờ trở về nhà, và tôi sẽ không bao giờ gặp lại chị gái tôi. Họ đã chôn từng phần thân thể chị trong nhà nguyện. Elizabeth người dì bà con chúng tôi bị đưa vào Tháp như một tù nhân bị nghi ngờ mắc tội mưu phản trong cuộc nổi dậy do Thomas Wyatt và cha tôi lãnh đạo. Chỉ có Nữ hoàng mới có quyền phóng thích Elizabeth, hoặc máu của dòng họ Tudor lại đổ xuống thảm cỏ xanh, nhưng bà không nói gì. Chắc chắn tôi sẽ không bao giờ đến đó dù tôi có thể giúp. Không bao giờ! Không bao giờ!

Tôi rất vui được ở cách xa London một cách an toàn nhưng tôi ước chúng tôi có thể trở về Lâu đài Bradgate của chúng tôi. Tôi nhớ phòng của chị Jane và cái thư viện đầy sách của chị ấy, còn Nozzle thì nhớ phòng ngủ của tôi và chiếc giường nhỏ xinh của nó trên ghế bên dưới cửa sổ. Tôi nhớ con gấu tội nghiệp. Thật nhẹ nhõm khi thoát khỏi sự im lặng đáng sợ trong ngôi nhà của gia đình Herbert, và tôi biết rằng cuộc hôn nhân của tôi đã được đặt sang một bên và có thể bị lãng quên như thể nó chưa từng xảy ra. Mary, mẹ tôi và tôi sống cùng nhau như ba kẻ sống sót của một đại gia đình năm người. Adrian Stokes, người chăn ngựa của chúng tôi, đi cùng chúng tôi đến Beaumanor. Ông ấy lo xẻ thịt nấu nướng cho chúng tôi, chăm sóc mẹ tôi và cư xử tốt với Mary và tôi. Ít ra tôi có thể ngồi dưới gốc cây nơi Jane và tôi thường ngồi đọc sách, nghe tiếng chim sơn ca hót trên cành cao vào lúc hoàng hôn, còn mẹ tôi có thể phi ngựa vòng quanh và đi săn như thể mọi chuyện chưa từng xảy ra, như thể bà không bị mất chồng và con gái, như thể tôi chưa bao giờ có một người chị gái.

BEAUMANOR, LEICESTERSHIRE MÙA HÈ NĂM 1554

Vào giữa mùa hè, mẹ tôi đã đạt được nhiều kết quả khả quan hơn: Bà vận động cho Mary và tôi được gọi vào triều và cả ba chúng tôi trở thành những người tùy tùng của vị Nữ hoàng đã hành quyết cha và chị gái tôi. Chúng tôi trở lại triều đình như những người họ hàng được chào đón, và không ai trong chúng tôi, kể cả em Mary, có chút nghi ngờ nào về điều này. Tôi hoàn toàn loại bỏ ý nghĩ ấy ra khỏi đầu. Nếu nghĩ về nó chắc tôi phát điên mất. Mẹ tôi chứng tỏ hằng ngày sự trung thành và tình thân thích của bà với người họ hàng Nữ hoàng yêu quý của mình. Bà luôn gọi “Người họ hàng yêu quý nhất của tôi” mọi lúc mọi nơi để đảm bảo rằng không ai quên rằng chúng tôi có quan hệ máu mủ với nhau; chúng tôi thuộc dòng dõi hoàng gia nhưng không đòi quyền thừa kế.

Không ai được quên những người họ hàng khác: Elizabeth hư đốn, giờ đang bị quản thúc tại Woodstock; Mary Stuart, người ngoại quốc ở Pháp, được đính ước với thái tử nước Pháp; và Margaret Douglas, người kết hôn với một bá tước và được Nữ hoàng ưu ái hơn bất kỳ người nào khác trong số chúng tôi, vì đức tin Công giáo được tuyên xưng rộng rãi của bà.

Thật đẹp mặt khi nhìn thấy sự lo lắng lúc những người họ hàng chúng tôi chuẩn bị vào ăn tối. Elizabeth lẽ ra phải ở đây, đi theo sau người chị gái cùng cha khác mẹ. Cô ấy là người thừa kế được chỉ định theo di nguyện của Vua Henry, và Nữ hoàng Mary không thể thay đổi điều đó. Bà ấy đã nghe lời xúc xiểm mà tước quyền thừa kế của Elizabeth, nhưng họ nói với cô ấy rằng Nghị viện sẽ không bao giờ chấp nhận điều đó. Tại sao Nghị viện lại đồng ý giết Jane nhưng không đồng ý tước quyền thừa kế của Elizabeth, chỉ có họ, trong những cuộc nghị bàn đáng sợ của họ, mới có thể trả lời. Nhưng dù sao, Elizabeth vẫn đang bị giam cầm và có lẽ cô ấy sẽ không bao giờ trở lại cung điện lần nào nữa.

Thế rồi Nữ hoàng đứng vào chỗ của mình ở đầu hàng, cách biệt tất cả những người phụ nữ khác. Đó là một dáng người nhỏ bé, thấp đậm quấn đầy nhung lụa, khuôn mặt vuông đăm chiêu căng thẳng. Chờ đã! Còn đây là mẹ tôi, trên người đeo đầy trang sức, luôn trong bộ áo váy màu ngọc bích (như một tuyên bố hùng hồn rằng “Tôi là một Tudor”, cho đến kẻ điếc đặc cũng phải nhận ra). Bà đứng hàng kế vị tiếp theo sau Elizabeth – và vì tình trạng hiện tại của Elizabeth nên bà gần như đứng ngay sau lưng Nữ hoàng. Hãy khoan! Không ai dám hình thành một đám rước cho đến khi những chỗ đầu tiên này được điền vào đầy đủ – người cuối cùng bước vào, nói đúng hơn là một cú phóng nước đại nặng nề, luộm thuộm của Quận chúa Margaret Douglas, trước đây được gọi là đứa con hoang đàng của Hoàng hậu Margaret xứ Scots cùng đức ông chồng51* to lớn của bà. Trước đây là thế, bởi vì bây giờ bà ấy là người thừa kế hợp pháp – Nữ hoàng Mary đã tuyên bố như vậy, Đức Giáo hoàng cũng nói như thế. Sự thật không thành vấn đề; điều quan trọng là những gì mọi người nói. Nếu bà ấy là người thừa kế hợp pháp, và là con gái của Hoàng hậu Margaret xứ Scots52*, thì bà ấy sẽ đứng trước mẹ tôi, con gái hợp pháp của Mary53*, Vương hậu Pháp quốc. Nhưng theo ý Đức Vua, ông chọn chúng tôi làm người thừa kế tiếp theo, và di chúc của Vua Edward cũng vậy... Vì vậy, ai biết ai sẽ là người thừa kế tiếp theo? Ai biết ai là người được xếp ngay sau Nữ hoàng? Không phải tôi, chắc chắn không phải tôi.

51* . Tức Archibald Douglas (1489 – 1557), Bá tước xứ Angus.

52* . Tức Margaret Tudor (1489 – 1541), chị gái Đức Vua Henry VIII.

53* . Tức Mary Tudor (1496 – 1533), vợ của Vua Pháp Louis XII.

Không phải mọi người chờ để đi ăn tối, mà đó là một cuộc tỉ thí thầm lặng. Quận chúa Margaret, người Thừa kế Hợp pháp, thường thô bạo chen ngang phía trước tôi, lúc đó tôi hơi lùi lại với sự nấn ná giả tạo nhưng cho rằng đó là lối cư xử thích hợp. Bà ấy là người được Nữ hoàng Mary sủng ái, ngoan ngoãn với Tòa thánh La Mã và cực kỳ trung thành với người họ hàng hiện đang là Nữ hoàng. Bà là một phụ nữ đẫy đà với mái tóc dày màu tro được quấn cẩn thận dưới cái mũ trùm đầu kiểu cũ. Bà dành cả cuộc đời mình khi thịnh khi suy với các triều vua trước, trong cũng như ngoài Tháp, và bà thường đi bằng đầu gối để kiếm một chỗ cho mình. Đứng cạnh bà, tôi trông như một cô con gái sắc sảo của bà, có lẽ là cháu gái thì đúng hơn. Tôi nhìn cân đối, dịu dàng, mười ba tuổi, là cháu gái thuộc hàng thừa kế chân chính và hợp pháp của Nữ hoàng Tudor nổi tiếng xinh đẹp của nước Pháp. Tôi bước lùi lại kèm theo tiếng thở dài có phần kiên nhẫn – tôi quý phái gấp trăm lần bà – cùng với một tiếng “Hứ” được nuốt vào bên trong.

Bà ấy và mẹ tôi bước đi so kè xàn xạt với nhau, khuỷu tay liền khuỷu tay, nắm đấm liền nắm đấm như hai võ sĩ đấu vật hằng đêm trên bãi cỏ làng. Nữ hoàng Mary liếc nhìn về phía sau, nở nụ cười và quẳng ra một lời cho một trong hai người bọn họ và thế là trật tự được thiết lập. Thế là chúng tôi có thể tiến lên đi ăn tối.

Mary, em gái tôi, thị nữ nhỏ bé nhất trên thế giới, đi cùng với tôi như thể chúng tôi là bạn nhảy với nhau. Chúng tôi nhìn đẹp đôi đến mức không ai nhận ra rằng em ấy quá bé nhỏ so với bất kỳ người nào khác. Họ cười trêu ghẹo và cưng nựng em ấy. Họ bảo mẹ tôi rằng bà phải cho em ấy ăn thịt thú rừng và thịt nướng nhiều hơn để em ấy mau lớn. Không ai nghĩ rằng có điều gì đó trục trặc với em ấy, còn mẹ tôi thì chẳng nói gì. Sau khi mất đi đứa con gái tinh anh nhất của mình, bà không định đánh giá thấp hai đứa còn lại. Tôi thấy Mary thỉnh thoảng để mắt đến gã lùn trong hoàng cung, Thomasina, như một chú mèo con nghịch ngợm thách thức một con mèo trưởng thành nhỏ bé. Thomasina, người đàn ông trưởng thành với chiều cao chưa đầy một mét hai nhưng rất đỗi kiêu kỳ, hoàn toàn không ngó ngàng gì tới Mary.

Lần đầu tiên khi tôi gặp cha con nhà Herbert, chúng tôi như những kẻ xa lạ. Cuộc hôn nhân của tôi đã bị hủy bỏ như thể nó chưa từng xảy ra, và không ai trong số họ nói với tôi một lời. Ngài Bá tước xứ Pembroke cúi đầu chào như thể ông ta không hề nhớ tôi là ai. Con trai ông ta, Henry, khẽ nghiêng đầu tỏ vẻ hối tiếc đôi chút. Tôi làm ngơ cả hai.

Tôi không quan tâm đến họ, tôi không quan tâm bất cứ chuyện gì trong cung. Tôi lại trở thành một thành viên trẻ của hoàng tộc. Tôi đã được phục hồi địa vị. Thật khó mà tin rằng tôi từng có một người chị tên Jane vì không ai nhắc tới chị ấy. Tôi không còn cha, tôi không còn chị Jane. Mary và tôi giờ là những người hầu cận trung thành của Nữ hoàng Mary, và mẹ tôi tháp tùng bà ấy đi khắp nơi như người em họ được sủng ái của bà và là một phu nhân cao quý trong triều. Tôi có phòng riêng trong cung của Nữ hoàng, còn Mary ngủ cùng phòng với các thị nữ khác. Chúng tôi được thừa nhận là cháu họ của Nữ hoàng. Chúng tôi kết bạn mới và những người đồng hành mới.

Tôi gặp Janey Seymour, em gái của Ned Seymour, anh chàng đẹp trai được hứa hôn với chị Jane của tôi từ thuở nào. Tôi thích Janey ngay lập tức. Đó là một cô gái thông minh, một người uyên bác như chị Jane; cô ấy thậm chí biết làm thơ với vần điệu rất hay. Cô ấy rất biết đùa và hài hước. Cô hạ gục tôi ngay lập tức như một người bạn lý tưởng: cô ấy xinh đẹp như tôi và học thức như Jane. Cô từng hy vọng làm em chồng của Jane. Cô ấy là người duy nhất trong triều nhắc đến chị Jane. Chúng tôi cùng chia sẻ sự mất mát, và bây giờ chúng tôi làm bạn với nhau.

Hai chúng tôi tâm đầu ý hợp về mọi thứ. Chúng tôi cùng ngấm ngầm phản đối khi nữ hoàng chấp nhận lời cầu hôn từ một người nhỏ hơn bà mười một tuổi và ngàn lần đẹp hơn bà, Hoàng tử Philip điển trai chói lòa của Tây Ban Nha, người đến Anh cùng với một đoàn tùy tùng đẹp trai đến ma quái làm cả đám thị nữ chúng tôi choáng váng vì khao khát, phát rồ vì ngưỡng mộ.

Tất cả họ đều giàu có, họ giàu có một cách không thể diễn tả được, không thể tưởng tượng được! Một cô gái không nên bị chê trách vì âm thầm học một vài từ tiếng Tây Ban Nha và cầu mong sao một trong những quý ông kia, bất cứ ai trong số họ, để ý đến cô. Những chiếc áo choàng của họ đều được thêu dệt bằng những sợi chỉ vàng, chỉ bạc thật. Họ đeo dây chuyền vàng quanh cổ như thể chúng thay cho khăn quàng. Mũ miện của họ được khảm ngọc trai, họ đeo hồng ngọc mà như đeo hạt lựu, và mỗi một người trong số họ đều có một mặt dây chuyền hình thánh giá khổng lồ kỳ quặc đeo trễ xuống ngực trên lớp vải lanh hoặc đeo cao tận cổ một cách hãnh diện. Tôi không ngăn được nụ cười mỉm khi nghĩ rằng nếu Jane nhìn thấy cảnh này, chị ấy sẽ rùng mình vì sự phô trương của cải vật chất lẫn những thứ dị giáo chỉ qua một hành động phù phiếm này. Tôi càng nhớ Jane da diết khi tôi nhớ lại đôi mắt màu hạt dẻ to rộng của chị, khuôn mặt kinh hoàng tột độ của chị và cả cái bĩu môi bất đồng của chị ấy.

Các thị nữ trong cung Nữ hoàng Mary thì thầm với nhau rằng liệu họ có muốn kết hôn với một trong số những quý ông đẹp trai này và sang Tây Ban Nha sống mãi mãi hay không. Tôi nghĩ rằng – vâng, tôi muốn. Chúa biết tôi muốn được thế. Tôi không muốn gây rắc rối cho bản thân về tội dị giáo và sự công chính. Tôi muốn được khiêu vũ và đeo một viên ngọc nho nhỏ trên tay. Tôi muốn ai đó yêu tôi, tôi muốn cảm thấy được sống, tôi muốn cảm thấy mình sống điên cuồng trong từng khoảnh khắc mỗi ngày, vì tôi đã thấy một cô gái có thể dễ dàng và nhanh chóng chết đi như thế nào. “Hãy biết rằng em phải chết!”. Tôi đã học được điều đó; và tôi chỉ muốn sống. Janey Seymour nói rằng trái tim tôi đập gấp gáp như của cô ấy, rằng cả hai chúng tôi phải sống với tốc độ phi nước đại. Chúng tôi còn trẻ và chúng tôi phải tận hưởng mọi thứ ngay lập tức. Cô ấy nói đó là lý do con người ta cần trẻ trung và xinh đẹp – không giống như Nữ hoàng, người gần bốn mươi tuổi và chậm chạp như một con ngựa lùn già béo núc bị bỏ ngoài đồng cỏ quá lâu.

Hôn lễ của Nữ hoàng với Hoàng tử Philip của Tây Ban Nha diễn ra tại lâu đài Winchester và bà có một sự xuất hiện kém cỏi trước công chúng. Trông bà nhợt nhạt với những dây thần kinh nổi rõ trên da. Khuôn mặt nhỏ bé vuông vức của bà chốc chốc lại cau có giống như người cha trái tính của mình mỗi khi bà cảm thấy lo lắng. Bà đứng hệt kiểu của cha mình trong những bức chân dung trông phát khiếp của ông ấy, đôi chân bà dang rộng dưới bộ váy đầm dày, hung hăng như một con gà mái đẻ. Trời đất ơi! Thật là một cô gái già kiên định! Tôi biết đó không phải là lỗi của bà – họa có ngốc tôi mới nghĩ rằng một người phụ nữ phải bị trách cứ vì không còn trẻ và xinh đẹp – và tất nhiên tôi thích mình cũng được trẻ và đẹp, hoặc chí ít cũng là một trong số chúng. Tuy nhiên, bà cũng đã phục sức tốt nhất có thể trong ngày cưới của mình. Bà vận hoàng bào bằng vàng, hai tay áo đính kim cương – và rồi chúng tôi bắt đầu hồi hộp chờ đợi xem liệu bà có thể sinh hạ cho ông ta một đứa con trai hay không.

Cung điện Hampton mùa hè năm 1555

Trong khi đang trải qua thời kỳ thai nghén mệt mỏi dưới thời tiết nóng nực, Nữ hoàng Mary đã tìm thấy chút độ lượng trong tim mình và đã tha thứ cho người em gái khó chịu của bà. Bà cũng xiêu lòng trước sự thuyết phục của chồng bà, Hoàng thân Philip, và phóng thích Elizabeth khỏi Cung điện Woodstock. Người họ hàng thân thiết của chúng tôi, Elizabeth, bước vào triều, trang phục khiêm tốn với chiếc mũ trùm đầu nhỏ trên mái tóc nâu đỏ. Cô ấy phục sức kiểu Tin lành Kháng cách đen trắng, đáng yêu và nhiệt tình như bất kỳ quý cô quá lứa lỡ thì nào.

Sự hiện diện của Elizabeth làm tăng thêm một vận động viên nước rút trong cuộc đua nhằm chiếm vị trí đầu tiên phía sau Nữ hoàng mỗi khi bà đi bất cứ đâu. Nhưng chắc chắn là, mặc dù Elizabeth có thể tranh được vị trí đó, nhưng cô ấy không nên xem rằng thế là mình có cơ hội được chọn làm người thừa kế tiếp theo của Nữ hoàng. Đơn giản là sự có mặt của cô ấy nhắc nhở mọi người về cuộc chia tách tôn giáo, vì mọi người đều biết rằng Elizabeth theo đạo Tin lành giống như chị Jane của tôi.

Khi triều đình chuyển đến Oatlands, mẹ tôi trở về nhà Beaumanor mà không có lời báo trước với tôi hay Mary. Bà vứt bỏ bộ áo đen và cưới Adrian Stokes, người từng phục vụ chúng tôi và chăm sóc cho những con ngựa và chó săn của gia đình chúng tôi thuở nào. Mary nói rằng mẹ chúng tôi không có đủ tiền để trả lương cho ông ta nhưng cũng không thể thiếu sự chăm sóc của ông ta đối với lũ ngựa. Còn tôi thì nghĩ rằng bà rất vui vì thoát được cái họ Grey, vốn được xưng tụng trong mọi cuốn sách nhỏ về những nhà cải cách bất hợp pháp, và nổi tiếng khắp các cộng đồng Cơ đốc giáo. Cưới Adrian Stokes, bà có thể chôn vùi cái họ phản bội mà bà phải mang với người chồng trước và đứa con gái theo tôn giáo Cải cách của mình và giả vờ, như mọi người khác, rằng họ chưa bao giờ tồn tại. Tất cả đều tốt cho bà. Bà trở thành Phu nhân Stokes (mặc dù tôi biết bà luôn yêu cầu được gọi là Quận chúa Frances và nhận những cái cúi chào sâu kiểu hoàng gia), còn tôi vẫn là Quận chúa Katherine Grey. Mary vẫn là Quận chúa Mary và không có cách nào để thay đổi tên của chúng tôi trừ phi ai đó kết hôn với chúng tôi. Không có dấu hiệu gì chúng tôi, cùng với Elizabeth, Mary xứ Scots và Margaret Douglas, là những người thuộc dòng họ Tudor còn lại cuối cùng. Tất cả chúng tôi đều thuộc hàng thừa kế ngôi vị nữ hoàng. Tất cả chúng tôi đều quanh quẩn ở sân triều chờ đợi kết quả đến từ ý nghĩ chóng vánh này. Một trong số chúng tôi chắc chắn sẽ kế vị, trừ phi Nữ hoàng Mary sinh được đứa bé khỏe mạnh – điều mà mẹ bà chỉ làm được đúng một lần.

CUNG ĐIỆN OATLANDS, SURREY MÙA HÈ NĂM 1555

Chỉ có Chúa mới biết, chứ không phải tôi, rằng tại sao không có gì tốt đẹp đến với dòng họ Tudor chúng tôi cả. Nữ hoàng Mary không có được con trai như bà ao ước. Bà mang thai với cái bụng xinh xắn và cả bọn nữ tỳ chúng tôi đều rất thích thú được ngồi cùng bà may những bộ quần áo trẻ con. Và khi bước ra ngoài, chúng tôi lắc đầu nguầy nguậy nói rằng chúng tôi thực sự không thể thảo luận về chuyện sinh nở của phụ nữ với các tướng quân Tây Ban Nha đẹp trai. Tôi nói rất nhiều rằng một thiếu nữ như tôi (chứ không phải là một người vợ bị ruồng rẫy, một quý bà bị hủy bỏ cuộc hôn nhân chỉ vài tuần sau khi cưới) không thể nhận xét được Nữ hoàng có khỏe mạnh hôm nay hay không. Những chuyện như thế là điều bí mật đối với một trinh nữ như tôi. Chúng tôi giữ kín mồm miệng – thật tuyệt vời – từ tháng thứ bảy cho đến khi tròn chín tháng, và có thể sang tháng thứ mười (không chắc chắn lắm). Giờ đây nó thực sự là một điều bí ẩn đối với tất cả chúng tôi – những cô hầu gái kiêm nữ hộ sinh. Chúng tôi che giấu sự lo lắng ngày càng tăng một cách tốt nhất có thể nhưng chúng tôi dám chắc rằng Nữ hoàng đã tính toán nhầm ngày sinh. Bà có thể lâm bồn bất cứ lúc nào từ bây giờ, nhưng tôi đồ rằng có gì đó không tự nhiên.

Trong thời gian chờ đợi, Elizabeth trở thành cái rốn của vũ trụ. Cô ấy làm xiêu lòng mọi quý bà, chu đáo và ân cần với các quý ông, hết lòng quan tâm đến sức khỏe của người chị gái cùng cha khác mẹ yêu dấu của mình và quyến rũ như một nữ tu xuất trước mặt chồng của chị mình, Hoàng thân Philip của Tây Ban Nha, người rõ ràng xem cô là sự bảo đảm an toàn cho mình nếu người vợ lớn tuổi của ông ta chết khi sinh con.

Tôi hỏi mẹ tôi chuyện gì đang xảy ra với Nữ hoàng và tại sao bà ấy lại không làm việc và mang thai con mình như một người phụ nữ bình thường – và bà liếc xéo tôi và nói rằng trên đời bà chưa từng thấy ai ngu như tôi khi hỏi người thừa kế ngai vàng đang làm gì, vì mỗi ngày trôi qua nếu không ai sinh nở gì thì bà là người thừa kế hợp pháp số một và nhờ thế vị trí của tôi sẽ trở nên ngày càng tốt đẹp hơn. Tôi thì thầm “Còn Elizabeth?” và mẹ tôi trả lời sắc lạnh: “Ở đó mà tuyên phong thừa kế cho đứa con hoang ấy!”, và vụt tôi tới tấp bằng cái roi ngựa của bà. Tôi chấp nhận rằng mình không thể có được lời khuyên hữu ích đáng bậc cha mẹ từ bà, và tôi không hỏi thêm gì nữa.

Một tháng trôi qua và bụng của Nữ hoàng dường như xẹp xuống, như thể nó chưa từng là gì cả ngoài một đồng cỏ có con cừu già tham ăn đến chướng bụng. Giờ đây tất cả chúng tôi không nói gì cả khi Nữ hoàng đã qua kỳ ở cử và lại thiết triều như thể không hề có chuyện gì xảy ra.

Tất nhiên bà thật khắc khoải vì yêu điên cuồng Philip và ông ta đủ lịch sự và kiên nhẫn như một người đàn ông có bà vợ lớn tuổi đang tưởng tượng rằng mình mang thai và điều đó làm họ trông giống như những kẻ ngốc. Thực sự, chúng tôi rất mệt mỏi vì tất cả quần thần nước Anh đã bỏ rất nhiều công sức cho “sự phì nhiêu”54* của Nữ hoàng yêu quý của chúng tôi, tất cả lũ hầu gái chúng tôi phải lăng xăng suốt ngày đêm quanh bà như thể chúng tôi là những người quan trọng lắm lắm. Tệ nhất là Elizabeth, người rơi lệ vì sự cảm thông nhưng luôn bước vào bữa tối ở vị trí đi ngay sau Nữ hoàng, bám sát gót bà, như thể sự quan tâm của Philip dành cho cô ấy chứng tỏ cô ấy là người thừa kế, để mọi người quên đi quyền thừa kế của mẹ tôi, và quên đi cả tôi. Trong những tình huống không thể lường trước và khôi hài này, và nó càng cho thấy sự ngu ngốc điển hình của đám đông, tôi nhận ra rằng thật bất hạnh nếu tôi thừa hưởng tham vọng của mẹ tôi. Thực sự, tôi có thể xem thường nó, xem nó đã đưa chúng tôi đến đâu, nhưng tôi không thể tự giúp mình, tôi phật ý trước bất cứ ai có ý cho rằng tôi không phải là người thừa kế và tôi bắt đầu tranh đấu trong cuộc tranh luận hằng đêm để giành lấy thế thượng phong.

54* . Tác giả chơi chữ. “Fertility” vừa có nghĩa là sự màu mỡ, phì nhiêu, vừa có nghĩa là sự thụ tinh/sinh sản.

Cũng không có gì quá đáng khi tôi nghĩ rằng mình sẽ trở thành nữ hoàng – tôi không muốn thay thế Nữ hoàng Mary – nhưng tôi muốn đứng trong hàng thừa kế của bà. Tôi không nhìn thấy bất cứ ai khác phù hợp với chiếc vương miện. Tôi không vui khi nghĩ Elizabeth là nữ hoàng. Tôi không thể tưởng tượng cô ấy chiếm chỗ của Jane. Không ai cả. Cô ấy không xứng đáng! Vì mọi lẽ, từ mái tóc vàng hoe đỏ kinh khủng của cô ấy – không phải vàng ánh kim như tôi – cho đến làn da cô ấy, vàng bủng như của người Tây Ban Nha. Cô ấy không xứng đáng là nữ hoàng Anh. Tôi sẵn sàng lùi một bước nhường chỗ cho hoàng tử bé mang hai dòng máu Tây Ban Nha và Anh, được sinh ra từ hôn thú của hai kẻ trị vì hai vương triều, nhưng tôi sẽ không bao giờ lùi bước trước đứa con hoang của người ông cậu55* hư hỏng của tôi – nhất là vì không ai biết Elizabeth có xuất thân như thế. Mẹ cô ấy bị phát hiện thông dâm với năm người đàn ông! Liệu Elizabeth có phải là con của tay chơi đàn luýt của nhà vua không – ai biết được?

55* . Great Uncle: ý nói Henry Tudor, tức Vua Heny VIII.

Nhưng trong quãng thời gian buồn chán này, khi không có vị Hoàng tử xứ Wales nằm nôi và cũng không có dấu hiệu mang thai nào khác dù nhỏ, tôi không phải là người duy nhất nghĩ đến các quyền lợi hoàng gia của mình. Tôi dường như trở thành mối quan tâm lớn của hai người – hai người đàn ông, thực vậy. Một người là chồng cũ của tôi, Henry Herbert, người luôn quay đầu và nở một nụ cười phớt đầy bí ẩn khi chúng tôi đi ngang qua anh ta. Chính xác là tôi không mỉm cười đáp lễ, tôi cho anh ta một cái nhìn giống như Jane thường sử dụng khi chị ấy đọc điều gì đó mà chị ấy nghĩ là không đúng: một cái nhướng mày hoài nghi, kiểu khinh miệt. Tôi nghĩ cách đó thật quyến rũ, và tôi cúi xuống Mary, cô em gái nhỏ nhắn của tôi, khi em ấy nhắc rằng tôi đang phỉnh mũi với Henry Herbert như thể tôi muốn chúng tôi vẫn còn trong tình trạng kết hôn với nhau.

Tôi nói rằng việc bình luận về vẻ bề ngoài của tôi khó mà thích hợp với em ấy, người chỉ cao đến mép trên áo choàng của tôi. “Em chẳng cao hơn cô thị nữ lùn Thomasina của Nữ hoàng”, tôi nói nghiêm túc. “Đừng nói với chị rằng chị đang phỉnh mũi nhé!”.

“Em không phải người lùn”, em ấy nói chắc nịch. “Em nhỏ con nhưng em mang dòng máu hoàng gia. Em hoàn toàn khác với Thomasina. Mọi người đều nói thế!”.

Tôi không nên thách thức phẩm giá tí hon của em ấy. “Ồ, thế tất cả những người nói vậy là ai thế?”.

“Là em đây”, em ấy nói bằng một phẩm cách lớn. “Và chính em mới quan trọng”. Em ấy luôn tỏ ra không hề bối rối vì em ấy thấp bé và không thể cao lên được nữa. Jane từng nói với em ấy rằng những người lùn ở một số quốc gia ngoại giáo còn được tôn kính như những vị thần, và ý nghĩ đó làm tràn ngập niềm tự hào trong em. Em ấy đánh giá rất cao chính mình, một người đứng quá thấp giữa những người khác. Tôi nghĩ thật kỳ quặc khi tôi có một đứa em gái dám khinh thường cái thế giới đầy thú vui xác thịt này, một người quá nhỏ bé để mà thèm muốn nó, và chính tôi đây, được sinh ra giữa hai chị em gái của mình, cao lớn và xinh đẹp, một cô gái được khao khát nhất cho những thú vui trần thế ngay giữa chốn triều đình này.

“Em nghĩ chị muốn cưới anh ấy lần nữa”, Mary nói một cách láu lỉnh. “Em đã từng nghĩ rằng cách họ đối xử với chị sẽ làm chị chấm dứt quan hệ với nhà Herbert mãi mãi”.

Tôi nói với em ấy rằng không đời nào! Không đời nào! Chúng tôi chưa từng kết hôn với nhau, không đời nào! Cũng như em ấy chưa bao giờ được hứa hôn. Cuộc hôn nhân đã bị từ chối và rơi vào quên lãng nên tôi không hiểu tại sao anh lại mỉm cười với tôi một cách hấp dẫn như thế. Lẽ ra anh ta phải giữ tôi làm vợ nếu anh ta thích tôi nhiều như thế, và chống lệnh gia đình mình mà làm theo những gì con tim anh ta mách bảo. Nhưng anh ta đã phạm sai lầm khi để tôi ra đi, và bây giờ anh ta nhìn thấy tôi là trung tâm của sự chú ý trong triều, tôi vui khi nghĩ rằng anh ta hối tiếc.

Nhưng có một quý ông khác – thực sự quý tộc – người đang quan tâm đến tôi và thậm chí còn đáng ngạc nhiên hơn nữa: Ngài Đại sứ Tây Ban Nha, Bá tước xứ Feria.

Tôi không phải kẻ ngốc. Tôi không nghĩ ông ấy yêu vẻ đẹp kiêu sa lộng lẫy của tôi, mặc dù ông ấy thật tử tế khi nói với tôi rằng tôi giống như một bức tượng thạch cao nhỏ có làn da sáng và mái tóc đẹp tựa thiên thần. Ông ấy nói với tôi rằng ở Tây Ban Nha họ phải quỳ gối trước sắc đẹp của tôi, rằng tôi trông như một thiên thần trong những tranh kính màu, đẹp rạng ngời. Tất nhiên, tôi thích tất cả những lời khen tặng này, nhưng tôi biết rất rõ rằng không phải vẻ bề ngoài của tôi – ngay cả khi chúng được chăm chút kỹ lưỡng nhất mỗi khi tôi vào triều – là tất cả những gì khiến ông ấy quan tâm, mà đó là vì dòng máu hoàng gia của tôi và vì sự tiệm cận của tôi với ngai vàng nước Anh. Và nếu Đại sứ Tây Ban Nha quan tâm đến tôi, liệu điều đó có nghĩa là người thừa kế ngai vàng Tây Ban Nha – Phu quân của Nữ hoàng Anh quốc – cũng đang quan tâm đến tôi? Có phải ông ấy đang cố kìm nén để không bị hút vào tôi bằng một cuộc tán tỉnh rỗng tuếch với Elizabeth? Liệu tôi có đang được chuẩn bị để đưa lên ngôi bởi những kẻ theo Công giáo La Mã, giống như Jane từng được các nhà cải cách đưa lên? Liệu người Tây Ban Nha có hy vọng rằng khi Nữ hoàng qua đời, họ sẽ đưa tôi lên ngai vàng, sau đó Philip sẽ cưới tôi và trị vì cả Vương quốc Anh qua tôi?

Tôi không hỏi Đại sứ Tây Ban Nha điều này một cách trực tiếp. Tôi đủ thông minh để không làm điều đó. Tất nhiên tôi hiểu trò chơi vương quyền này cần phải được chơi như thế nào. Và ông ấy cũng không nói gì một cách trực tiếp, ngoại trừ việc tôi được Hoàng thân Philip ngưỡng mộ, và hỏi tôi có thích Tây Ban Nha không. Tôi có phải là người theo tôn giáo Cải cách một cách kiên định như người chị gái tội nghiệp của tôi hay tôi nghiêng về Giáo hội La Mã?

Tôi cúi đầu nhìn xuống một cách khiêm tốn và mỉm cười e lệ nói rằng không ai không ngưỡng mộ Vua Philip. Tôi cố không nói gì có dính dáng đến dị giáo hay có thể dẫn tới tranh luận, nhưng tôi thề với lòng mình rằng tôi sẽ không để mình thành một con rối trong tay ai. Không ai có quyền ra lệnh cho tôi một lần nào nữa. Nếu ai đó đang nghĩ đến việc đưa tôi lên ngôi, như họ từng làm đối với chị Jane của tôi, họ sẽ thấy rằng tôi đã là một bà hoàng theo quyền riêng của tôi, họ sẽ thấy rằng nếu họ đặt vương miện lên đầu tôi, tôi sẽ giữ nó như giữ cái đầu của mình. Không ai có thể dụ dỗ tôi âm mưu tiếm quyền mà không thể giữ được nó. Không ai có thể dụ dỗ tôi phải khăng khăng bám chặt quyền kế thừa của mình. Tôi là một đầy tớ cẩn trọng khôn ngoan vì lợi ích của chính mình. Tôi không muốn mạo hiểm bất cứ gì vì đức tin của tôi. Nếu Chúa muốn tôi lên ngai vàng nước Anh, thì Ngài sẽ phải tự nỗ lực lấy.

Nhưng tôi vẫn thận trọng lắng nghe khi ngài Đại sứ Tây Ban Nha vượt khỏi màn tán tỉnh và đi đến mưu toan. Nếu người Tây Ban Nha thuyết phục được Nữ hoàng Mary chọn tôi làm người kế vị, và sau đó ủng hộ tôi, tôi chắc chắn sẽ thành công.

“Và, nếu đặt đức tin của chị gái cô sang bên, cô có chọn theo tôn giáo cũ không?”. Bá tước xứ Feria hỏi tôi, ngọt ngào như món mứt cam mà ông ta tự tay lấy và đặt vào đĩa của tôi.

Tôi đưa mắt nhìn lên khi ông ta mời gọi tôi chối bỏ người chị gái đã khuất của tôi và tất cả những gì chị ấy tin cậy. “Tất nhiên tôi theo tôn giáo của Nữ hoàng”, tôi nói nhẹ nhàng. “Ngay từ đầu, tôi đã phải học tất cả những điều đó, và học cả Thánh lễ Latin nữa, vì tôi được nuôi dưỡng trong một gia đình đầy những người theo tôn giáo Cải cách cầu nguyện bằng tiếng Anh. Nhưng tôi rất vui khi học và biết được chân lý”. Tôi ngập ngừng. “Tôi không phải kẻ dị giáo”.

Tất nhiên tôi không thế. Nữ hoàng, người dì họ của tôi đã lên ngôi một cách rất đường hoàng, đảm bảo với chúng tôi rằng tất cả mọi người có quyền tự tìm đến với Chúa theo cách riêng của họ, nhưng đã hành quyết chị tôi vì đức tin của chị ấy, và giờ đây dùng Tòa án Dị giáo tra tấn mọi người và hỏa thiêu những tín hữu anh em của Jane. Không phải tôi! Tôi không muốn bị tống ngục vì một lời nói hớ hênh. Tôi không muốn bị chặt đầu vì không tôn kính bề trên, hoặc vì quên nhúng tay vào chậu nước thánh trước khi làm dấu thánh, hoặc bất cứ điều gì liên quan đến chuyện sống chết hôm nay, thậm chí những điều chưa từng tồn tại hôm qua. Giờ đây ngôi thánh được giấu phía sau tấm màn che thánh giá để việc hành lễ của linh mục là điều huyền bí. Giờ đây mỗi ngách tường đều có những bức tượng và trước mỗi bức là một ngọn nến. Giờ đây có những ngày ăn chay và chúng tôi không được ăn thịt gì ngoài cá. Có vô số phép thực hành tôi phải học để không giống như một người theo tôn giáo Cải cách và là em gái của một kẻ cải cách nguy hiểm tử vì đạo. Tôi thường nhún mình cúi chào, quỳ gối và ngửi hương trầm với sự sùng kính nhất. Không ai có thể xem tôi là một kẻ dị giáo vì tôi quay lưng lại với ngôi thánh bị che giấu và thường chọn đúng thời điểm để không phải lên hay xuống giọng xướng đáp với họ.

Tôi rất quyết tâm trong việc này. Tôi sẽ làm bất cứ điều gì do bất cứ ai yêu cầu. Tôi sẽ giành được của cải từ vị Nữ hoàng thánh thiện nhất này. Rồi bà ấy sẽ chọn một người đàn ông đẹp trai để tôi kết hôn và có những đứa con trai khôi ngô. Sau đó, tôi sẽ là người thừa kế ngai vàng nhờ đứa bé trai trong nôi. Tôi không nghi ngờ gì về việc bà sẽ chọn tôi làm nữ hoàng tiếp theo. Đây là số mệnh của tôi.

Tôi sẽ đi trên con đường này nhưng tôi không chấp nhận bất kỳ rủi ro nào. Vì vậy, tôi mỉm cười với vị đại sứ của chồng bà, người không chú tâm đến chuyện gì khác ngoài việc hỏi rằng liệu tôi có muốn trở thành nữ hoàng hay không, và tôi phải bảo đảm ông ta biết rằng không có người nào thích hợp hơn ở nước Anh này.

Tất nhiên, ngoại trừ Margaret Douglas, người nghĩ vương miện nên là của mình; trừ Công nương xứ Scots nhỏ bé trong cung điện của cô ấy ở Pháp, người nghĩ rằng chính mình cùng với một đạo quân của Pháp phải làm áp lực để đòi quyền thừa kế ngai vàng nước Anh; ngoại trừ Elizabeth, người ít có cơ hội thừa kế nhất đối với người chị gái có lẽ cùng cha khác mẹ của mình, đã bị truất quyền bởi luật pháp, bởi Hội Thánh, bởi khí chất, và bởi xuất thân của chính mình.

Elizabeth Bất hạnh vào triều và đứng thở dài trong góc sảnh như thể trái tim của cô đang tan vỡ vì giới tăng lữ bị tống ngục và những người tử vì đạo bị hỏa thiêu tại Smithfield. Elizabeth ăn mặc rất giản dị, đúng là dối trá, như thể cô ấy không hề thích những bộ trang phục đẹp đính đầy trang sức. Cô ấy là một con công ẩn mình trong bộ cánh màu đen. Cô ấy bước vào nhà thờ với hai tay ép sát hai bên hông như thể cô quá đau khổ để cúi chào Thánh thể. Thỉnh thoảng cô ấy lả người đi và được khiêng ra để đám đông đang chờ đợi bên ngoài có thể nhìn thấy cô ấy đang chết đi vì đức tin Cải cách, và nghĩ rằng Nữ hoàng thật độc ác với đứa em gái cùng cha khác mẹ của mình. Nhưng Elizabeth tinh ranh56* hồi phục với tốc độ đáng kinh ngạc vì ngay sau đó người ta nhìn thấy cô ấy đi bách bộ trong vườn với Hoàng thân Philip, người đang đắm đuối ngắm nhìn gương mặt xuống sắc của cô ấy khi ông nghiêng người để nghe cho rõ những lời thì thầm.

56* . Elizabeth the minz.

Tôi nghĩ Elizabeth đang chơi một ván bài dài hơi và lên kế hoạch rằng Nữ hoàng Mary, người ngày càng đau ốm và lặng lẽ hơn, sẽ chết, và thế là Hoàng thân Philip sẽ lấy cô ấy làm vợ và cô ấy trở thành Nữ hoàng Anh, thế chỗ Mary. Trong khi Đại sứ Tây Ban Nha đang tán tỉnh tôi thì ông vua chủ nhân của ông ta đang tán tỉnh Elizabeth. Tôi thấy sự giả vờ ngây thơ trong trắng của cô ấy giống hệt như tôi. Cả hai chúng tôi đều để mắt tới ngai vàng.

Cô ấy và tôi chạm mặt nhau hằng ngày trong buổi thiết triều của Nữ hoàng. Chúng tôi cúi chào nhau bằng sự lịch thiệp kín kẽ và hôn nhau như những người họ hàng. Tôi thề là cả hai chúng tôi đều đang nghĩ trong đầu: Sao phải thế? Ngươi cách ngai vàng xa hơn ta nhiều! Họ hứa hẹn gì với ngươi? Và, ta mà làm nữ hoàng, ngươi sẽ biết tay ta!

CUNG ĐIỆN WHITE HALL, LONDON MÙA ĐÔNG NĂM 1558

Và đó là lý do tại sao cú sốc đối với tôi khủng khiếp đến thế, khi mà trong mọi lý do để chọn tôi kế vị, với sự hỗ trợ ngấm ngầm của người Tây Ban Nha, với mọi biểu thị trước Nữ hoàng rằng tôi là một con chiên La Mã ngoan đạo, và ngay khi cơn bệnh và nỗi đau buồn của bà trở nên nguy ngập, bà đã quyết định truyền ngôi cho Elizabeth – vâng, chính là Elizabeth – vào phút cuối cùng trên chiếc giường tử biệt của bà, và một nửa đất nước này phát điên vì nàng công chúa theo Tin lành Kháng cách, giờ đây đang đi ngựa tiến vào London tiếp nhận ngôi báu như thể cô ấy là người thừa kế hợp pháp mang dòng máu hoàng gia chứ không phải một ả con hoang may mắn.

Sau tất cả những gì tôi đã làm để chứng tỏ mình là một tín đồ Công giáo La Mã ngoan đạo, Nữ hoàng Mary đã bỏ rơi tôi, bỏ rơi cái đức tin mà bà từng lớn tiếng tuyên thệ và rất nhiều người đã chết vì nó. Thậm chí bà còn không đề cập đến người chị em họ khác là Mary Nữ hoàng xứ Scotland, người kết hôn với Francis nước Pháp để hùng hồn tự xưng là Nữ hoàng Anh quốc, như thể dòng họ tôi không được đứng hàng thừa kế trước dòng họ của cô ấy. Nữ hoàng Mary thậm chí không đề cập đến Margaret Douglas mặc dù bà từng hứa sẽ chọn bà ấy làm người kế vị. Bà đã chơi trò đểu giả với chúng tôi và chọn Elizabeth. Elizabeth, kẻ thù của bà!

“Tại sao Nữ hoàng Mary lại không chọn mẹ làm người kế vị?”. Tôi hỏi mẹ tôi, cố gắng thành thật với bà một lần, cố biến cơn thịnh nộ thành sự chân thành. “Tại sao bà ấy không chọn con?”.

Khuôn mặt mẹ tôi bỗng tối sầm giận dữ. Giờ đây, bà sẽ phải phục vụ như một người hầu và là người em họ được sủng ái trong cung của Elizabeth, và bà không mong đợi một cô gái chỉ hơn con gái mình ít tuổi lại làm chủ nhân của bà, và với mọi lý do để không thích cô ấy, như một gia sư đặc biệt độ lượng. Mẹ tôi, người đã kết hôn với viên quan coi ngựa để trấn an Nữ hoàng Mary rằng bà không có ý định kết hôn với một người nào đó để đòi quyền kế vị, và cũng không có đứa con trai mang dòng máu hoàng tộc nào, giờ đây thấy rằng mình chẳng hề có tên tuổi gì và cũng không nằm trong hàng thừa kế, vì Adrian Stokes không là gì cả và tất cả những đứa con bà sinh ra với ông ấy đều đã chết. Bà đã tự làm cho mình thành người không quan trọng để làm vui lòng Nữ hoàng Mary, nhưng rồi bà nhận ra rằng tất cả những gì bà đã làm cuối cùng đã dọn đườn