Chương 1
Barbet không mệt mỏi gửi những bức thư tới những người tổ chức sự kiện nghệ thuật của Tòa Thị chính với niềm hy vọng bạn của ông sẽ trở thành một nhân vật hàng đầu trong giới văn học. Họ trả lời họ đã xem xét đề xuất của ông ấy, nhưng vẫn còn quá sớm để vinh danh một tác giả chưa được nhiều người dân thành phố Le Havre biết đến, dù rằng anh sống ngay tại nơi này. “Hãy để cho quỷ bắt họ đi”, Barbet tự nói với mình như thế, ông ấy giận dữ đến mức ông định vào diễn đàn tự do trên một tờ báo nào đó để lên tiếng phản đối việc không có tinh thần cởi mở với “những người gác đền đời sống văn hoá”. Cuối cùng ông đổi ý: nếu hành động như vậy, ông sẽ không giúp được gì cho Sorel, cũng không mang lại thêm độc giả cho anh ấy. Người ta sẽ nghi ngờ chính nhà văn ít người đọc này đứng đằng sau những chuyện như thế và đang tìm mọi cách để quảng cáo về bản thân. Bên cạnh đó, Barbet phải chật vật giải thích vì sao tác phẩm của Sorel đặt dấu ấn lên thời đại này, nó chứa những triết lí gì, nó có gì cải tiến: ông ấy càng mổ xẻ chúng, ông ấy càng cảm thấy mình mù mờ. Trước những người yêu cầu ông phải nói rõ ràng hơn nữa, ông chỉ biết thốt lên: “Tuyệt vời!” Thực sự ông thán phục những áng văn của Sorel dù ông phải đọc đi đọc lại để hiểu hết ý nghĩa của chúng.
Theo ông, nếu ông không hiểu hết những gì bạn ông viết, đó là vì trong suốt nhiều năm ông chỉ đọc những cuốn sách chẳng đọng gì sau khi gấp lại, thay vì đọc những cuốn tiểu thuyết siêu hình, hay những cuốn tiểu thuyết kiểu như sách của anh bạn Sorel khó hiểu, pha trộn đời thực với những ảo tưởng mộng mơ. Sorel mang đến cho độc giả một tấm vé đi vào miền đất không người, xứ sở của những hoài niệm trẻ thơ, của thời kì họ tạo ra những hư ảo. Barbet không phải là một đứa trẻ giàu trí tưởng tượng, hiếu kì đối với những gì ẩn giấu đằng sau lớp vỏ bề ngoài, tưởng rằng giấc mơ chỉ dành cho cuộc sống khác. Ông ấy quan tâm đến khía cạnh khác của thực tế rất muộn, và nhờ vào cuốn truyện Tiệm cận của Sorel, ông nhận ra rằng ông sẽ không được cảm thấy thỏa mãn về sự tồn tại của mình nếu ông không có những vọng tưởng đối với chính bản thân. Sau khi đọc xong, ông đã chui vào giường, và đầu vùi dưới gối, ông đã khóc, khóc, như ông vừa biết được một sự thật phũ phàng nào đó. Ông cho biết ông đã trải nghiệm việc đọc xong một cuốn sách không thể làm ta bình yên vô sự sau đó, theo cách nói xưa, nhưng lại đúng với trường hợp của ông. Ông đã mất vài tuần để có thể lấy lại tinh thần.
“Tất cả chúng ta luôn ảo tưởng, ông nói thầm. Nếu không chúng ta sẽ chẳng biết phải làm gì. Chúng ta tránh suy nghĩ nhiều quá, chúng ta lao mình vào những việc làm để sự tồn tại của chúng ta tại thế giới này có nghĩa, chúng ta không ngừng đề ra các mục đích mới, ai cũng như ai - một gia đình, một ngôi nhà, một chức vụ hoặc một thứ phù phiếm gì đó chỉ có trời mới biết, và chúng ta chỉ đi từ sự vỡ mộng này đến sự vỡ mộng khác.”
Sorel là một người theo tư tưởng của Schopenhauer, ít ra đó cũng là những gì một nhà phê bình đã nói về anh ấy như thế. Ngay sau khi đọc thấy điều này, Barbet đã đặt mua tại một tiệm sách một cuốn sách nhỏ tóm lược các luận thuyết của triết gia Arthur, ông chỉ nhớ được ý cuộc sống dao động như quả lắc, trái rồi phải, đau đớn rồi chán chường. Một cuốn sách khác được đặt liền sau đó nói về suy nghĩ này theo một kiểu khác, một câu triết lí Phật giáo của Nhật, Sorel đã làm nổi bật câu này ở đầu một chương sách: “Không có bến bờ trên biển Khổ đau của sự sinh tử.”
“Tính lạc quan cố hữu của tôi đã bị lung lay”, Barbet nói và rót thêm cho mình một ly ápxanh như để lên tinh thần. Ông ấy thật sự có một cú sốc khi quen với tác giả cuốn Tiệm cận, cuốn sách đã làm đảo lộn mọi suy nghĩ của ông về những ưu ái thế tục. Mười năm trước, cuộc sống gia đình vẫn êm thắm, không có những bất hòa với con cái làm ông buồn, thậm chí ông hãnh diện vì đã biết lo xa và hành động theo những gì ông cho là tốt đẹp, là công bằng. Ông tự đặt cho bản thân những giới hạn để tránh những rủi ro, và hành xử theo hai nguyên lý đơn giản: “Làm theo những gì mình cho là đúng” và “Không bao giờ được quá tham lam”. Điều này đã giúp ông nhiều, cho đến khi cuốn sách quái quỷ này đã đảo lộn tinh thần ông. Thế giới trật tự với những thói quen không bao giờ đối bỗng trở thành hão huyền đáng sợ. Nhưng the show must go on (cuộc sống vẫn tiếp diễn), do hèn nhát, do sợ phải đối đầu với hiện thực, ông đã tiếp tục lối sống cũ như chưa từng xảy ra điều gì. Ông đã không bao giờ mở cuốn sách ra thêm lần nào nữa, sức tàn phá của cuốn sách đã để lại hậu quả lớn.
Má Barbet đỏ ửng vì uống hơi nhiều. Chai rượu ápxanh đã vơi. Chiếc máy ghi âm cũ kĩ của tôi tiếp tục quay đều, tôi tự nhủ người ngồi trước mặt mình chính là mẫu hình độc giả của Sorel tôi đang tìm kiếm: một người đàn ông bình thường, luôn muốn làm một người chồng, một người cha tốt, xem cuộc sống như món quà tặng vô giá của Chúa trời, dù ông không phải là một con chiên ngoan đạo, và chỉ vì ông đã nhúng mũi vào tác phẩm của một tác giả chẳng thích tô hồng cuộc đời khắc nghiệt, ông thấy những ảo mộng của cuộc sống được tạo dựng trên những điều giả tạo lần lượt sụp đổ.
Chính bản thân tôi cũng từng trải nghiệm qua điều đó. Tôi không chọn một cuộc sống đơn điệu, tôi không quan tâm đến chuyện trở thành đại diện cho số đông. Việc tôi làm đầu tiên bao giờ cũng là chối từ những gì được mọi người tán thưởng, bao giờ cũng chọn phía bên kia, ép mình không được hành xử theo kiểu hùa theo đám đông. Nhưng cuốn sách này như đã cho tôi một bạt tai đau điếng đến mức có thể làm một người chết sống lại.
Những cảm xúc của Barbet khi đọc cuốn sách đó không lạ gì với tôi. “Cuốn sách này có một sức mạnh như ma thuật”, Barbet nói thế, ông không tìm ra những từ nào khác để nói về văn chương của Sorel. Ông suýt tặng lại ngôi nhà của mình cho những đảng phái vô chính phủ (những đảng đó vẫn còn tồn tại sao?) và bỏ vợ bỏ con để đi ẩn mình tại một nơi tĩnh lặng tới cuối cuộc đời. Ông đã không làm thế, nhưng ông không còn như trước nữa. Mỗi lần ông tự hào với khối tài sản của mình, ông có cảm giác Sorel đứng phía sau và trêu chọc ông. Mỗi lần ông tự nhủ mình cũng xoay xở ngon chớn và không ngừng lại khi mọi thứ đang tốt đẹp, ông tưởng như nghe thấy những tiếng cười chế nhạo của người bạn đồng môn đang yêu cầu ông đừng khoác lác nữa.
Nhưng hãy ngừng việc tự chỉ trích bản thân! Cuộc hẹn này là để có thông tin về người đã từng là bạn của ông. Vậy bắt đầu từ đâu? Đơn giản nhất là trước tiên hãy nói về gia đình của Sorel. Anh ấy có hai người em, Claude và Jean, nhỏ hơn anh một và hai tuổi. Họ sống cùng với bố mẹ trên đường Édouard Vaillant, trong một khu chung cư xã hội ở xã Caucriauville, nằm phía trên cao thành phố Le Havre. Vào những năm tháng đó, Caucriauville không phải là một khu vực nhạy cảm. Những thành phần bất hảo không tới đập phá, và chưa bất an đến nỗi người dân nơi đó không dám ra đường vào buổi tối. Sorel và Barbet quen nhau tại trường cấp hai Romain-Rolland d’Aplemont, một khu phố gần Caucriauville. Những người sống ở Aplemont cảm thấy cao sang vì họ có nhà, có vườn, và họ thuộc tầng lớp trung lưu, còn cách đó năm cây số là những khu chung cư với những cái chuồng. Barbet sinh ra ở Aplemont, bố ông làm quản lý một cửa hàng thể thao và mẹ ông là thư kí cho một quỹ hưu trí. Ông và cô em gái là những đứa trẻ được cưng chiều. Ông không giao thiệp với những đứa trẻ sống ở ngoại ô nghèo, mà chỉ chơi với đám bạn hàng xóm. Thậm chí bố ông cấm ông đi chung đường đến trường với những đứa trẻ mà bố ông gọi là “tụi lưu manh”. Nhưng ở trường, ông trở thành bạn thân của Sorel và ông không quan tâm đến điều bố cấm. Họ cùng nhau đi đến trường, cùng nhau chơi trong giờ giải lao, Barbet mang theo Lego, Antoine không có gì, ngoài những viên bi xỉn màu. Anh ấy đã là một con người nghiêm túc dù mới mười một tuổi. Bằng chứng là Barbet lấy từ trong một hộp sắt rỉ sét một bức hình chụp hồi lớp Sáu, trên tấm hình Sorel với cặp kính trên mũi, chiếc khăn choàng đen quấn quanh cổ, mái tóc cắt ngắn, cái nhìn chân phương, giống một chủng sinh hơn là một học sinh cấp hai.
Barbet nhớ rõ những chi tiết nhỏ. Ông ấy nhớ Sorel có cái cặp bằng vải quá to so với người (tuy anh cao hơn những bạn cùng lứa) và không còn đóng lại được nên anh phải ôm nó trong tay. Antoine cẩn thận không làm dơ quyển tập được làm bằng giấy chất lượng xấu, nhưng được bao bọc kĩ lưỡng và không có dính miếng đề can nào, điều này khác với những cuốn tập của Barbet đầy những miếng dán đề can sặc sỡ. Những cuốn sách của anh ấy được bọc những tờ giấy bao bì, anh không có túi đựng bút viết bằng vải dầu, thay vào đó là một hộp bằng gỗ trong đó bút viết, gôm, compa được đặt ngay ngắn. Anh lúc nào cũng có một hộp mực dùng để chấm ngòi bút, trong lúc đó mọi người đều đã sử dụng viết lông hoặc viết bi. Anh không bỏ bất kì buổi học nào dù có bị sốt cao. Anh không ngồi bàn đầu cùng với những học sinh giỏi, nhưng anh ngồi ở hàng thứ tư, không quá gần bảng cũng không quá xa những người bạn mong chờ anh tuồn phao cho họ. Khi giáo viên điểm danh, anh luôn trả lời “Có mặt!” với một giọng nói mệt mỏi lạ thường. Anh không dùng khăn giấy để lau mồ hôi trán, anh dùng khăn mùi xoa vải thơm mùi hoa lài. Anh không nhai kẹo cao su, anh không có súng nước, không có thứ đồ chơi thổi bong bóng xà phòng, nhưng anh có một bộ bài dùng để làm ảo thuật. Anh không như đa số bạn bè khao khát có các chú lính chì, hoặc xe lửa điện. Anh không theo dõi kết quả các trận đá bóng và không biết những bài nhạc đang dẫn đầu các bảng xếp hạng. Khi những người bạn khác truyền tay nhau những cuốn truyện tranh trong giờ học, anh giấu trong cặp một album đầy những hình các nhà văn -Dostoievski trước một tờ giấy trắng, Proust trên giường bệnh, Rimbaud ở Abyssinie, Hemingway tại bàn làm việc. Anh không nói tục, như những đứa ra vẻ đàn anh đàn chị, nhưng anh cũng không tỏ ra trịnh trọng và nghiêm trang. Anh có những kiểu cách của một người giỏi nhưng không đắc thắng. Anh sửa lỗi chính tả cho những bạn viết phóng túng, anh giúp những bạn lơ đễnh, đứng đầu là Barbet, nắm được những sự kiện của cuộc Cách mạng Pháp của những người bị áp bức. Anh không giỏi tính nhẩm, nhưng thuộc làu lịch sử và địa lí đến mức anh có thể định vị ngay bất kì một quốc gia châu Phi nào đó trên bản đồ và nêu tên thủ đô của quốc gia đó, nói số dân, ngày độc lập trong khi đó những người bạn của anh xem châu Phi như một vùng đất đầy bụi rậm, theo lời kể của bố mẹ chúng, nơi đó có những bộ lạc người nguyên thủy, họ nhảy xung quanh những cái vạc của các thầy phù thủy và tổ chức những lễ nghi hiến người. Anh bị điểm xấu ở môn âm nhạc, anh buồn về điều này vì anh thích cô giáo trẻ luôn mặc đồ xanh, cô đã dạy mọi người thanh nhạc và anh muốn được chơi nhạc của Bach bằng đàn vĩ cầm như một người mê nhạc. Ở các môn còn lại, anh đều đứng nhất. Anh để cho các học sinh cá biệt chép bài, không phải vì anh muốn chúng yêu quý anh (đó là những tên thủ lĩnh nhóm), mà đúng hơn vì chúng bị đuối không thể theo kịp bài và sẽ bị cha mẹ chúng la mắng ở nhà khi họ kiểm tra sổ liên lạc. Anh không vuốt đuôi các giáo viên, nhưng anh cũng không hỗn xược đáp trả khi họ la rầy anh vì anh đã đứng ra bênh vực bạn học dốt, bị bắt làm việc nhà đến nỗi không còn thời gian học. Theo bản năng, anh đứng về phe những học sinh không có lợi thế, những học sinh có bố là những tay bợm nhậu sau khi bị sa thải. Nhưng chúng lại trêu ghẹo anh và thích những người hùng đá bóng hay bóng bầu dục hơn.
Vào lớp Bảy, anh luôn thích tới giờ Pháp văn, vì giáo viên nói về tập thơ Les Métamorphoses (Biến hoá)[28] của Ovide. Các hóa thân của Acteon và Arethuse nuôi dưỡng những giấc mơ của anh. Anh nói với Barbet cần phải có nhiều cuộc sống và có khả năng biến đổi diện mạo tùy ý. Anh tưởng tượng ra khi lớn, anh sẽ đánh cắp danh tính của người khác và trải nghiệm những cuộc phiêu lưu chỉ đến với những kẻ mạo hiểm vô gia cư. Anh không nghĩ mình sẽ rong ruổi khắp mọi miền đất nước, mọi thứ đều diễn ra trong đầu anh, hôm nay anh sẽ biến thành một nhà giả kim kiểu Faust, ngày mai anh sẽ biến thành một người thực nghiệm lời nói, ngày kia anh sẽ biến thành Ahasverus bị mọi người ruồng bỏ vì không nguồn gốc. Lúc khoảng mười bốn tuổi, anh đam mê truyền thuyết người Do Thái lang thang, theo anh, là hiện thân của nhà văn có khả năng xóa tan mọi giới hạn. Anh đam mê những cuốn sách kể về những người nổi loạn là những người báo trước một thế giới sẽ giải phóng mỗi cá nhân khỏi bàn tay vị kỉ của sự độc ác. Anh đề cao tư tưởng tiến bộ của thế kỉ Ánh sáng, những tư tưởng của Montesquieu và của Rousseau, anh đọc cho Barbet câu nói nổi tiếng trong Bài diễn văn về nguồn gốc và nền tảng của bất công trong xã hội[29]. Người đầu tiên rào quanh một mảnh đất rồi tuyên bố, “đây là đất của tôi”, và nhận thấy con người khá cả tin, đó là người thực sự đặt nền móng cho xã hội dân sự.
“Tôi chỉ lắng nghe bằng một tai”, Barbet nói, ông đề nghị tôi ra vườn để ăn. Ông vẫn còn vài món ăn chơi. Cùng với một chai vang hồng ướp lạnh, sẽ là một bữa ăn dặm buổi chiều ngon tuyệt. Ông ấy xin lỗi vì chỉ nghĩ đến cái bao tử, nhưng tinh thần ông sẽ minh mẫn hơn sau khi ăn no. Ngay sau khi ông dọn bàn ăn dưới giàn cây leo và nuốt xong vài món, ông càng trở nên hoạt bát và tiếp tục nói: “Đúng vậy, tôi chỉ nghe chiếu lệ những gì anh ấy nói. Như bao thanh thiếu niên khác, tôi là một đứa lười biếng. Tôi biết mọi thứ về các cầu thủ bóng đá, nhưng tôi chẳng quan tâm tới Rousseau. Tôi chơi trò flipper. Tôi mua đĩa của Pink Floyd. Balzac, Zola, Diderot chỉ làm tôi buồn ngủ. Cũng may Antoine có những người bạn khác, trong số đó có một đứa người Madagascar, vào mỗi giờ ra chơi hai người lại cùng nhau thảo luận về Đảo kho báu, cho đến khi người bạn đó quay về Antanarivo cùng với bố mẹ. Trong vòng hai năm, Antoine kết thân với một người bạn người Bồ Đào Nha, cũng say mê truyện Le Horla như anh.”
Truyện Pierre và Jean của Maupassant cũng làm anh cảm động, nhất là khi anh nói về người con trai Roland, một bác sĩ, đứng trên bờ đê của cảng Le Havre và nói với em trai rằng mỗi khi ông ấy tới đây, ông ấy như có một ham muốn mãnh liệt đi đến những xứ sở nơi có các cô gái đẹp, màu da trắng bệch hay rám nắng, những xứ sở nơi có chim ruồi, voi và sư tử được sống tự do.
Antoine không có sở thích xem phim, anh không xem phim trên ti-vi, trừ phim của Sác-lô. Anh thích Kẻ độc tài. Anh không thích điện ảnh, nhưng ngược lại khi anh mới ở tuổi mười một, mười hai anh đã quan tâm hội họa, nghệ thuật châu Phi, nghệ thuật điêu khắc của bộ tộc Dogon, những bức tranh Rừng rậm của Ông Thuế quan Rousseau[30], những bức cắt dán của Dubuffet[31], những sáng tác của trường phái Dada (và cùng nghiền ngẫm về lời răn của Tristan Tzara[32]: “Mỗi người hãy hét lớn: có một việc phá hủy, xấu xa lớn cần phải làm. Quét, lau”). Anh ấy tìm thấy những điều đó trong những bản chuyên khảo ở thư viện thành phố trên đường Jules-Lecesne. Anh ở đó hàng giờ, mượn những cuốn sách anh đọc như một người khao khát được đọc và sẽ chết nếu anh không đọc ít nhất mỗi ngày một trăm trang. Việc mê sách làm anh bị cô lập, mọi người cuồng thể thao chứ không cuồng sách. Sorel sợ những giờ học thể dục. Anh ấy hết hơi nhanh khi chạy, vì anh mà đội bóng rổ đã thua, ở hồ bơi, anh tự ti khi phải cởi đồ, cho người khác thấy cơ thể trắng bóc, gầy mọn của mình.
Barbet còn nhớ Sorel mặc những cái áo len màu vàng nhạt hoặc đỏ chóe, do mẹ anh ấy đan, bà ấy thích những màu nổi, và quần nhung tăm màu xám hoặc nâu, chân mang giày giả da màu nâu, mũi tròn và có dây thắt. Anh không bao giờ uống nước soda, ở căn-tin trường, anh đổi phần cá tẩm bột của mình với món bánh flan, phần rau thập cẩm cắt hạt lựu của mình với bánh sô-cô-la hạnh nhân, lúc bốn giờ thì anh gặm mẩu bánh mì anh đã để dành phần từ lúc trưa. Trong những giờ học đầu anh thường bị chóng mặt vì sáng anh không ăn gì (vào cuối tháng, ở nhà anh thậm chí sữa cũng hết), Barbet sẵn sàng chia với bạn cái bánh ngọt của mình, nhưng anh ngạo nghễ trả lời rằng anh không đói. Anh không phải là người hay ganh tị. Anh không quan tâm đến việc những người bạn khác ăn mặc đẹp, có cặp mới, giày thể thao thời trang, đội những chiếc nón làm họ oai phong, có những món đồ chơi đắt tiền. Anh đã như một nhà hiền triết, và nếu như không đam mê văn chương, anh đã bị bố bóp nghẹt, và nếu không có những đứa em (thật sự là những đứa ranh mãnh), anh đã không thể thích ứng với thế giới này.
Anh chỉ khát khao một thứ: chiếc xe đạp của Barbet. Anh sẽ vui khi có một chiếc, dù cũ kĩ, để có thể thoát khỏi nhà vào Chủ nhật, khi ông bố trút giận lên anh và hai đứa em trai vì việc thiếu tiền làm cho ông ấy nổi quạu. Anh chỉ được đi nghỉ hè một lần duy nhất, khi anh mười hai tuổi, nhờ vào Hội Cứu tế bình dân[33], họ dẫn anh đến Boulogne-sur-Mer. Khi quay về, anh chỉ kể anh đã tắm trong nước biển rất lạnh, anh đã thưởng thức món cá chiên, một người bạn cùng đi đã cho anh mượn cuốn truyện tranh Tintin ở Tây Tạng, trong truyện người tuyết cứu sống người phóng viên gan dạ khỏi trận bão tuyết, một người bạn đồng hành khác đã cho anh cuốn Taipi, cuộc phiêu lưu của Melville ở xứ sở ăn thịt người, anh đã đọc suốt đêm, dưới tấm chăn với cây đèn pin dùng để chiếu sáng.
Trong những năm tháng ấy, bố của Antoine thường xuyên cho phép anh mời Barbet tới nhà trên đường Édouard Vaillant. Họ cùng ôn bài tiếng Anh, Antoine bắt chước giọng cockney[34], họ nói với nhau rằng một ngày nào đó sẽ lấy phà đi Southampton và du lịch bụi vòng quanh nước Anh, tới Chelsea ăn fish and chips, tới Chinatown xem những vòm cửa kiểu ngôi chùa, tới những nơi Jack Đồ tể[35] đã phạm tội ở Whitechapel, tới nhà thờ Anh giáo Haworth, thăm nhà chị em gia đình Brontế, dù Sorel cố khuyên nhưng Barbet vẫn không chịu đọc tiểu thuyết Đồi gió hú và ông thích làm một vòng Cavern Club của Liverpool, địa điểm biểu diễn trước đây của nhóm Beatles hơn. Có những hôm họ chơi trò cadavre exquis[36], họ vẽ nguệch ngoạc những bức họa Barbet tìm thấy ở cửa hàng đồ trang trí ở Aplemont, Nghệ thuật “bên lề”, Barbet thường hay vào đó lùng sục, vì họ bán những miếng nam châm bằng gỗ hình ren tết, những miếng ô vuông dùng để lót ly, tất cả những vật liệu để chế tạo thủ công. Ông cũng mang tới nhà anh một bằn bi-da nhỏ, cùng với Claude và Jean, họ thụt và đánh những viên bi-da, thốt lên những tiếng kiểu như “Ồ!” và “Xui thật!” Mẹ của Antoine chuẩn bị nước trái cây và bánh mì. “Bố của cậu ấy quan sát chúng tôi trong lúc chúng tôi ăn bữa xế và lặp đi lặp lại rằng tôi là một thằng bé ngoan, lịch sự, rồi nói Antoine và hai đứa em không giống những đứa lưu manh mạt hạng ở Caucriauville, có bố mẹ là những tên nghiện rượu và bê tha, muốn ba anh em họ phải noi gương tôi. Nhưng ông bố đáng thương hẳn sẽ té ngửa khi biết với bạn bè tôi chơi trò ngửi thuốc kích dục mua trong các cửa hiệu đồ chơi dành cho người lớn và chúng tôi cười khoan khoái, hoàn toàn bị phê thuốc”, Barbet cho biết như thế.
Antoine vào lớp Mười ở trường Claude Monet, còn Barbet học ở Frangois Đệ Nhất. Họ vẫn chơi với nhau. Mùa hè họ đi dạo trong khu rừng Montgeon, nằm nghỉ trên thảm cỏ lớn khi đã đi bộ mệt. Đôi khi bạn bè của Barbet tới chỗ họ để chơi đá bóng, Antoine làm trọng tài, vì anh ấy chạy không nhanh và không có khả năng ghi bàn. Nhưng phần lớn thời gian chỉ có hai người họ với nhau. Sorel mang theo mình những tuyển tập thơ, anh ấy thuộc lòng hàng trăm câu thơ không có trong chương trình học. Đối với những học sinh trung học như Barbet có vốn từ vựng nghèo nàn, tiếng Pháp của Antoine thường khó hiểu. Anh ấy sử dụng những từ lóng lấy trong các tác phẩm của Hugo. Bài viết của anh đầy những cấu trúc lắt léo. Những đứa phá nhất gán cho anh ấy biệt danh Trissotin (nhưng anh ấy không bao giờ là một kẻ thông thái rởm), sau khi học trên lớp tác phẩm Những phụ nữ uyên bác. Còn Barbet tặng cho anh biệt danh “người có tâm hồn treo ngược cành cây” và ông rất mến anh, vì ông cảm nhận rằng rồi một ngày người có tâm hồn treo ngược cành cây này sẽ nổi danh bằng cách này hoặc cách khác.
Khi Barbet bắt đầu lui tới các vũ trường, đặc biệt là Le Transfert ở Pont-l’Eveque, với những đứa bạn lớn tuổi hơn, chúng đua xe trên đường về, Sorel lại cảm thấy thích thú với ngụ ngôn về cái hang của Platon (Con người hiện đại có phải bị buộc sống với những cái bóng và trong một thế giới ma quỉ?). Anh ấy cũng đọc Bản Tuyên ngôn của Đảng cộng sản (thế là khẩu hiệu của anh: “Hỡi những kẻ làm phản ở khắp thế giới, hãy đoàn kết lại”), những câu châm ngôn của Chamíort (một trong những câu anh thích: “Người nghèo nhưng độc lập chỉ muốn có những thứ cần thiết. Người giàu nhưng phụ thuộc thì phải tuân mệnh một hoặc của nhiều người”) và thư của Mallarmé[37] gửi cho Henri Cazalis vào năm 1865, ông nói mọi thứ đều đưa ông tới sự hư vô: ông chạy trốn sự cô độc gặm nhấm những người mạnh mẽ, ông cần mọi sự kích động cao độ, của âm nhạc, của tiếng động, của cuộc sống, của những người tìm kiếm sự hiện hữu đầy si mê. Nếu thiếu những thứ đó, ông sẽ như một ông già sắp chết ở tuổi hai mươi ba. Antoine cho biết nếu không có tài năng của Mallarmé, anh cũng sẽ sớm rơi vào tình trạng cô độc như thế, anh cũng sẽ tìm cách chạy trốn nó giống như nhà thơ, dẫu biết rằng nỗi cô độc sẽ là một người bạn đồng hành trung thành và nó tạo ra xung quanh anh một vòng tròn lửa không thể vượt qua.
Sau một hồi nói những chuyện vòng vo chẳng liên quan đến Sorel (như chuyện ông gia nhập CFDT[38], chuyện ông chọn theo cánh tả, trong khi đó bố ông lúc nào cũng bỏ phiếu cho phe cực hữu, những chuyến đi tới Liban, từ Beyrouth sang Baalbek, chuyện ông sống một mình từ khi li dị), Barbet chợt nhớ đến một điều quan trọng ông đã quên không đề cập đến: Antoine Sorel tên thật là Antoine Trần. Anh có một người ông nội gốc Việt, tên Diet Trần. Người ông này đã bị cưỡng ép sang Pháp, vào cuối những năm ba mươi và bị buộc lao động trong những xưởng sản xuất muối và vũ khí. Vào thời đó, ông nội anh là một thanh niên mười tám tuổi, gần như mù chữ, sinh ra tại một vùng quê hẻo lánh. Ông đã rời quê hương theo lệnh của chính phủ thực dân, tuyển mộ nhân công rẻ tiền dùng để thay thế những công nhân Pháp bị đưa ra mặt trận đánh nhau với lính Đức. Ông và vài nghìn người khác được chuyển về Marseille, sống chen chúc trong những ngôi nhà tạm bợ và bị bắt làm việc quần quật như nô lệ. Diet không phản kháng, cam chịu số phận và sống một cách tốt nhất có thể: ông học đọc, viết và nói tiếng Pháp. Trong vòng 24 tháng, ông đã có thể nói tiếng Pháp tốt dù ông phải lao động cực khổ trong một nhà máy sản xuất vũ khí ở Bordeaux. Những người bạn đường của ông bắt đầu quan tâm đến những thuyết giáo của phe chủ nghĩa Trốt-xki ngày càng đấu tranh mạnh, và tổ chức những lớp dạy tiếng Pháp cấp tốc cho những người mù chữ, vì chỉ có việc nói hiểu tiếng Pháp và những thuật ngữ mang tính chính trị mới có thể giúp họ bảo vệ chống lại những kẻ bóc lột. Phong trào Trốt-xki vẫn chưa phát triển mạnh, và chỉ thực sự bùng nổ một thời gian sau đó. Nhưng chính nhờ vào những người tuyên truyền cách mạng cộng sản như thế nên Diet Trần đã có thể học. Nhờ đó ông bớt cảm thấy lạc lõng và bị xa lánh, ông đã gặp vợ ông, một người gốc Normandie, con gái út một gia đình công nông ở Bordeaux như ông. Họ cưới nhau khi nước Pháp được giải phóng. Họ có một người con trai, là cha của Antoine, tên là Martin, và ba người con gái. Do họ không có đủ điều kiện để nuôi tất cả, họ đã gửi đứa con cả cho bố mẹ vợ. Vì thế Martin lớn lên trong một nông trại ở Lillebonne. Ông không biết một chữ tiếng Việt, đó là chuyện hiển nhiên, nhưng ông lại sử dụng tiếng địa phương của vùng Normandie. Ông có những kiểu cách của một đứa trẻ đồng quê, đeo bám bà ngoại, người chỉ biết thế giới xung quanh nông trại của bà - bà sợ những thành phố lớn và di chuyển bằng tàu hỏa. Bố của ông không viết thư cho con, không bao giờ đến Normandie. Mẹ của ông thi thoảng ghé thăm và chỉ lưu lại vài hôm. Ông càng lớn càng cảm thấy ghét người sinh ra mình, một “người mắt xếch đến Pháp xin ăn”. Đối với ông ấy, thật xấu hổ khi là con trai của một người da vàng, bị trưng dụng vào thời Pháp đô hộ và Mẫu quốc đang trong một trận chiến buộc các gia đình phải cống nạp một người con. Dù ông ấy có biết về nỗi đau khổ của bố, Martin vẫn không tìm thấy lí do để tha thứ: dù đã phải chịu bao cực khổ, Diet Trần là một người không thể được tha thứ dưới con mắt của ông, vì bố ông đã gửi ông đi xa để không phải nuôi dưỡng.
Ông bà ngoại của Martin cũng bồi thêm vào suy nghĩ của đứa cháu trai về ba nó, “một thứ cặn bã bần cùng của xã hội”. Cho dù khi Diet Trần, sau chặng đường gian khổ và mặc cho những lời cảnh cáo của bọn người Trốt-xki đối với thuốc phiện của nhân dân, ông đã theo đạo Thiên chúa, mỗi đêm đọc Kinh thánh và bắt vợ ông cùng ba người con gái đi lễ nhà thờ mỗi Chủ nhật, ông vẫn bị gia đình vợ và đứa con trai coi thường.
Antoine, khi mới sáu, bảy tuổi, đã biết thương ông nội: Diet luôn bị con trai mình miệt thị vào những buổi tụ họp gia đình. Sau khi các cháu ông ra đời, ông đã cố xoa dịu người con trai thà bị chặt làm hai khúc còn hơn mở rộng vòng tay tiếp đón ông. Diet thường xuyên tới Le Havre, lúc nào cũng hai tay đầy bánh trái để tặng con dâu và kẹo cho Antoine, Claude và Jean, chúng mở cửa reo mừng, dù Martin ngay lập tức dập tắt niềm vui đó bằng cách quát lớn “Tụi bây câm miệng lại!” và nói thẳng vào mặt ông già: “Ông còn muốn gì ở tôi nữa? Hãy để tôi yên. Tụi tôi không cần ông đến đây. Ông chỉ đóng kịch ra vẻ tốt bụng. Còn quà cáp của ông, ông cứ việc nhét vào cái chỗ ấy.” Diet không trả lời, không biểu hiện gì trước những lời nói chói tai làm ông tổn thương. Ông tin rằng vào Ngày phán xét cuối cùng ông sẽ được bù đắp lại nếu ông bỏ qua những lời nhục mạ đó, ông cần phải có một thái độ đúng đắn, thương hại như những gì Chúa đã khuyên dạy và đưa má còn lại ra khi bị tát. Theo thời gian, ông sẽ bớt cảm thấy bực bội, ông sẽ chịu đựng được những lời chửi rủa của đứa con trai, thêm vào đó, ông dạy cho Antoine dù nó chưa đến tuổi hiểu được những chuyện đó, nếu chúng ta cầu phúc cho những người nguyền rủa mình, nếu chúng ta cầu nguyện cho những người đối xử tàn nhẫn với mình, hành hạ mình, chúng ta sẽ xóa bỏ được những tội lỗi của bản thân.
Martin thậm chí không mời Diet một bữa ăn, ông ném lên bàn vài hạt hồ đào hoặc đậu phông, ông mở hai lon bia và càu nhàu vì phải cung phụng, và hai giờ sau, ông đuổi bố ra khỏi nhà và nhắc lại rằng những lời thuyết giảng làm ông mệt mỏi. Diet quay về nhà dáng người chao đảo, ông đi tàu lửa mà ông đã phải chi trả bằng việc nhịn rượu và thuốc lá, nhịn bữa trưa và chỉ dùng một tô cơm trắng vào bữa tối. Việc Martin khó chịu với ông làm ông vô cùng đau khổ, nhưng ông cố xem chuyện đó như một thử thách của Chúa đang bắt ông phải trải qua vào lúc già, vì ông đã là một người bố trốn tránh trách nhiệm. Nhưng ông hẳn có thể làm khác được sao? Khi con trai ông chào đời, ông đang trong tình cảnh khốn cùng đến nỗi ông không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc xa đứa con của mình. Kể từ ngày đó, ông không mong chờ đứa con trai lớn của mình sẽ tôn trọng mình (từ rất sớm Martin đã là một đứa thực sự nhẫn tâm), nếu con trai ông bớt những lời chửi rủa, đó đã là một sự ban ơn đối với ông.
Antoine tâm sự với Barbet rằng khi ông nội mất, Martin đã nộp đơn xin đổi họ. Ông ấy sẵn sàng đánh đổi mười năm tuổi thọ để được mang tên Dupon hoặc Durand. Ông đã nổi điên khi đơn xin của ông bị bác. Và trong nhiều tuần, ông than trách nước Pháp đã không chấp thuận lời cầu xin của ông và đã không đón nhận ông như một người con của đất nước.
Martin Trần làm bưu tá. Ông lập gia đình rất sớm, lúc mười chín tuổi, vì bố ông đã từng nói: “Bất hạnh cho những ai sống một mình”, vì những người xung quanh ông đều đã yên bề gia thất và ông sợ khác biệt với mọi người. Vợ ông, bà Louise, sinh ra tại Bréauté-Beuzeville, nơi đó bố mẹ bà là chủ một tiệm tạp hóa. Bà không phải là một người phụ nữ có nhan sắc, trán bà quá ngắn và môi quá mỏng. Bà không trang điểm, tóc tai bù xù, nhưng Martin sẽ không bao giờ muốn vợ mình mất thời gian ngồi trước gương, vẽ lông mày, tạo nếp tóc và bôi kem để thanh xuân không phai tàn. Quan trọng đối với ông ấy đó là vợ ông không là một người nội trợ tồi, những đồng tiền do chồng khổ công kiếm được bà không tiêu pha hoang phí, và bà kiếm được tiền trong khả năng của mình.
Louise hẳn muốn bán bánh mì, nhưng ở Le Havre, bà không kiếm được một chỗ phù hợp. Sau những lần tìm kiếm thất bại, bà quyết định làm những việc có sẵn: bà chăm sóc người già hoặc đi làm thuê quét dọn ủi đồ cho nhà này nhà kia. Martin sống với vợ mình một cuộc sống buồn tẻ ngày qua ngày. Ông sớm chán vợ, một người phụ nữ vô vị. Rồi ông có con. Đúng theo quy luật đất trời: một cặp vợ chồng không có con là trái với tự nhiên. Ông hy vọng cuộc sống thường nhật xám xịt của mình sẽ khởi sắc khi có con trẻ vui đùa khuấy động không khí gia đình. Và sau này, những đứa con trai được giáo dục đàng hoàng nghiêm chỉnh, sẽ có một cuộc sống khá giả hơn, có nghĩa là theo quan điểm của ông, chúng sẽ là những viên chức nhà nước lương bổng hơn cả mong đợi, chủ của những căn hộ rộng lớn trên đường Felix-Faure (một khu phố đang rất có giá), cưới những cô gái người Le Havre gia cảnh tốt và sẽ sinh ra những đứa con cũng sẽ là những viên chức nhà nước với tương lai đầy hứa hẹn. Mỗi Chủ nhật, họ sẽ quây quần dùng bữa tại nhà hàng La Lerme Saint-Georges, nơi những người vùng Normandie thường tổ chức những bữa tiệc mừng đám cưới vàng. Những đứa con trai của ông sẽ được giới thượng lưu chào đón và họ không để ý đến việc ông nội của chúng là một người bị chính quyền thực dân trưng dụng và bạc đãi khi đến Marseille cứ như thể ông là thứ cặn bã của nhân loại.
Martin không có bạn, thậm chí cũng không có người chơi bài belote cùng ông. Trong nhà không có một cuốn sách nào, Martin chỉ đọc các báo địa phương. Ông chỉ còn lưu giữ những kí ức mơ hồ về một số trang sách của Camus hay Malraux được học ở lớp Mười và ông cho rằng các giáo viên đã gieo vào đầu ông những tư tưởng sai lầm. Hơn nữa ông thôi học vào lúc mười sáu tuổi để làm việc trong trang trại của ông bà ngoại cho đến khi hai người qua đời, cả hai đều ra đi cùng lúc chỉ trong vòng một tuần do biến chứng bệnh cúm.
Barbet không ngạc nhiên khi thấy Antoine lấy biệt danh là Sorel: vào tuổi mười hai anh đã hoàn toàn sùng bái Stendhal và đọc đi đọc lại tác phẩm Đỏ và Đen. Nhân vật Julien Sorel cuốn hút anh. Anh chọn một biệt danh không phải anh muốn chối bỏ họ của ông nội, mà vì anh muốn cắt đứt mọi mối quan hệ còn lại với Martin Trần. Khi xuất bản sách, anh mở ra một cuộc sống mới, đó là một thế giới nơi anh bước những bước chân đầu tiên hoàn toàn xa lạ với bố anh, ông sẽ không bao giờ cho phép nếu ông biết con trai ông theo đuổi sự nghiệp văn chương. Và không một điều gì có thể hàn gắn hai cha con họ. Những gì đối với người con là lẽ sống thì đối với người bố chỉ là trò ba láp ba xàm. Những gì người con đặt lên hàng đầu đều bị người bố coi thường. Người con lấy sách làm nguồn sống còn người bố tin rằng những cuốn tiểu thuyết là một mối đe dọa, vì chúng làm con người èo uột, vì con người sẽ biến thành những kẻ ngu muội nếu mê say đọc những thứ vô thực trong sách và con người chỉ còn biết nuôi ảo mộng thay vì phải đấu tranh. Martin không phải là người biết đấu tranh nhưng ông mong những đứa con trai của ông phải như thế. Ông dạy cho Antoine, Claude và Jean phải biết giành giật để có chỗ tốt nhất, và không cần biết liêm sỉ. Ông bố không kiếm được nhiều tiền, nhưng những đứa con đã theo đúng lời bố dạy, chúng sẽ là những người cán bộ tha hóa vì tiền. “Tiền, chỉ có tiền là thực”, ông Martin nhấn mạnh. Không có tiền, chúng sẽ chẳng là gì cả. Mặc cho những gì những kẻ lí tưởng thường nói, đó là người bạn đáng tin cậy nhất nếu không muốn mãi là những kẻ hạng bét. Kiếm một khoản tiền lớn, đầu tư chứng khoán, thực hiện những việc cho phép sinh lãi trong thời gian ngắn nhất, đó là điều sáng suốt. Martin không rời mắt khỏi màn hình khi có những chương trình về doanh nhân đã tự mình thành công. Ông nói về những nhà tư bản lớn quyết tâm làm giàu, những ông hoàng ngành công nghiệp đánh bại đối thủ bằng cách làm việc cật lực, các tỷ phú mà cả thế giới phải khúm núm trước họ là những chiến binh thời gian, vũ khí của họ là biết làm giàu và chủ nghĩa kinh tế tự do. Ông ấy thuộc “nước Pháp bên dưới” nhưng ông sẽ cố làm để một trong ba người con của ông có thể leo lên tầng lớp những người có đặc quyền. Chẳng hạn đứa lớn sẽ mở đường cho hai đứa em với một công việc kiếm ra tiền và bằng cách thâm nhập giới thượng lưu. Martin xem những người giàu có thuộc “nước Pháp bên trên” như những thánh nhân. Nếu họ mở rộng vòng tay đón, xem như là được bước vào thế giới thần tiên.
Những lời nói lặp đi lặp lại đó làm Sorel phát cáu, trong suốt thời niên thiếu, anh chỉ nghĩ đến việc rời khỏi cái nhà trên con đường Édouard Vaillant càng sớm càng tốt. Ngay khi bước vào tuổi mười tám, anh ngừng học và kiếm một công việc để không còn phải sống lệ thuộc vào bố anh. Vậy cuộc đời của anh như thế nào sau đó? Barbet không biết vì trái ngược với những gì ông này đã quả quyết trong điện thoại, ông không còn liên lạc với Antoine từ khi anh xuất bản cuốn truyện đầu tiên. Họ đôi lần gặp nhau gần Tòa Thị chính và chào nhau thân thiết, nhưng họ không cùng nhau đi uống cà phê, họ hỏi thăm nhau ngắn gọn trên một vỉa hè. Barbet cười đùa, Sorel làu bàu một câu khó hiểu, họ chia tay nhau. Antoine hứa với Barbet sẽ gọi cho ông, nhưng ông biết rõ đó chỉ là lời nói gió thoảng, vì bạn ông không gọi điện nữa, anh ấy hầu như không gọi cho ai nữa.
Đã hơn nửa đêm buổi phỏng vấn kết thúc, vì Barbet đã kể hết những gì ông ấy biết. Thứ Bảy sau, ông đã đi nghe bản La Messe en ut mineur của Mozart tại thánh đường Montiviliers. Ông mời tôi đi cùng: có thể từ hôm nay đến đó, ông sẽ nghĩ ra thêm vài hướng để tìm hiểu thêm về nhà văn. Nếu tôi còn lưu lại thành phố Le Havre thêm vài ngày, ông ấy nói, tôi có thể đi gặp bố của Antoine. Mẹ của anh đã qua đời nhưng Martin Trần vẫn sống ở Caucriauville, văn phòng nhà xã hội đã cấp cho ông sau khi ba người con đi sống nơi khác, đó là một căn hộ hai phòng không xa căn hộ cũ của ông. Tôi cũng có thể gặp Jean Trần, người con duy nhất còn sống, vì Claude người em thứ hai của anh, chủ một cửa hiệu sửa xe, đã tử nạn do một chiếc xe ông đang sửa đè lên người. Jean có một căn hộ nhỏ gần biển, ông làm nghề kĩ sư tin học, ông thiên về khoa học hơn văn chương, nhưng ông đã rất tử tế với người anh của mình. Ba anh em họ rất hòa thuận, họ quý nhau dù giữa họ không có điểm tương đồng nào. Claude là một người thô lỗ thẳng như ruột ngựa, lúc nào cũng mặc bộ quần áo lao động màu xanh. Ông nói tiếng Pháp như trong các phim của Audiard[39]. Jean thuộc tầng lớp trung lưu, cán bộ trong một tập đoàn, ông cưới một cô gái người thành phố Brest, có gia đình sống ở vùng Normandie. Khi Antoine và Jean vào độ tuổi hai mươi, họ tự nhận mình là những Vitelloni, lê lết chán đời trong một thành phố tỉnh lẻ và chỉ muốn đến những xứ sở có mặt trời ẩm ướt và bầu trời mờ sương. Claude không có ý định rời bỏ xứ sở. Ông gắn bó với đường phố Le Havre, với các gian hàng sắp bị phá bỏ, những bảng hiệu sáng rực của rạp chiếu bóng nơi có những bộ phim găng-tơ, với các cửa hiệu mới tìm cách thu hút khách hàng bằng những tờ rơi quảng cáo, những gian nhà trắng trên bãi biển nơi các du khách nghỉ hè đặt những chiếc ghế bố và những chiếc dù to màu mè, cột tín hiệu từ đó sẽ thấy những chiếc thuyền buôn, những chiếc thuyền buồm đua đang vào bến cảng, với nơi ông đã từng chơi nhảy ngựa, với ngôi trường cấp ba Porte-Océane nơi ông có những người bạn, với những quán rượu ở Saint-François nơi khi ông còn là một thanh niên làm nghề sửa xe, ông đã mời các thủy thủ đến từ khắp năm châu. Ông gắn bó với từng góc phố nơi ông đã từng lang thang cùng với hai anh em của mình. Ông thậm chí gắn bó với các chuyến xe buýt có những ông tài xế lúc nào cũng có vẻ đang ngủ gật, những khu chung cư to lớn nằm ở ngoại ô, với mảnh đất trống trải dài trước căn hộ của gia đình mình. Ông nói với Barbet rằng ông là người con chính thống của thành phố Le Havre. Ông sẽ sống và chết tại Sanvic, một ngôi làng với nhà thờ và khu vườn. Tại ngôi làng đó ông có một căn hộ kiểu loft ông đã tự tay xây lại và là nơi ông thường xuyên cho Antoine tá túc mỗi khi anh phải ngủ ngoài đường.
Khi rời khỏi nhà Barbet, người tôi bồn chồn. Dự án của tôi đang bắt đầu hình thành rõ ràng trong tâm trí. Ngay khi tôi chưa xác định rõ tôi sẽ làm gì với nhân chứng đầu tiên này, và ngay khi tôi không nghĩ rằng sự hiện hữu của một nhà văn chỉ gói gọn trong những câu chuyện giai thoại về anh, Antoine Sorel dường như bớt xa vời đối với tôi hơn sau buổi chiều này và buổi tối ngồi nghe Barbet kể. Thực sự anh ấy không còn là một con người hư ảo đối với tôi, vì tôi bị thôi miên bởi chính bản sao của anh qua những cuốn tiểu thuyết. Anh chỉ nói về những điều làm anh cách xa người thân, anh không là một Alceste[40] với thái độ kiêu căng và cho mình cao hơn thiên hạ. Anh chỉ nói về cảm xúc khi là một sinh vật lạ trong thế giới loài người, khi anh không có vỏ bọc để có thể giúp anh tránh khỏi những cơn khủng hoảng nhận thức như bao người khác, khi anh không biết đến việc thiếu vắng trạng thái cảm xúc đó, hẳn nó sẽ giúp anh thoát khỏi những thời kì đen tối. Anh luôn chấp nhận nguy hiểm và đi xa hơn để khám phá những mảnh đất chưa được khai hoang, để rồi sự sáng tạo của anh làm anh mất thăng bằng và mang anh về bên kia thế giới. Đó là chuyến đi định mệnh. Anh đã bỏ lại tất cả những gì chúng ta theo đuổi. Khi còn trẻ, anh không luồn cúi để một người nổi tiếng trong giới văn học bảo bọc anh. Anh không xuất hiện khắp nơi. Anh chỉ làm việc khác thường. Anh viết những tác phẩm không theo quy luật và không hy vọng mọi người ca tụng. Trong truyện Hiệp cuối[41] một trong những nhân vật chính, một người bị ruồng bỏ yếu ớt cùng với những người có địa vị, nói rằng ông đang bơi ngược dòng, cách duy nhất theo ông để không đầu hàng, ông không nhân nhượng và chấp nhận cuộc sống của ông đi theo chiều hướng xấu. Nhưng ông không lo lắng thay đổi tầm ngắm, trong niềm hân hoan của một môn đồ của Diocèse, ông nhận ra rằng ông đã chạm vào đáy của xã hội. Có phải Sorel cũng đã rơi vào một vực thẳm không đáy? Và sách là sự cứu rỗi cuộc đời anh? Câu hỏi vẫn không có lời đáp.
Tôi tới trước cửa khách sạn thì điện thoại rung lên. Lupine gọi. Tôi không nghe máy. Cô ấy để lại lời nhắn, cô ấy tỏ ý tiếc vì tôi đã không trả lời mail cũng như tin nhắn của cô và tôi đã sớm quên hết mọi chuyện giữa hai chúng tôi. Điều tra về Sorel đã giúp tôi cười vào những thất bại trong tình yêu. Tôi không còn thù hận đối với Lupine, tôi cảm thấy việc Lupine chia tay và chọn sống với chồng cô ấy là điều gần như tự nhiên. Dấu gì tôi cũng sẽ không còn nặng lòng nếu cô ấy biến mất hoàn toàn. Cô ấy chẳng giúp được gì cho tôi nếu thi thoảng cô ấy lại xuất hiện như thế, và nhắc tôi nhớ cách đây vài tháng có lẽ tôi sẵn sàng hy sinh mọi thứ nếu cô ấy đồng ý bỏ gia đình đến sống với tôi. Khi đọc Sorel, tôi cảm thấy những đau khổ của một người tình bị phụ bạc như tôi chẳng có nghĩa lý gì. Những tác phẩm của anh đã chữa lành vết thương tự ái. Thật buồn cười khi mủi lòng trước những thất vọng tình cảm. Khi nhìn lại, tôi tự trách mình hành động như một đứa trẻ con giận dỗi khi không được chọn. Lupine đã không chọn tôi? Tôi cũng đã có với cô ấy những giây phút làm tôi sẽ nhớ mãi. Chia tay đã khiến tôi thâm nhập dễ dằng sự thâm thúy của Sorel. Nhưng không có nghĩa anh ấy chỉ gây ảnh hưởng lên những người chán đời. Bất kì độc giả nào đang tìm kiếm trong văn học một thứ tăng lực đều sẽ tìm thấy trong truyện của anh những dưỡng chất cho tri thức bản thân, với điều kiện phải thoát khỏi khuynh hướng bảo thù. Bất kì ai hiếu kì tìm kiếm những điều mới lạ sẽ tìm thấy trong những tác phẩm của anh một tố chất để kích thích nó, với điều kiện không sợ bị xáo trộn. Những người hèn nhát luôn sẵn sàng theo ý kiến chung không thể học được gì từ những lời đả kích của anh nhắm vào những người theo đuôi. Nhưng chỉ cần chúng ta có ý hướng không bao giờ hành động theo sự đồng thuận, khi thấm nhuần tư tưởng của anh, chúng ta sẽ giữ vững điều chúng ta đã chọn.
Văn chương của anh không dành cho những kẻ cẩn thận không sợ gì hơn ngoài việc bị loại bỏ khỏi cuộc chơi giữa những kẻ cầm đầu, cũng không dành cho những ai cam chịu không có ý chí thay đổi thế giới. Văn chương của anh chỉ phù hợp với những người không chịu khuất phục quyết tâm không từ bỏ tự do suy nghĩ, tôi vẫn chưa được nằm trong số những người như thế, nhưng từ nhiều năm chưa có một nhà văn đương thời nào lại cần thiết đối với tôi đến như thế: một số câu của anh tiếp tục theo đuổi tôi vào giấc ngủ, nhu một ngọn lửa lan tỏa và không để người đọc được bình yên, đôi khi kháng cự với những xáo trộn văn chương ban tặng. Một số trích dẫn, được làm đề từ cho những cuốn sách của anh, nhu những lời tuyên chiến với đám người thích hành động kiểu nửa vời. Anh phỉ báng những kẻ giả danh mang lòng vị tha ca bài ca kết đoàn cũ rích khi có lợi cho họ, những kẻ lừa đảo xem những chuyện làm phi pháp nhu việc ngoại giao và không ngừng leo lên các bậc thang cao nhất.
Tôi không chỉ hâm mộ anh, đối với tôi, anh là một nhà văn dẫn đường mở lối cho tôi. Nhờ vào những câu chữ của anh, tôi ngắm mình từ xa, tôi không còn là một khối đồng nhất, mà là một mảnh ghép nhiều màu sắc, tôi thấy được những khía cạnh chính tôi cũng không biết. Tôi biết mình có khuynh hướng nổi loạn, tôi khám phá ra tôi cũng có thiên hướng vứt bỏ những hình mẫu áp đặt và chọn tự làm theo ý mình. Sách của Sorel tố cáo những trò hề xã hội, và đối với chúng ta đã quen với việc tự lừa dối chính bản thân, chúng ta không thể chấp nhận, chúng ta cần phải chống lại điều đó: chúng ta sẽ không để bất kì ai cướp đi của chúng ta những gì chúng ta đã lấy được từ việc đấu tranh. Chúng ta đâ sắp xếp cho bản thân một cuộc sổng bình yên và ai gây xáo trộn là một tên thô lỗ.
Ngay khi tôi vẫn còn thiếu nhiều yếu tố để vẽ lên chân dung của Sorel-kẻ phá huỷ, những gì liên quan đến anh đều quan trọng, tôi lượm nhặt những thông tin có ích trong khả năng có thể, và tôi hy vọng nhờ Barbet tôi sẽ tìm được những nhân chứng khác. Có thể trong những năm cuối đời của anh, dù có một cuộc sống cô lập, liệu những tên nghiện rượu đã tiếp cận với anh vẫn còn nhớ về anh không? Cũng có thể có những phụ nữ biết anh rõ hơn Barbet. Những người phụ nữ sẽ mang lại cho tôi một cái nhìn khác về anh, họ sẽ thổ lộ cho tôi nghe những bí mật và không kết tội tôi đã tọc mạch cuộc đời riêng của một nhà văn chưa bao giờ nói nhiều về bản thân mình. Tôi không tìm cách nhận dạng những phụ nữ đã là nguồn cảm hứng của anh cho những trang viết chua chát về tình yêu. Thật sai lầm khi nghĩ rằng anh trả thù khi mỉa mai những phụ nữ anh đã từng yêu say đắm đến mất cả lí trí. Cũng thật sai lầm khi nghĩ rằng anh là một người nhà văn ẩn sĩ xa rời những thực tế tầm thường, cho rằng anh luôn ở vị trí cao không với tới đối với những người thực dụng, và tưởng rằng văn chương đối với anh chỉ là một phương tiện để quên đi việc anh không thể sống và yêu.
Hai em trai của anh có ủng hộ anh? Người bố có thay đổi thái độ bài xích đối với anh không? Những người phụ nữ đã sống chung với anh có hiểu con người của anh? Tôi càng đọc sách anh viết, tôi càng thấm thìa giọng chua cay của anh. Cho tới lúc này, trong những tác giả đương thời, đã có nhiều người có tầm ảnh hưởng lớn, nhưng ít có nhà văn nào đã làm tôi bị rối tung đến như thế. Sorel không bao giờ bị cám dỗ bởi cách viết bóng bẩy nhưng làm cho người đọc bị lung lay toàn thân, đến mức họ như bị ném xa ra khỏi những miền đất quen thuộc: những gì họ gắn bó bỗng không còn chắc chắn nữa. Sorel sinh ra từ hạt bụi nào để không phải là một người thích ru ngủ bằng những lời nói dối? Ngay từ những cuốn tiểu thuyết đầu tiên, anh đã cho thấy anh khác xa những người viết văn khác và anh là người rất ngoan cố chống lại việc gia nhập nhóm. Anh đi đến cùng những gì anh tin và anh quyết tâm đánh đổ những thành trì giả tạo và lừa lọc của con người. Tôi biết ơn anh đã làm tôi mở mắt. Điều đó đã làm tôi ý thức rõ về sự trống rỗng trong con người tôi, làm cho lí trí của tôi bị lung lay, nhưng tôi tự hứa sê không để bị dắt mũi nữa.
* * *
Tôi hẳn đã không tin khi ai đó nói với tôi rằng sau một tuần sống ở Le Havre tôi sẽ bắt đầu nhận ra bến cảng này cũng không phải là không có nét duyên dáng như những ngày đầu tới. Nó thực sự không có cá tính, và công trình xây dựng tàu điện tương lai mang lại cho nó cái dáng vẻ của một vật khổng lồ đang bị mổ xẻ. Nhưng tôi gần như bắt đầu yêu quý những con đường nơi đây và không còn những định kiến về nó. Vào cuối tháng Bảy này, các cơn mưa giông nhiều tới mức người dân bến cảng ru rú trong nhà. Trên đại lộ Foch vắng tanh không một bóng người, một nơi thỉnh thoảng rất náo nhiệt, nhất là khi thời tiết thuận lợi để cùng gia đình dạo chơi. Thành phố Le Havre có tất cả những đặc tính của một thành phố ngủ. Tôi tự hỏi tôi có thể làm gì với hai giờ trong lúc chờ đợi gặp người em trai út của Sorel, Jean Trần. Tôi ngồi lê lết một thời gian trong ba gian phòng của khách sạn Dubocage ở khu phố Bléville, khách sạn mang tên một nhà hàng hải đã khám phá ra đảo Passion[42] vào thế kỉ 18 nằm ở phía tây Mexico. Tài liệu duy nhất gây sự chú ý của tôi có liên quan đến một người tên Jules Durand, Tổng thư kí Liên đoàn thợ than thành phố Le Havre, được cho là người chịu trách nhiệm về cái chết của một người qua đường khi nổ ra cuộc ẩu đả trong lúc đình công năm 1910. Bị kết án tử hình, ông đã không bị hành quyết, nhưng ông rất đau buồn về thảm kịch đó, ông đã bị mất trí và vào ở trong nhà thương điên, nơi ông chỉ đi ra khỏi đó trong một chiếc quan tài. Câu chuyện đầy bi kịch này đã ám ảnh tôi cho đến khi tôi bước chầm chậm về phía quán cà phê L’Eau Tarie, một quán cà phê trên con phố đi bộ để gặp Jean Trần.
Ông ấy mang một cặp kính màu khói và mặc một chiếc áo sơ-mi Hawaii làm lộ rõ làn da rám nắng của ông. Ông vừa đi nghỉ hè một tuần ở đảo Baléares, ông chỉ tắm biển và ngủ. Ông thật sự cần điều đó, ông đã cho biết như thế. Năm năm vừa qua là thời kỳ đen đủi. Trước tiên, một cơn nghẽn mạch phổi đã giết chết mẹ ông. Sau đó vợ ông đã bỏ ông đi vì “cần có thời gian suy nghĩ”; cô ấy mong muốn có nhiều hơn những gì ông có thể mang lại, vì vợ ông đã được tuyển làm tùy viên thương mại và có khả năng nuôi hai con gái, một đứa một tuổi, một đứa ba tuổi, mà không cần sự giúp đỡ của ông. Cô ấy đã mang chúng đi theo và tìm thấy một căn hộ gần tòa án thành phố. Tiếp theo đó là cái chết của Claude ngay tại xưởng sửa xe của mình trong khi đang ăn nên làm ra. Cuối cùng, Antoine nhảy lầu sau khi viết nguệch ngoạc trên một tờ giấy rời những hướng dẫn cho việc mai táng anh và nội dung tin buồn để in trên báo. Khi Jean chỉ còn một mình, ông đã chuyển tới ở trong một căn hộ nhỏ ven biển, tưởng rằng khung cảnh biển từ ban công sẽ giúp ông cảm thấy khuây khỏa mỗi ngày, nhưng tiếng la ó của những con chim mòng biển và tiếng rít của gió vào đêm lại làm ông như muốn điên. Ông mơ xây cho mình một căn nhà dễ thương trong một khu phố giàu sang và nếu ông chinh phục lại vợ ông, bà sẽ chấp nhận quay trở về với hai đứa con. Thế là cả bốn thành viên sẽ sống một cuộc sống có thể giúp ông quên đi cái chết của hai người anh trai.
Jean có giọng trầm, ông ấy nghịch móc khóa của mình và nhâm nhi ly rượu pastis, ông không nhìn thẳng vào mắt tôi, ngay khi ông đã tháo mắt kiếng. Có lẽ ông sẽ không nhận lời nói chuyện với tôi nếu Barbet đã không ngừng gửi tin nhắn để buộc ông đi gặp người viết tiểu sử của anh trai mình (Barbet muốn tôi dâng hương quả cho người đã khuất). Có lẽ Jean xem tôi như một người soi mói nhiều chuyện cần phải lánh xa bằng mọi giá nếu như tôi đến với chiếc máy thu âm. Nên tôi chỉ còn cách cố nhớ những gì ông ấy kể. Phải một lúc sau ông mới tâm sự thẳng thắn với tôi về Sorel. Trước tiên ông ấy hỏi tôi vì sao tôi muốn có thông tin về Antoine, những gì trong giới văn chương người ta nghĩ về hành động túng quẫn của anh, liệu sau khi anh mất, anh có được nổi tiếng (điều này sẽ tạo một ấn tượng tốt với bố anh vì ông luôn nghĩ anh là một đứa vô công rồi nghề). Ở nhà, Jean có nhiều thùng giấy đầy những trang sách viết tay mà anh trai của ông đã để lại nhờ cất dùm. Ông tin rằng cần phải giữ gìn chúng cẩn thận. Ông cũng giữ lại những bản viết nháp mà Antoine đã vứt bỏ. Ông đã nghe nói một mảnh giấy nhỏ của một nhà văn có thể được di tặng cho các thư viện. Ông tự xem mình là người thừa hành di chúc của Sorel và ông sẽ làm tất cả để các tác phẩm của anh, lúc sinh thời ít người biết đến, sẽ không rơi vào lãng quên. Jean lo lắng cho số phận của chúng, khi giờ đây chủ nhân của chúng đã không còn ở đây để bảo vệ. Có đúng anh đã bảo vệ chúng khi cơ hội đến? Anh ít khi chấp nhận tham gia các lễ hội văn học hoặc kí tặng trong các tiệm sách. Trong những lần được phỏng vấn trên đài phát thanh, anh chế giễu chính mình đến mức những người nghe đài không chịu nổi kiểu hài hước đó đã cười nhạo vào mũi anh và không chạy đi mua sách, những người khác họ đổi đài nghe, hẳn đã chán việc anh tự bài xích chính bản thân mình. Jean thấy tiếc nuối mỗi khi lên Paris ông thấy sách của Sorel bị giảm giá trên các quầy sách cũ. Người ta có thể mua cả lố với giá rẻ mạt.
Antoine là anh cả, nhưng anh không mấy khôn