← Quay lại trang sách

I. ALEXANDRE DE RHODES

Cố Alexandre de Rhodes (1591 - 1660) tới Trung kỳ năm 1624. Tháng Ba năm 1627 được cử ra lập giáo đoàn tại Bắc kỳ; tháng Năm năm 1630 thì bị chúa Trịnh Tráng đuổi ra khỏi xứ Bắc. Cố quay về Trung kỳ rồi sang Áo Môn (Ma Cao bên Tàu), đầu tháng Hai năm 1639 lại trở về Trung kỳ. Nhưng mấy năm sau chúa Nguyễn, Công Thượng vương [1] , cấm đạo, cố bị bắt và bị kết án tử hình, nhưng không bị chém chỉ bị trục xuất ra khỏi xứ (tháng Bảy năm 1645). Quyển Histoire du Royaume de Tunquin trích dịch sau đây xuất bản năm 1651 tại Lyon (Pháp) bằng tiếng Pháp.

Lễ tịch điền về đời Lê [2]

Nội các tục được dân thành tâm theo ở Bắc có một tục chính là tục hàng năm vào hồi đầu xuân thì theo để khai đất và để khởi đầu việc cày bừa một cách long trọng. Cứ đầu năm, tức là vào khoảng giữa hai tiết đông chí và xuân phân - theo như lối ta tính thì vào tuần trăng non vào gần ngày mồng năm tháng Hai dương lịch nhất, đến ngày các nhà toán số đã chọn, thường thường vào mồng ba Tết, thì mọi người có chức vụ, hay tước vị trong nghề võ hay văn, đều phải mặc lễ phục, đeo ấn thụ vào cung để hộ tống vua ngự giá qua kinh thành ra tới vùng nhà quê, theo nghi tiết tôi sẽ tả theo đây.

Quân lính gọi ở khắp trong nước về, dân đi trước có thứ tự và rất đông, vì họ đến mấy nghìn người, người nào cũng đeo khí giới của đội mình, người thì cung tên, người thì thương, giáo hay súng. Theo sau là các tướng và tất cả những người quý phái, tùy theo chức phận, một phần cưỡi ngựa, một phần cưỡi voi; ngựa và voi có tới hơn ba trăm con, đều đóng yên phủ bành sang trọng, đã dạy dỗ thuần thục.

Đại tướng thống lĩnh quân đội và là phó vương cầm quyền trị nước, hiệu là chúa Thanh Đô vương [3] đi sau cùng bọn quý tộc, ngồi trên một chiếc xe thấp thếp vàng, theo sau có một con voi đóng bành lộng lẫy có người dắt, khi nào chúa thích thì lại cưỡi và điều khiển đủ mọi lối khiến cho dân chúng vui thích ngắm nhìn tỏ vẻ kính cẩn và thán phục.

Đi bộ theo sau là một số đông vô kể, những ông nghè, ông cử, ông tú mặc áo dải lụa hay gấm vóc màu tím thâm, mỗi người có thẻ bài chỉ rõ chức vụ và phẩm trật của mình,

Sau cùng đến đức vua, ngồi trên một chiếc kiệu chói lọi phủ một tấm rèm quý giá thêu kim tuyến và màu xanh, màu ấy là màu riêng vua mới được dùng.

Theo hàng thứ và nghi trượng như thế, đức vua ra khỏi hoàng cung vẫn gọi là Đền, chu vi rộng bằng một tỉnh lớn, rồi qua những phố chính kinh thành, thường gọi là Kẻ Chợ, mà chảy đến một nơi đồng rộng cách kinh thành chừng gần một dặm; ở đó các quan đi hộ giá đến từ trước và dân chúng đã đợi sẵn để đón vua. Đến nơi đức vua xuống kiệu và sau khi đã khấn nguyện và rót rượu tế trời. Ngài thân cầm lấy cán một chiếc cày có vẽ màu và chạm trổ rất đẹp, cày đất vài phút và mở một luống trong cánh đồng, để dạy cho dân chúng biết rằng từ đây phải làm lụng, bỏ sự an nhàn và chăm nom đồng áng.

Đức vua cày xong rồi, thì chúa Trịnh là người quản trị nước có thế lực rất lớn và có uy quyền trên hết cả thần dân, tiến đến gần, vái vua, mình cúi rạp xuống tận đất. Rồi các hoàng thân, các võ tướng và các quan cũng làm như vậy; sau cùng thì đến lính và cả quần dân quỳ xuống mà tung hô vua.

Hàng năm về đầu xuân, đó là sự tôn kính, sự báo ơn long trọng nhất của thần dân đối với vua.

(Chương III, trang 11 -13)

Đất kinh kỳ về đầu thế kỷ XVII

Điều làm cho vua xứ Bắc có thế lực khiến các vua lân cận khiếp sợ, là số dân đông vô kể ở bảy trấn dưới quyền vua cai trị, cứ xem số người thường ở Kẻ Chợ là nơi vua lập triều đình thì đủ biết. Tuy rằng kinh kỳ dài hơn sáu nghìn bộ [4] , ngang cũng chừng bấy nhiêu, phố xá rộng rãi, mười hay mười hai cỗ ngựa có thể ung dung đi ngang nhau được, thế mà mỗi tháng hai kỳ - vào rằm, mồng một là ngày dân nghỉ lễ - ta thấy trong tỉnh đông người qua lại khắp mọi phố đến nỗi đi ngả nào cũng thấy vướng. Thành thử người nào cũng bị xô đẩy, bị cản, bắt buộc mất nhiều thì giờ mà chả đi được mấy bước đường.

Do đấy và căn cứ vào vài điều phỏng đoán khác, người ta thường ước dân số kinh kỳ được một triệu người. Không kể những điều khác, lại còn một điều này làm cho ta thấy số dân rất đông sống ở đây.

Người Bắc có tục ăn trầu là thứ có lợi cho sức khỏe và có vị ngon, bao giờ họ cũng giắt theo vào thắt lưng một giỏ con hay một bao đầy trầu cau, ra đường gặp bạn bè thì mở ra, rồi sau khi đã chào nhau rất lễ phép, mọi người nhận lấy một miếng trầu têm sẵn của người kia mà ăn. Vì thế trong tỉnh kẻ nào hơi khá giả thì sai đầy tớ sửa sắm thứ quà nhỏ ấy, đem biếu lẫn nhau để tỏ tình thân mật; nhưng còn thường dân vẫn ăn trầu mà không có kẻ hầu têm sẵn ở nhà, thì đã có tới năm vạn hàng bán trầu lẻ rải rác khắp kinh thành. Vậy có thể kết luận rằng số người mua đông không thể tính xuể được.

(Chương VII, trang 25 - 27)

Nhân dân và thuế má

... Trừ những người được nhà vua miễn sưu còn thi trai tráng từ mười chín đến sáu mươi tuổi đều phải đóng thuế. Chỉ có khác là dân ba tỉnh vẫn trung thành với nhà vua và xưa không theo giặc, thì đóng một số tiền đem đổi sang tiền ta vào độ hai đồng, mỗi đồng ăn sáu mươi xu (deux escus de soixante sols pièce); còn dân bốn tỉnh đã bỏ vua theo giặc thì mỗi người phải đóng nhiều gấp bốn, ấy là không kể mấy thứ thuế vua đặt ra để trừng phạt sự phiến loạn của họ. Ngoài thứ thuế thân này là thứ bọn phu thu nhẫn tâm bắt nộp không trừ một li, không phân biệt kẻ nghèo, người giàu, người có của hay kẻ chỉ làm lụng để độ thần [5] , còn một thứ thuế nữa nhẹ hơn, đánh theo thổ sản, có tính cách một tặng vật do dân tự ý đem cống hiến nhà vua hơn là một thứ thuế thật, tuy rằng đến vụ thu, mỗi năm ba bốn lần, chả một ai dám tránh. Vụ thứ nhất thu vào cuối năm hay đâu năm như biếu Tết. Vụ thứ hai vào khi vua làm lễ “Vạn thọ” (sinh nhật), Vụ thứ ba vào ngày húy (giỗ) tiên vương. Vụ thứ tư vào hồi có gạo quả mới. Vì các vật cung tiến này không thu ngặt như thuế thân nên dân mỗi tỉnh, mỗi làng góp của nhau vào chung, rồi cử người xứng đáng nhất thay mặt đem tiến vua.

Hầu khắp những tỉnh, những xả trong nước - nhiều không sao kể xiết được - nộp thuế thẳng cho vua hay cho người thay mặt vua đứng ra thu, nhưng cũng có nhiều nơi nộp cho các vương hầu tướng tá và binh lính hay cho những người vua xét ra đáng thưởng và đã cấp cho vài nơi để hưởng thuế lợi, hoặc là để khen tài đức họ, thưởng công họ, hoặc là để lập thái ấp lúc họ mới sinh hoặc là để cấp dụng vào chức vụ đã giao cho họ, hoặc để ban thưởng việc gì khác: theo lệ trong nước thì quyền lợi vua đã ban cho một người, con cái hay kẻ thừa kế không được thưởng nếu nhà vua không bằng lòng cho lại. Mà ngay khi người ấy còn sống, vua cũng còn quyền thu lại của đã ban cho, như thỉnh thoảng ta đã thấy; tuy nhiên, chỉ khi nào để trừng phạt một tội lỗi gì nặng thì vua mới dùng tới cách nghiêm ngặt ấy.

(Chương VIII, trang 28 - 30)

Quân lính và tướng tá

Đức vua đã ban thành thị cho các tướng tá để đền công về những nỗi vất vả của họ, thì ngài cũng cấp vài nơi cho những lính xuất sắc để họ có lương ăn và để thưởng lòng anh dũng của họ: có khác là ngài thường cấp nhiều nơi cho một viên tướng mà chỉ cấp một nơi cho nhiều tên lính; thành thử một thị trấn không to tát gì nhiều khi cũng nuôi đủ binh lính cả một chiếc chiến thuyền; ở nơi đã cấp cho mình, bọn lính có quyền thu thuế dân vẫn nộp cho nhà vua.

Còn như đối với hạng lính không được trọng đãi như thế thì thường thường, các tướng thay mặt vua trả lương cho họ; một phần cũng vì những khoản chi phí ấy và để nuôi một số lính, nên vua mới cấp cho những viên tướng nhiều thị trấn để lấy thuế. Bởi vậy nên khi không có chiến tranh hay không phải luyện tập, lính ăn lương của tướng hoàn toàn để tướng sai khiến bắt hầu hạ mình làm công việc phu phen hay làm mọi việc công ích, như đóng thuyền, hàn thuyền, xây sửa cầu cống và những việc tương tự như thế, thành thử chả lúc nào họ nhàn rỗi và không có việc làm.

Những tướng tá lưu trú ở kinh sáng nào cũng phải vào hầu vua và dự vào buổi chầu ngài thiết ở cung để cho dân chúng có nguyện vọng gì thì dâng lên; khi đi chầu tướng nào cũng có một ít bộ hạ đi dàn trước, có thứ tự, có khí giới và mặc áo choàng màu tím thẫm; khi về, lính lại hộ vệ đến tận nhà. Được phục dịch tướng như thế là một việc vinh dự, quân cắt phiên nhau mà làm.

Khi vua ra ngoài điện hoặc để dạo chơi về thừa lâu [6] tại vùng thôn quê, hoặc để thử chiến thuyền mới sai đóng, hoặc để xem quân lính mỗi tháng hai kỳ tập bắn hay đánh vật, vì các tướng có mặt tại triều đi tùy giá, nên quân lính bao giờ cũng dự rất đông, bảnh bao trong những bộ áo hiệu như họ thường mặc để đi dàn trước long giá khiến cho nghi trượng có vẻ lộng lẫy.

Mỗi khi vua ngự về vùng thôn quê như kể trên đây, không những chỉ có toán bộ binh uy phong này đi trước hộ giá mà thôi, lại còn có cả một đội kỵ mã đã chọn lọc và hơn một trăm cỗ tượng mình phủ gấm vóc trên có các vương phi, công chúa và bọn nữ tỳ ngồi thảnh thơi trong những chiếc bành thấp đóng chắc vào lưng voi, voi khỏe có thể mang tới sáu người trong bành, ấy là chưa kể tên quản tượng cưỡi trên cổ.

Vì thế khi vua ra chứng kiến những cuộc tập binh hay đánh vật, quân lính được khuyến lệ vô cùng vì ngoài đức vua họ còn có số khán giả mỹ lệ, cao quý kia để tán thưởng sự khéo léo và giỏi giang của họ.

Về việc đánh vật có điều này tôi không thể bỏ qua được: bên nào đã bị bên địch nhanh tay hay lấy sức đánh ngã xuống đất cũng chưa kể là thua, tuy bụng hay sườn đã chạm xuống đất, có bị vật ngã ngửa vai sát đất thì mới thua hẳn.

(Chương IX, trang 31 -33)

Lễ tuyên thệ của binh lính

Tôi không thấy có gì đáng khen và lạ bằng sự quân lính xứ Bắc đông như thế, đặt dưới quyền lắm tướng như thế, hay hội họp canh gác, xếp hàng ngũ hoặc ở điện nhà vua hoặc ở vùng thôn quê luôn như thế, mà cả giữa những bữa khao, nhà vua và các tướng ban cho họ vui cũng không bao giờ ai thấy họ cãi nhau, nói khích nhau, chửi bới khinh miệt nhau mà cũng không bao giờ ai nghe thấy nói đến sự họ đâm chém nhau.

... Tuy ta có thể cho sự điềm đạm ấy là do ở bản tính họ vốn lành, nhưng cũng phải nhận là một phần lớn do ở sự họ tôn kính và sùng bái vua và tướng. Họ gọi vua là thiên tử và sùng bái vua như một đấng thiêng liêng tự trên trời xuống để cai trị họ, vì thế trước mặt ngài, không bao giờ họ làm gì khiến ngài thất ý hay phải tức giận. Sự sùng bái ấy là căn bản cái tục họ theo hàng năm như sau đây.

Vào quãng tháng Sáu nguyệt lịch [7] thường thường vào tháng Tám của ta [8] vua ban một đạo dụ truyền cho quân tướng đúng ngày đến tuyên thệ tỏ lòng trung thành với vua... Ở các công trường, ở các ngả đường chính trong kinh thành người ta thiết lập những hương án bầy biện trang hoàng vẫn để thờ thần: Ở chính giữa hương án, đã biên lời thề bằng chữ to, họ đứng dưới chân hương án cũng nom rõ; hứa sẽ trung với vua và nếu sai lời thì phải trăm nghìn thứ tai nạn... Muốn tránh sự hỗn độn vì lính đến thề rất nhiều và lễ tuyên thệ nội trong một ngày xong, người ta đặt rất nhiều hương án, mỗi hương án dành riêng cho mấy tướng và mấy đội lính, có một quan văn được cử ra thay vua để làm chủ lễ và để sau khi đã tuyên thệ rồi thì phát cho mỗi tên lính một mảnh giấy chứng nhận rằng họ đã thề và đã được nhận vào làm lính nhà vua. Tướng từng đội lên trước, long trọng thề giữ trung với nhà vua, rồi lần lượt đến quân lính, viên chủ lễ phát cho mỗi tên một mảnh giấy biên chữ khác nhau, tùy theo giọng nói lúc tên ấy tuyên thệ.

Ai nói tiếng to, rõ ràng, quả quyết thì được chữ minh nghĩa là “rõ” Ai nói nhỏ, giọng đục phải chữ bất minh nghĩa “không rõ”. Còn lại nói giọng vừa phải thì được chữ thuận nghĩa là “thường” Những mảnh giấy ấy không phải là vô giá đâu: vì mỗi người lính, đợi lễ tất, đem giấy về cho chủ tướng. (Ông nào thề xong về ngay) thì được chủ tướng phát cho một chiếc áo vua ban. Ai có chữ minh thì được hạng áo tốt và dài; ai có chữ thuận thì được áo ngắn hơn bằng vải thường; ai phải chữ bất minh thi áo vải xấu và ngắn nữa. Thành ra suốt một năm, người ta trông áo mà biết được người lính nào trung nghĩa, tận tâm và được yêu quý trong hàng ngũ của nhà vua,

(Chương X, trang 34 - 36j

Nền thương mại của xứ Đàng Ngoài ở đầu thế kỷ thứ XVII

Người xứ Bắc, gần như không thông thương gì với nước ngoài vì ba lẽ chính.

Lẽ thứ nhất vì họ không biết dùng địa bàn, không thạo nghề hàng hải; không bao giờ dám ra xa bờ hay núi quá tầm mắt, Lẽ thứ hai thuyền họ không bền được với sóng, bão, ván thuyền không đóng đinh, không có chốt mà chỉ có đai buộc, mỗi năm là phải thay một lần. Lẽ thứ ba là vua không cho dân ra nước ngoài, sợ rồi quen ở lại buôn bán làm thiệt mất thuế của vua. Nhưng hàng năm, ngài cũng phái vài chiếc thuyền buôn sang Cao Man, Xiêm La vì hai xứ này không xa Đàng Ngoài là mấy và thuyền buôn cứ theo ven bờ mà đi không phải ra khơi.

- Tuy nhiên không ra khỏi nước Nam, nước này gồm có Đàng Ngoài và Đàng Trong, bọn lái buôn bản xứ nhờ có thương cảng tiện lợi và nhiều nên buôn bán cũng lớn và lợi lãi hàng năm gấp hai, gấp ba vốn mà không phải chịu những sự bất trắc thường gặp trên mặt bể. Thật vậy, ở dọc bờ bể nước Nam dài hơn ba trăm năm mươi dặm tây, ta đếm được hơn năm mươi thương cảng, có nhiều sông con dồn nước về, và có thể chứa được mười, mười hai chiếc tàu lớn, thành ra ai đi lại trên mặt bể, đêm đêm có thể rút vào đậu trong các bến này không phải bỏ neo ở ngoài khơi và tránh được những tai nạn không hiếm gì trên mặt biển.

Về các khách thương ngoại quốc thật ra thì từ hồi nào người Nhật Bản, người Trung Hoa vẫn vào các bến nước Nam, mua lụa và gỗ trầm hương.

Người Trung Hoa bây giờ vẫn còn buôn bán, và đem sang những đồ sứ, vải, và nhiều thứ hàng giải trí và xa xỉ. Người Nhật Bản trước kia đem nhiều tiền đến để mua lụa, và đem nhiều thứ kiếm và các khí giới khác đến bán, đã hai mươi nhăm năm nay không lai vãng nữa, vì được tin rằng tuy đã có lệnh cấm đạo Gia-tô ở Nhật Bản từ năm 1614, trong gần 10 năm trời người Nhật theo đạo mỗi năm vào mùa... [9] và ba bốn lần vào các dịp khác, vẫn lấy cớ là đi buôn rồi dùng hàng ba bốn chiếc tàu sang nước (... ) [10]