← Quay lại trang sách

MỞ ĐẦU

Chuyện Antoine Sorel tự tử đã không làm xôn xao dư luận. Lễ tưởng niệm dành cho nhà văn ít được biết đến, người đã nhảy lầu từ tầng sáu chung cư, diễn ra một cách tẻ nhạt, trước sự thờ ơ của mọi người. Đa số các báo chỉ dẫn lại câu viết huyền bí được ghi trên tin cáo phó của một tờ nhật báo lớn. Câu viết đó được trích trong một tuyển tập châm ngôn nổi tiếng hẳn lúc nào cũng bên người nhà văn quá cố: “Đừng tự ép mình viết một tác phẩm. Chỉ cần nói điều gì có thể thì thầm vào tai một người say rượu hoặc một người đang hấp hối.”. Lẽ ra chính tôi cũng không để ý đến chuyện gần như không được xem là một sự kiện của văn giới, nếu như trong một chuyến chu du tới thành phố Le Havre, vào một ngày thứ Sáu của tháng Tư, cái ngày tôi phải đi xem vở kịch Cuối cuộc chơi[1] phóng tác từ một vở của nhà văn Beckett[2] tại nhà văn hóa của thành phố, Le Volcan (dàn dựng theo chủ nghĩa hiện thực quá khích, các diễn viên la hét và cảnh bài trí xấu xí), tôi đã không tình cờ nhìn thấy một cuốn truyện của Antoine Sorel, Đắm chìm[3]. Tưởng chừng đây là một cuốn tiểu thuyết về chủ đề biển cả, nhưng không phải thế, tác giả kể về một người đàn ông đang đắm chìm vô vọng. Và kì lạ thay, vào ngay sau ngày có cái khám phá quan trọng ấy, tôi được tin nhà văn ấy qua đời ở tuổi bốn mươi lăm, một nhà văn mà đối với tôi đã gần như không thể thiếu. Tôi đã bắt đầu đọc cuốn Đắm chìm tại công viên nhỏ Saint-Roch, nằm trên đại lộ Foch dẫn ra biển, tôi tiếp tục đọc trong một quán rượu, quán McDaid’s, ngay vào tối hôm đó có trình diễn heavy metal, và sau khi ở buổi diễn về, tôi đã không ngủ trước khi đọc xong cuốn tiểu thuyết.

Trong truyện này, tác giả nói về một thành phố cảng ít nhiều giống thành phố Le Havre, một thành phố nhỏ mà tôi chỉ biết nó được xây dựng lại hoàn toàn sau Thế chiến thứ hai. Thoạt đầu, tôi cảm thấy kiến trúc của thành phố không mang tính thẩm mĩ đô thị cao, dù rằng tổ chức UNESCO khi công nhận thành phố là di sản nhân loại đã nhấn mạnh sự sáng tạo đổi mới trong việc sử dụng bê tông của kiến trúc sư Auguste Perret, tổng công trình sư của công cuộc tái kiến thiết được khởi công ngay từ năm 1945. Dù đầu tháng Tư trời đẹp, tôi vẫn có cảm tưởng đang đi qua một khung cảnh lạnh lẽo chết người trong lúc bước đi chầm chậm dọc theo những con đường. Các mặt tiền xấu xí, các công viên không hề hiếu khách, mặc cho những bông hoa rực rỡ sắc màu. Các đại lộ lớn bị phá nát bởi công trình xây dựng đường tàu điện. Mặt tiền các cửa hiệu trưng bày những món đồ như bao nơi khác, tôi không thể tìm thấy những thứ gì lạ mắt ngoài những hình tượng sao chép gà gô và gấu bắc cực nhái từ tác phẩm của Franqois Pompon đang được triển lãm tại bảo tàng Malraux. Cũng có thể ngày đó không phải là ngày may mắn của tôi, cũng có thể tôi là một du khách luôn nghĩ rằng bến cảng vùng Normandie này mang đủ những định kiến về nó: Le Havre trong tâm trí tôi là một thành phố buồn, buổi tối được thắp sáng bằng những ánh đèn buồn, và người dân buồn không có nhiều thứ hấp dẫn để làm.

Tôi xuống tàu, chuẩn bị trải qua ba ngày trong những quán ăn buồn tẻ, theo bước dân địa phương kéo nhau từng nhóm ra biển và tìm kiếm một rạp chiếu bóng không chỉ có những bộ phim tầm thường. Một bộ phim của Alenxander Mackendrick, Sweet Smell of Success[4], được chiếu suất đặc biệt tại rạp Sirius, một rạp chiếu phim nghệ thuật. Thế là ngày Chủ nhật của tôi được cứu vãn, vì tôi tự nhủ sẽ không vì bất cứ lí do gì tôi lại bỏ qua bộ phim để xem lại Tony Curtis trong vai diễn một phóng viên báo chí không mấy liêm sỉ. Nhưng phải kiếm chuyện làm cho kín những giờ trống của tôi vào ngày thứ Bảy sau vở kịch Cuối cuộc chơi (tôi cố nán lại thêm một thời gian trước khi quay về Paris). Tôi vào hết quán cà phê này đến quán cà phê kia, trong tay cuốn truyện của Sorel và vài tờ báo, trò chuyện với những cô phục vụ, họ gọi nhà văn hóa Le Volcan là “hũ yaourt”, yêu thích cuộc sống tỉnh lẻ và không ganh tị với những người Paris đáng thương, lúc nào cũng chộn rộn, lúc nào cũng tất bận, vội vã rời căn hộ nho nhỏ của mình đi đến nơi làm việc cũng chật chội không kém. Những cô gái phục vụ đó có những thú vui, tận hưởng thời gian rảnh hữu ích nhất. Họ được hít thở không khí trong lành từ biển, khi đi nhà hàng, họ không phải tán gia bại sản, khi đi chợ, họ luôn mua được cá tươi, vào mùa hè, họ tắm nắng ngoài ban công. Không, không, ở Normandie, không phải lúc nào cũng mưa. Và không, không, Le Havre không phải là một thành phố chết, kể cả trước khi các tàu đổ từng đoàn khách du lịch tới chiêm ngưỡng bến cảng được UNESCO xếp hạng kì quan trong những kì quan: một vài cô phục vụ nhớ những buổi tối điên cuồng tại King’s, vũ trường trên phố Paris, hoặc ở nhà hàng l’Etable nơi khách thưởng thức các món nướng trước khi khiêu vũ.

Những cô phục vụ ấy không sống trong trung tâm thành phố Le Havre, nhưng chặng đường từ nhà vào trung tâm cũng không dài đằng đẵng. Từ nơi làm việc về nhà họ không kiệt sức, đôi mắt nặng trĩu vì buồn ngủ, bàn tay ướt sũng, gương mặt đầm đìa mồ hôi, sau khi chen lấn trong tàu điện ngầm. Không, các xe buýt ở đây không đông người và khoảng cách di chuyển cũng ngắn. Con cái của họ không giống những đứa trẻ sống ở khu vành đai ngoại ô Paris, phải ngủ đứng trên các phương tiện giao thông công cộng, không có những khoảng xanh gần nhà, và bị tụi côn đồ trấn lột trước cửa trường học. Đối với hàng xóm láng giềng, không chỉ chào hỏi xã giao đơn thuần. Họ mời nhau tới những bữa tiệc nướng ngoài trời. Mọi thứ đều trở nên bớt lạnh lẽo, bớt vô danh ngay khi rời khỏi Paris…

Khi họ muốn thay đổi không khí trong kì nghỉ hè, họ có thể đi Honfleur không xa lắm. Ở đó họ được ăn ngon, ngay trong những quán bình dân, và nếu họ có tiền, họ sẽ thuê một chiếc thuyền buồm và ngủ đêm trên đó. Honfleur đã được nhận giải thưởng trong cuộc thi các thành phố hoa và mọi thứ tại thành phố cảng này đều quyến rũ. Họ chuộng Houlgates hơn với những vách đá cao bên bờ biển và hồ câu cá nước ngọt, họ không thích Trouvilles vì có quá đông dân Paris và không thích con đường lát ván ở Deauville, ncd tụ tập của giới trẻ thích khoe mẽ. Khi nghe họ tâm sự những điều như vậy, tôi như đã đến một nơi tuyệt vời của nước Pháp. Nếu tôi đã không có quá nhiều những định kiến về thành phố, hẳn tôi sẽ cảm thấy hân hoan về chuyến đi: thời tiết nóng, bầu trời trong xanh, tôi có thể ăn trưa tại sảnh trước nhà hàng trong khu phố Saint-Franqois, đi dạo quanh khu đa năng Docks Océane nơi các ca sĩ bình dân nổi tiếng biểu diễn, trong khu phố Eure, khu phố của những xưởng tinh chế, như ở Lourdes, tôi sẽ tìm thấy một hang động có tượng Đức Mẹ đồng trinh. Tôi cũng có thể đi thăm bảo tàng thành phố cổ Le Havre, nhà thờ Saint-Nicolas ở Cauville-sur-Mer với bức tranh kính Lễ truyền tin, chèo thuyền kayak, ra biển trên chiếc thuyền buồm Fillao, hoặc chỉ đơn giản đi tới mũi Heve ngắm nhìn những người chơi thuyền buồm ván… Trong vòng ba ngày, tôi sẽ biết như thế nào là cuộc sống êm đềm, tránh xa sự náo nhiệt của thủ đô, những người dân ngoại ô ồn ào, những vụ kẹt xe ở ven đô và những tên gây ô nhiễm trên những chiếc xe hơi 4x4. Tóm lại, Le Havre là một xứ sở thơ mộng…

Cho tới thời điểm này, tên thành phố làm tôi liên tưởng tới vài trang sách của Michel Leiris[5], trong tác phẩm tự truyện Đời người[6], về những nhà thổ trên con đường Galions, về một trong những quán rượu, Silver Dollar, nơi các thủy thủ Mỹ say mèm thường xuyên lui tới, nơi có một ông lão chơi đàn piano biểu diễn những bản nhạc dân gian polka-mazurka. Tên thành phố này cũng làm tôi nghĩ về ngày Marina Tsvetaeva[7] trở lại nước Nga Xô viết vào năm 1939, và bà đã quay về sau mười bốn năm lưu vong tại Pháp. Bà nói: “Khi tôi viết, tôi có thể dành cả cuộc đời mình.” Một câu nói như vậy cũng không có gì là đại ngôn nếu được nói ra từ miệng của Sorel. Sergueï Efron, chồng của bà Marina, một cựu quân Bạch vệ từng đối đầu với những người tham gia Cách mạng tháng Mười, trong những năm tháng sống ở ngoại ô Paris ông đã rời bỏ quan điểm chống đối Bolshevik và tiếp cận chính quyền Xô viết để sau đó trở thành nhân viên tình báo NKVD[8]. Ông ấy có liên quan đến vụ mưu sát chính trị và bị cảnh sát Pháp truy bắt, nên đã được đưa về nước. Con gái lớn của họ, Adriadna, sinh ở Moscow trước cách mạng, đã quay về Nga. Do chỉ còn một mình trong vùng ngoại ô Paris cùng với đứa con trai Mour, sinh ra tại nước Tiệp Khắc cũ, bà Marina đã rời Vanves[9] và sống qua ngày trong một khách sạn trên đại lộ Pasteur. Trong những tuần chờ đợi và lo lắng, bà sống nhờ vào trợ cấp của Đại sứ quán Nga. Khi bà nhận được lệnh lên tàu tại ga Saint-Lazare đi Le Havre để quay về Leningrad bằng đường thủy, bà đã viết cho Anna Teskova, một cô bạn người Tiệp Khắc: “Giờ đây giai đoạn khó khăn nhất đã qua, giờ đây chỉ biết theo số phận.” Bà không ngờ rằng số phận dành cho bà một cái kết thảm khốc. Khi trở về Moscow, bà mới biết tin chồng và con gái của bà đã bị bắt. Bà tuyệt vọng và quyết định bào chữa cho họ trong một bức thư dài gửi Beria, người chỉ huy NKVD, trong thư bà nhấn mạnh rằng họ là những người đấu tranh quyết liệt vì chính phủ Xô viết. Không có một câu trả lời nào cho thư của bà cũng như cho bức điện tín được gửi tới Stalin sau đó, trong lúc hoàn toàn tuyên vọng. Trước sự tiến công của quân đội Hitler, bà đã đi sơ tán cùng với người dân Moscow và lưu lạc tới Elabouga, một xã nhỏ của nước Cộng hòa Tatarstan. Sau một thời gian cố gắng sống một cách vô vọng, thậm chí chấp nhận làm công việc phụ bếp, bà đã thắt cổ tự vẫn vào tháng Tám năm 1941 trong một căn nhà tranh lụp xụp nơi bà và con trai cùng sống với những người nông dân. Người con trai đã thổ lộ với một người bạn khi báo tin mẹ anh tự tử rằng đó là giải pháp tốt nhất và theo anh, bà hoàn toàn có lí khi chọn giải pháp đó. Anh ấy thậm chí không có mặt trong ngày an táng người phụ nữ đã trả lời những câu hỏi do Pasternak[10] gửi vào năm 1926 như sau: “Cuộc đời như một nhà ga, tôi sẽ sớm ra đi, tôi sẽ không nói đi đâu về đâu.” Mour nhập ngũ và tử trận vào năm 1944, ở tuổi mười chín. Hẳn anh ấy cũng đã kịp nhận được tin bố anh bị hành hình và chị anh bị đi đày ở Siberie.

Tôi qua đêm tại khách sạn Les gens de mer[11] gần khu trung tâm thương mại Les Halles, tôi tưởng đây là nơi dành cho thủy thủ dừng chân thuê phòng. Tôi chỉ gặp những du khách người Anh, khoác những chiếc áo gió giống hệt nhau, quàng qua vai chiếc máy ảnh hiệu Kodak. Chắc chắn họ sẽ đến bảo tàng Malraux để chiêm ngưỡng những bức tranh của Boudin[12], Bầu trời bão trên của biển Le Havre[13] hay Cảng Le Havre trong cơn giông[14]. Tôi lại gặp vài du khách này tại Bảo tàng lịch sử tự nhiên, quảng trường Vieux-Marché, nơi họ mua những tấm bưu thiếp in hình những con sứa thường xuất hiện dọc theo bờ biển Le Havre. Tôi cũng gặp một số khác tại Espace Coty, trung tâm thương mại không xa thư viện thành phố, và tôi cũng hình dung được rằng sau đó họ sẽ đi uống rượu Calvados tại một quán nằm trong khu đi bộ, thơ thẩn dọc theo bờ biển đá cuội tới tận Sainte-Adresse, một cảng cá xưa, để đến thăm tòa biệt thự nơi họa sĩ Claude Monet vẽ bức tranh Terrasse à Sainte-Adresse hoặc đi tới một nơi được vài thanh niên Le Havre gọi là “nơi tận cùng thế giới”, người ta nói với tôi rằng đó là cái bờ đê bị bao cơn sóng lừng tàn phá vào những ngày giông bão, và mảnh đất vùng Normadie này thì thường xuyên có bão đổ bộ.

Đêm thứ Sáu, trong vòng hai tiếng đồng hồ, tôi đã gửi đi một bài viết về buổi diễn thảm họa vở kịch của Beckett. Tôi cộng tác cho chuyên mục văn hóa của một tuần báo có khuynh hướng chính trị không rõ ràng, và khác với một số bạn bè, tôi không có ý định viết sách. Lúc mới mười hai, mười ba tuổi tôi hay mượn các tiểu thuyết của bố, tôi tự hỏi làm sao viết được một cuốn tiểu thuyết. Chất vấn độc giả như các tác giả ma mãnh thường làm? Hay đưa chút ít bản thân cùng vài mẩu tri thức vào đấy? Vào thời đó, tôi sáng tác ra những câu thơ kinh khủng, chỉ để nói rằng cuộc sống thực không ở đây. Tôi cũng viết nhật kí, chỉ để nói rằng tôi không tìm thấy chỗ của mình trong thế giới này. Trong lúc còn là sinh viên, tôi trở thành cộng tác viên sau khi đưa một bài viết sâu sắc về một họa sĩ vô danh cho một người bạn của gia đình, phụ trách chuyên mục cho một tờ nhật báo ít nhiều có danh tiếng. Bài báo của tôi được khen, họ đặt tôi viết thêm: thế là tôi được giao việc viết về những người nghệ sĩ bị lãng quên. Vậy đấy, tôi đã trở thành cộng tác viên thời vụ ở tuổi hai mươi cho đến khi giám đốc của một tờ tuần báo nhận tôi làm chính thức. Trong nhiều năm, tôi viết về những buổi biểu diễn không thu hút đám đông, những tác phẩm đi ngược với chuẩn mực hàn lâm, những triển lãm nghệ thuật “bên lề” (À, những vỏ bào của Philippe Dereux, những mẩu ghép cánh bướm và vỏ khoai tây hay cà tím sơn màu, tạo thành những đồ vật mĩ thuật không xác định chứ không phải những tác phẩm bài trí, làm cho những ai dị ứng với những đổi mới tiên phong đều phải khó chịu).

Tôi phấn khích như một người mới bắt đầu tự tin về gu thẩm mĩ của mình, tự tin rằng mình phục vụ cho mục đích cao cả của các nghệ sĩ hành nghề tự do. Tôi tự nhủ họ là những David tôi cần bảo vệ chống lại Goliath giỏi việc thương mại hóa. Trong một thế giới suy đồi vì tiền, họ là những người lính canh gác cái mà tôi gọi là “thành trì cuối cùng của cuộc kháng chiến”. Tôi dành cho họ hơn cả sự quý trọng và tôi buộc mình phải kết cho họ những vòng nguyệt quế, mặc dầu không phải lúc nào tôi cũng được chấp nhận và tôi phải thường xuyên tranh đấu để họ có được nửa trang trên báo. Tôi nhiệt tình lậm đến mức công việc ngập đầu, tôi không còn thời gian dành cho việc khác, lại càng không rảnh cho những cuộc phiêu lưu tình ái. Và như thế tôi bước vào tuổi hai mươi bảy mà chưa thực sự trải qua một cuộc tình nào. Nếu có thì mối quan hệ lần cuối cũng kết thúc bằng sự thất bại: Lupine, cô người yêu của tôi, đã có chồng. Cô ấy cố giữ chân tôi trong vài tháng khi hứa sẽ li dị. Có điều cô ấy đã có một đứa con gái ba tuổi, đứa bé sẽ chịu bất hạnh nếu cô ấy bỏ chồng. Cô ấy nói rõ với tôi rằng tinh thần trách nhiệm không cho phép cô nghe theo lời con tim mình: tình yêu nồng cháy cô dành cho tôi đã làm cô thăng hoa, cô nói thế (với kiểu nói hơi cường điệu), tuy nhiên cô không can tâm “đâm một nhát” vào tim người cha của con gái Aurore yêu quý bằng việc tiết lộ mình đang lừa dối chồng và sẵn sàng chia tay. Cô ấy đóng tuồng “Yêu nhưng không thể sống chung”[15] và quyết định chấm dứt mối quan hệ này dù thề rằng tôi sẽ mãi là người đã làm cô ấy đạt được “thăng hoa tình ái”, cô ấy nói với những ngôn từ đã lỗi thời. Tôi đã đau khổ khi chia tay. Tôi trách Lupine đã phản bội tôi và tôi không biết làm gì hơn ngoài việc lao vào đọc những cuốn sách khinh miệt phụ nữ. Tôi đồng ý với những tác giả cho rằng phụ nữ trả thù sự yếu kém của họ bằng cách chế ngự cánh đàn ông chúng ta, tôi càng đồng tình hơn với những tác giả cho rằng đàn ông chúng ta tự làm bản thân sụp đổ vì quên rằng những phụ nữ nghiêm túc nhất là những người hay thay đổi và thường xung đột trong quan hệ với đàn ông.

Những cuốn sách đó không làm thay đổi tâm trạng của tôi, tôi luôn thù Lupine vì đã ru ngủ tôi bằng những hy vọng hão huyền, để rồi sau đó chia tay với lí do cô ấy không phải là một người mẹ vô tâm. Do không thể thoát khỏi suy nghĩ về sự thất bại đang ngặm nhấm thân xác nên tôi thường xuyên bỏ nhà ở Paris mà đi ngao du khắp nước Pháp. Lúc thì tôi đến Nhà hát quốc gia La Criée ở Marseille, lúc thì tôi ở Thư viện điện ảnh Toulouse, tuần sau đó là Nhà hát Opéra của thành phố Montpellier, ba ngày sau đó, tôi đi tới Bảo tàng bể bơi ở Roubaix, hoặc Tổ chức Maeght[16] ở Saint-Paul-de-Vence. Với đồng lương của tôi, hẳn tôi không thể chi trả những chuyến đi liên tục không phải vì công việc này, chính bố tôi là người đã cho tôi tiền trang trải. Chưa bao giờ bố ngăn cản tôi đi chu du khắp mọi miền đất nước và luôn nhắc tôi rằng tôi sẽ học được nhiều qua việc tìm hiểu những thứ mới lạ chỉ có khi đi khỏi Paris. Lúc biết tôi sẽ đi Le Havre, bố đã khuyên tôi thám thính các khu phố nằm ở vành đai thành phố thay vì chỉ quanh quẩn trong khu trung tâm, và đừng quên vườn thực vật Nhật Bản nơi có những công trình bằng đá mang từ thành phố Osaka sang, bố nghe nói thế. Bố cũng muốn đi cùng tôi nếu như ông không bị đau thần kinh tọa buộc ông phải nghỉ ngơi ở nhà. Lúc còn trẻ, bố đã từng đến tỉnh Seine-Maritime, nhưng chỉ ngủ một đêm tại Sainte-Adresse, gần Notre-Dame-des-Flots. Bố tôi không nhớ nhiều tên các con đường ở Le Havre nhưng thuộc làu một tiểu thuyết của Raymond Queneau kể về cuộc đời của một người sống ở Le Havre tên Bernard Lehameau trong Thế chiến thứ nhất. Lehameau, một công chức nhà nước, đã mất mẹ và vợ trong một trận hỏa hoạn tại rạp chiếu bóng ở trung tâm mua sắm Grandes Galeries Normandes. Anh ta ghét những phần tử cực đoan, những người thuộc phe xã hội, những thành viên của hội Tam Điểm, và dân Do Thái. Anh ấy cho rằng nên có chế độ bảo hộ của Đức đối với nước Pháp. Vào một mùa đông khắc nghiệt, anh bị thương ở chân, nên phải giải ngũ, về với cuộc sống đơn điệu vô tổ chức, mỗi ngày ăn trưa với anh trai mình và đi gặp cô bán sách cũ. Anh phải lòng một cô gái Anh, cùng nhau đi dạo hàng giờ dọc bờ biển và gặp hai đứa trẻ trên tàu điện rồi mời chúng cùng đi xem phim vào Chủ nhật, anh ta không thích gì hơn việc đi xem phim.

Tôi đã gọi điện cho bố ngay sau khi tôi đọc xong ba chương đầu cuốn tiểu thuyết của Sorel để chia sẻ với bố niềm vui khi phát hiện ra một nhà văn thuộc loại hiếm đang tuyệt chủng, một nhà văn kế thừa tư tưởng của những nhà luân lí học thế kỉ 17, một nhà văn không hề là kẻ thù của nhân loại, nhưng biết cách đặt người đọc vào một tình thế không dễ chịu của một kẻ mộng mơ tỉnh táo không có khả năng chấp nhận cuộc chơi. Ngày hôm sau tôi lại gọi cho bố khi báo chí đưa tin về cái kết đau thương của một con người đã được tôi xem như là một sáng tạo gia khác thường. Bố con tôi thân nhau. Chẳng có việc gì tôi làm mà không hỏi ý kiến của bố. Tôi chọn bố làm hình mẫu, cố gắng giữ mình không bị ảnh hưởng bởi tư tưởng ái quốc cực đoan, luôn biết mở rộng tri thức, phấn khích cùng những ý tưởng đi ngược với suy nghĩ của số đông. Bố tôi là thẩm phán. Sau khi góa vợ, bố cưới mẹ tôi ở tuổi năm bảy, ông không có con với người vợ trước. Tôi được sinh ra khi bố đang bước vào tuổi lục tuần, và bố đã nghỉ hưu khi tôi chỉ mới là một cậu bé thiếu niên. Dù công việc bận bịu, bố lúc nào cũng đọc rất nhiều. Cả cuộc đời mình, bố đã tích góp rất nhiều sách quý hiếm trong thư viện riêng, tôi chỉ cần tới đó là đủ để thỏa mãn ham muốn đọc sách. Hai bố con thường xuyên trò chuyện cùng nhau mãi đến tận đêm khuya về những tác phẩm đã gây ấn tượng mạnh cho chúng tôi. Ông phì phà tẩu thuốc, tôi nhả từng vòng khói với những điếu thuốc Nga. Mẹ để mặc hai bố con với nhau, hơi bất bình vì không được tham gia vào những lúc thân mật như thế. Chúng tôi không muốn mẹ bị tách biệt nhưng chính mẹ cũng thú nhận mẹ thuộc loại người có thể sống mà không cần văn chương.

Thứ Bảy, tôi dậy sớm đến Le Caid để ăn sáng, một quán cà phê gần Le Volcan, sau đó tôi đi dọc phố Paris, rồi băng ngang hướng về đại lộ Francois Đệ nhất và nhà thờ Saint-Joseph với tháp chuông sừng sững phía chân trời. Trong suốt khoảng thời gian bách bộ, tôi không thể ngăn mình nghĩ tới Sorel, tôi tự hỏi nhà văn đã sống ở xó nào tại thành phố Le Havre, có được lớn lên dưới bóng của một tủ sách gia đình, có anh chị em hay không, và những con người này có quan tâm đến những gì anh ấy viết không, anh có nhiều bạn bè hay giống một con nhím, đơn độc trong vỏ bọc của mình, như những cuốn tiểu thuyết của anh làm tôi nghĩ thế, tôi cũng tự hỏi anh có qua lại thư từ với những nhà văn khác không hay anh trốn tránh đồng loại, anh có cảm thấy mình là người con của thành phố Le Havre hay là không giữ mối liên hệ nào với nơi anh sinh ra, gia đình anh giàu có hay họ chỉ lắt lay qua ngày nhờ vào những khoản trợ cấp, ba mẹ của anh có ủng hộ anh viết truyện không hay họ đau khổ vì anh đã chọn đi một con đường đầy chông gai, anh có gặp khó khăn trong việc tìm nhà xuất bản hay anh chỉ vừa mới gửi bản thảo qua bưu điện là anh nhận ngay được hồi đáp hào hứng, anh phải viết đi viết lại hay các câu chữ luôn tuôn trào, anh lấy nguồn cảm hứng từ những con người thật hay mỗi nhân vật phản diện đều là sản phẩm của trí tưởng tượng, anh có uống rượu nhiều như người kể trong tác phẩm Đắm chìm, hay anh cũng giống nhân vật đó, anh phải dùng nhiều thuốc an thần và không một xu dính túi, anh cố bước vào giới tinh hoa hay anh không thấy mình có tài, anh đã yêu điên cuồng những phụ nữ dù họ làm anh đau khổ hay anh chỉ có những mối tình chóng vánh, đơn điệu, các tác phẩm khác của anh có cực đoan như Đắm chìm hay không, những cuốn sách đó luôn bày bán sẵn hay chẳng ai mua nên sách ế tồn kho phải đem nghiền tái chế, giới phê bình ca ngợi anh hay tất cả họ đều không quan tâm tới, anh có thường xuyên đi Paris và thường vào nhà sách nào để mua các tác phẩm kinh điển. Tôi cũng tự hỏi anh viết cuốn truyện đầu tiên khi anh mấy tuổi, triết gia nào (Nietzsche? Schopenhauer?) đã có ảnh hưởng đến anh, những phần tử nổi loạn nào đã đóng vai trò quyết định trong phát triển tri thức của anh, anh theo chính đảng nào (thậm chí có thể anh cũng chẳng có tên trong danh sách cử tri), tại sao anh không bao giờ đi khỏi Le Havre (liệu cuộc sống ở nơi khác có khá hơn?), anh viết như thế nào (giam mình trong nhà nhiều tháng hay đi tha thẩn trong phố tìm ý tưởng?), anh nghĩ gì về những người đồng hương (người dân Le Havre có biết anh và họ có hiểu được văn chương của anh?), anh nghĩ gì về những tay nhà báo như tôi, luôn cố gắng đánh thức người đọc trước những tác phẩm khó nuốt. Và cuối cùng tôi tự hỏi anh đã làm thế nào để xuất bản cuốn sách tôi đang đọc.

Vào buổi trưa, trong nhà hàng Saint-Amour, trước đĩa thức ăn khai vị, tôi mở báo ra đọc. Trong mục cáo phó, tôi thấy ảnh của Sorel và bên dưới, vài hàng về cái chết trẻ của anh ấy. Tôi bàng hoàng sửng sốt. Nhà văn đang chi phối tâm trí của tôi từ hôm qua đã nhảy lầu. Tôi đang muốn gặp anh, xin một cái hẹn phỏng vấn để viết về anh cho tuần báo của tôi, tôi đã muốn tạo tiếng vang về anh trên internet. Thậm chí tôi sẽ quay phim rồi đưa lên trên mạng. Tôi chắc chắn rằng anh không sử dụng những thứ công nghệ này, và anh sẽ chẳng màng đến những điều này dù có biết người ta bàn tán xôn xao về tác phẩm của anh trên đó. Tuy nhiên tôi dự tính góp phần làm cho tiếng vang đó vang xa hơn ngay khi tôi đọc xong tất cả truyện của anh ấy. Tin anh tự tử làm tôi bàng hoàng rất lâu. Tôi không thể nói điều gì làm tôi buồn nhất, đọc được tin trên báo biết một người đã kết thúc cuộc đời mình hay biết được rằng văn chương đã không thể ngăn cản Sorel tự hủy hoại cuộc đời mình. Tôi hình dung ra những giây phút cuối cùng trong cuộc đời của anh, ở tầng sáu cũ nát, giữa những cuốn sách dù tuyệt tác nhưng không phải thuốc tiên giúp anh thoát khỏi nỗi chán sống. Chắc hẳn anh ấy đã đến bước đường cùng không lối thoát nào khác ngoài việc nhảy lầu. Anh có tiết lộ cho ai trong số những người bạn ý định tự vẫn này không, có ai đó với tài ăn nói của mình đã có thể kéo anh ra khỏi cái thứ mà các nhà văn lãng mạn thế kỉ 19 gọi là móng vuốt của niềm tuyệt vọng? Còn khả năng nào làm anh từ bỏ giải pháp anh chọn không? Tôi đã đọc Đắm chìm, đúng ra tôi cũng không nên ngạc nhiên rằng tác giả một cuốn sách như thế sẽ không sống lâu trong thế giới này. Tôi vẫn bất ngờ choáng váng đến mức tôi không ăn nữa và tôi đi vào những quán cà phê, bắt chuyện với bất kì ai sẵn sàng giúp tôi khuây khỏa tinh thần.

Dần dần tôi cảm thấy như có một sự trùng hợp thật kì lạ khi anh ấy qua đời vào đúng cái ngày tôi đang ở Le Havre. Thành phố của anh đang mở rộng vòng tay đón tôi, tôi đang còn 48 tiếng đồng hồ để khám phá, cho đến lúc tôi không còn thấy nó như một trung tâm đô thị buồn tẻ, mà là một nơi thử nghiệm viết lách cho một nhà văn đã chìm sâu trong nỗi ám ảnh. Tôi buồn như thể tôi vừa mất một người thân khi tôi tự nhủ họ đã từ giã cuộc sống một cách cực đoan. Tôi tự hỏi điều gì đã làm anh nghĩ rằng anh không còn luyến lưu trần thế. Anh đã đánh mất niềm tin? Anh không còn tin vào khả năng sáng tác của mình? Chuyện gì đã xảy ra khiến anh tan vỡ như thế? Hay anh luôn có suy nghĩ rằng sống bạc đầu là một điều đáng khinh. Giống Pavese, anh ấy đã tự nói: Không nhiều lời. Chỉ hành động[17]? Mong muốn cuối đời của anh là gì? Anh muốn được thiêu hay được chôn cất tại một nghĩa trang của thành phố (cái nghĩa trang nếu nó còn đó, nơi ngài Lehameau của nhà văn Queneau[18] tưởng nhớ vợ ông, hay nghĩa trang Sainte-Marie nơi có những nhà mồ của các triều đại chủ tàu buôn, mà tôi nghe nói đó là những lăng mộ nguy nga)? Anh có để lại bản thảo nào làm di chúc có thể được xem là đỉnh cao của tài năng và một lời chào gửi hậu thế? Những cuốn sách của anh có thu hút hơn không khi giờ đây anh có thể được xem như một kẻ “tự tử bởi xã hội”[19]?

Sau khi tôi lân la trong vài ba quán rượu, nói đủ mọi thứ trên trời dưới bể với những cô phục vụ, tôi đã đi ngang dọc khắp phố phường Le Havre, từ khu phố Rond-Point đến cáp treo lên đồi, được mệnh danh “sợi dây” (từ trên cao, chúng ta có thể phóng tầm nhìn về phía khu vực cảng), từ quảng trường General-de-Gaulle, trước đây là trung tâm thương mại, tới bến đỗ tàu du ngoạn, từ Docks Vauban, khu phức hợp thương mại được khánh thành cách đây không lâu, tới khu phố bê-tông, nơi ngư dân bán những con cá tráp óng ánh, từ đại lộ Strasbourg đến cây cầu treo dây văng Bourse, từ cửa ngõ Oceane tới con đường dốc nhỏ dẫn ra Pain de Sucre, một tượng đài màu trắng xám hình nón khổng lồ, do một góa phụ dựng lên để tưởng niệm người chồng đã mất tích trên biển và dùng làm cột mốc cho tàu bè.

Tôi đã không tìm thấy những cuốn sách khác của Sorel ở hiệu sách. Tôi cần phải kiên nhẫn để có đầy đủ các tác phẩm của anh. Tôi đọc lại cuốn Đắm chìm trong đêm thứ Bảy, vẫn vô cùng thán phục, tự nhủ rằng đây là một cuốn truyện vô cùng sâu sắc, Sorel không có đối thủ khi nói về việc giác ngộ độc giả mù quáng trước khuynh hướng bắt chước, tự an ủi bằng những phần thưởng nhỏ, tự cho mình là giỏi nhất chứ không phải là một con số đơn giản trong dãy số. Cuốn Đắm chìm là một chuỗi độc thoại dữ dội chưa từng thấy của một người tìm cách phá đi những nền tảng của cái thứ làm chúng ta theo đuổi những ảo vọng và bóp vụn cái điều chúng ta tưởng chừng là cốt tử, cái điều buộc chúng ta nghĩ ra những kịch bản về vị trí quan trọng phải có được trong thế giới của chúng ta, cái điều khiến chúng ta thức dậy mỗi buổi sáng: niềm tin một ngày nào đó sẽ là người chiến thắng trong cuộc đua xã hội.

Đọc một nhà văn như thế tại bến cảng nơi anh sinh ra và sống cho cho tới cuối đời mang lại cho tôi một cảm giác lạ. Sự tình cờ như muốn tôi ở đây, có thể chỉ cách nơi anh tự vẫn vài bước. Tôi đặt ra vô số câu hỏi về anh, về điều đã giúp anh quyết tâm theo đuổi trong khi đó thậm chí anh thường xuyên làm con mồi cho những cơn ác mộng hành xác và đã bao lần anh có ý định từ bỏ văn chương. Văn chương của anh bi thảm nặng nề đối với ai tìm cách lẩn tránh, nhưng mạnh mẽ đối với độc giả nào muốn tìm kiếm liều thuốc giải cho sự mù quáng tri thức. Tôi đã phát hiện ra một tác phẩm được viết với một sự cấp bách từ nội tâm, giống như người viết đang bị ác quỷ đuổi bắt. Tôi liếc nhìn danh mục “Của cùng tác giả”. Tất cả các tựa sách đều làm tôi tò mò: Điểm chết, Tiệm cận, Hố chôn thiên thai, Sau tiệc hóa trang, Hiệp cuối, Kẻ bắt cóc ban đêm[20]… Tôi tự nhủ tất cả những điều này cho thấy Sorel đã không gặp một nhà hiền triết như Pangloss[21] sẵn sàng nói với anh ấy rằng thế giới của chúng ta là một thế giới tốt đẹp nhất và anh ấy luôn quan tâm đến những đầm lầy nơi mỗi chúng ta đang lún chìm.

Thời gian trôi đi, tôi ngày càng chắc chắn rằng chính tôi chứ không ai khác sẽ hồi sinh nhà văn này, người đã cho ra một trong những tác phẩm cuối cùng cực kỳ phấn khích.

Tôi không nghĩ rằng có hiện hữu “một Sorel bí ẩn”, kiểu nói của một tay nhà báo đang tìm cách thu hút người đọc, nhưng ngay ngày hôm sau, tôi đã lên kế hoạch điều tra để biết rõ hơn về anh ấy.

Ngày Chủ nhật, tôi tạt vào bảo tàng Malraux để xem một phác thảo của Degas, Những cô thợ giặt đau răng, sau đó tôi đi taxi đến nhà thờ Sainte-Cecile ngự trên độ cao 100 mét, phía trên thung lũng thành phố và vừa mới được trùng tu. Buổi chiều tôi vào bảo tàng Prieuré de Graville với bộ trưng bày phong phú với hơn 200 mô hình nhà do Jules Gosselin, một thầy giáo tiểu học mắc chứng độc tưởng, tỉ mỉ thực hiện vào thế kỉ 19 từ những tấm khắc để tái hiện lại lịch sử phát triển của nhà ở qua từng thời kì. Trước tiên, ông ấy đã làm một mô hình nhỏ ngôi nhà của gia đình mình, sau đó ông đã chế tạo những mô hình thu nhỏ của các nhà mái tranh vùng Normandie, cũng như những quán trọ ở Bayeux, những ngôi chùa Tàu và vô số những công trình đã được xây dựng ở những miền đất xa xôi.

Chuyến đi của tôi sắp kết thúc. Khi xe lửa vào nhà ga Le Havre, tôi không hề dự tính sau hai ngày tham quan thành phố tôi chuẩn bị biến thành Sherlock Holmes để khám phá về cuộc đời của một con người xa lạ mãi mãi lạ lùng, hiếm có vào thời đại của anh. Sorel không phải là một người tiên phong cũng không phải là một người cổ hủ, anh không theo một trường phái nào. Anh không tìm kiếm danh vọng, cũng không cảm thấy chua xót vì nằm ngoài những thứ hào quang, anh chưa bao giờ đổi hướng đi của mình.

Từ sau ngày nghỉ cuối tuần ở Normandie, trong thời gian này Lupine đã gửi tôi nhiều tin nhắn để nói với tôi rằng cô ấy cảm thấy trống vắng khi không có tôi bên cạnh, tôi bắt đầu tập thói quen đi xe về Le Havre mỗi khi có vài ba ngày tự do. Lái xe và nghe những bản nhạc của Bill Evans hay của Keith Jarrett làm tôi nhớ về những cuốn sách của Sorel tôi đã mua ngay sau khi quay về Paris. Khi tới cửa ngõ Oceane, tôi đậu đại chiếc xe cà tàng ở một nơi nào đó, tay cầm bản đồ, tôi đi tứ tung khắp con đường của khu đô thị lớn ấy, tôi ngày càng cảm thấy bớt ghê tởm cái hình thù khó coi này. Có những khu phố bỏ hoang, như khu ngoại ô Mare-Rouge, do trước đây từng có nhiều những xưởng gạch, nhưng tôi đã khám phá ra những khu phố khác cũng không kém phần quyến rũ như khu Saint-Vincent với những ngôi nhà mái thấp và những họa sĩ tài tử trưng bày những bức họa của mình tại quảng trường. Tôi ngắm kĩ một số mặt tiền theo lối Art deco, các khu chung cư kiểu Hausmann[22] trên đại lộ Strasbourg, các biệt thự kiểu bờ biển, những ngôi nhà bằng gạch, các đường gờ tường kiểu Hy Lạp của một số ngôi nhà, tôi đi vào các con hẻm, đó thật sự là những ốc đảo xanh.

Tôi thường xuyên thay đổi khách sạn, khi thì dừng chân tại một khách sạn hai sao hướng ra một bức tường tồi tàn, khi thì ngủ ở Vent d’Ouest, gần biển, khi thì qua đêm tại Petit Vatel, tôi chọn nó vì tôi hy vọng có một bữa sáng thịnh soạn khi ngủ dậy. Nhưng tôi chỉ có vài cái bánh sừng bò mềm xèo và cà phê nhạt thếch. Tôi cũng mơ đến những bữa tiệc của người làm bánh huyền thoại, người phát minh ra kem Chantilly.

Tôi đã tìm thấy trong một tiệm sách cũ ở khu chợ trời Clignancourt một tờ tạp chí văn học cũ trong đó một nhà báo đã phỏng vấn Sorel khi cuốn sách Hố chôn thiên thai được xuất bản vào sáu năm trước. Anh không có vẻ thoải mái, anh luôn bỏ lửng các câu nói, lặp đi lặp lại rằng một tác giả không nên bình luận về chính cuốn sách của mình, hoặc tác giả sẽ không đủ độ lùi và đưa ra những lời nhận xét tối nghĩa hoặc tác giả do quá tự tin vào chính mình nên sẽ trở thành hợm hĩnh. Đến mức mình sẽ tự cho là hay nhất, thao thao bất tuyệt về bản thân, và không còn biết xấu hổ là gì nữa. Lí do duy nhất để chấp nhận phỏng vấn là dùng nó sau này như một minh chứng cho việc anh đã không gia nhập hàng ngũ của bất kì ai, cho dù phải trả giá đắt, hoặc dùng nó để truyền bá những tư tưởng chống đối nhưng cũng không hy vọng sẽ có nhiều độc giả trung thành hơn. Nếu gặp may, nhà văn là những người làm trò cho công chúng, còn nếu gặp hạn, là những người bất mãn thất vọng vì không thu hút được đám đông. Họ không bao giờ là những người làm chủ, họ chỉ biết chịu đựng, nhất là khi họ vạch trần bộ mặt lừa đảo của giới chính trị hoặc lên án xu hướng sống theo bầy đàn của đám đông, cái thứ nhân loại-u sầu[23] cố tìm cách gọt giũa sự khác biệt, như theo cách nói của Panaït Istrati[24]. Dù có hàng trăm nghìn người hâm mộ đến viếng đám tang họ, thì cũng đừng lầm tưởng: đám đông, sau khi chà đạp nhiều nhà văn outlaw, để bù đắp sai lầm, dư luận sẽ tấn cử một người tài giỏi để chứng tỏ mình có khả năng tự đề cao.

Tôi cũng tìm thấy trong tiệm sách cũ đó một cuốn sách nhỏ có in một bức thư ngỏ của Sorel gửi giới tri thức đang bắt tay với giới chính trị, trở thành người phát ngôn dưới danh nghĩa phục vụ cho đất nước. Phục vụ cho những tham vọng của một người cầm quyền đồng nghĩa với việc chấp nhận làm tay sai. Vì lợi ích chung, các ứng cử viên cho các chức lãnh đạo thường chỉ dạy chúng ta nên gọt bỏ những góc cạnh của tính cá nhân để có thể gắn kết với tập thể, mọi thái độ lệch chuẩn đều bị bài trừ. Tôi nhận ra văn phong của Sorel qua những trang viết súc tích và rõ ràng, như một bản tuyên ngôn độc lập, nếu thiếu nó, mọi tác phẩm đều không có giá trị. Các truyện của anh đều cho thấy tinh thần bất khuất của anh, và mang dấu vết của chủ nghĩa hoài nghi nơi anh, nhưng chủ nghĩa hoài nghi này không phải là ý thức hệ đang cầm tù anh.

Tôi tự nhủ viết về nhà văn đặc biệt này không phải chuyện dễ làm. Tôi nhìn anh như một nhà phép thuật tài ba có khả năng biến hình những gì đang làm anh tê dại cho đến khi những câu chữ của anh như hàng nghìn cây kim đâm vào da thịt của người đọc. Tôi tự nguyện đi gặp những người đã từng thân thiết với anh. Tôi không biết phải bắt đầu từ đâu. Sorel còn bạn bè không? Người thân không? Họ có thể thắp sáng những góc tối cho tôi? Họ sẽ chấp nhận trò chuyện với tôi? Tôi sẽ làm gì với những dữ liệu thu thập được? Làm một bài tụng ca chăng? Điều này chỉ làm hại anh: theo chính lời anh nói, anh không phải là thánh ngoại đạo. Một cuốn sách bảo vệ một trường phái nghệ thuật cắt đứt với truyền thống? Đây không phải lần đầu tiên tôi theo trường phái ly khai, nhưng đây là lần đầu tiên tôi tiến hành một công việc sẽ kéo dài cả mấy tháng trời. Liệu tôi có đủ tinh thần cao độ để hoàn thành một công việc chắc chắn sẽ ngốn rất nhiều thời gian? Những việc làm này thật hùng vĩ dưới con mắt của một nhà báo trẻ như tôi trước giờ chỉ phụ trách viết phê bình sân khấu hay thực hiện các phóng sự về những triển lãm hồi cố bó hẹp trong Paris. Đúng, đó là một thử thách tôi phải vượt qua, và tôi, một người thường thiếu ý chí, tôi đặt ra cho mình một nhiệm vụ tôi phải hoàn thành bằng được dù chuyện gì xảy ra đi nữa, tôi tự hứa với mình điều đó.