← Quay lại trang sách

II. CRISTOFORO BORRI

Cố Cristoforo Borri (1585 - 1632) là một cố đạo người Ý sang Trung kỳ vào khoảng 1618 - 1621 (?); đến 1623 thì qua Goa [11] về Âu châu.

Quyển Relatione della nuova missione delli P.P. della Compagnia di Giesu al Regno della Cocincina, xuất bản ở Rome bằng tiếng Ý năm 1631 là quyển sách in đầu tiên của Âu châu nói về Trung kỳ. Sách có dịch ra tiếng Pháp (bản của cố Antoine de la Croix in ở Lille năm 1631), tiếng Hòa Lan, La Tinh, Đức, Anh. Tạp chí Revue Indochinoise, năm 1908, có đem đăng lại bản dịch của cố Antoine de la Croix (chúng tôi cũng dịch đăng theo bản này).

Sách có hai phần. Phần trên nói về vị trí, khí hậu, thổ sản, tài nguyên, chính trị, thương mại của xứ Trung kỳ; dưới nói về việc truyền giáo.

Xin nhắc lại là chúng tôi chỉ mới trích dịch [12] chưa phê bình chọn lọc.

Tính tình người Trung kỳ

Người Trung kỳ không khác người Trung Hoa về màu da mặt, và người nào cũng sắc xanh nhạt, đây là nói những người ở gần bể, bởi vì những người ở tận trong đất liền cho tới đất xứ Bắc kỳ cũng trắng như người Âu châu.

Ngoài nét mặt, họ còn giống người Trung Hoa vì mũi tẹt, mắt nhỏ; về vóc người thì họ tầm thước: tôi muốn nói là họ không nhỏ bé như người Nhật Bản mà cũng không cao như người Trung Hoa. Nhưng về sức lực và dáng người thì họ vượt trên người Trung Hoa và người Nhật Bản; về can đảm và tài năng, họ đứng trước người Trung Hoa, nhưng người Nhật Bản hơn họ về một chỗ là khinh sự sống trong những lúc gian nguy và chiến trận, vì không kể gì đến thân mình, người Nhật không sợ chết bất cứ bằng cách nào.

Người Trung kỳ hiền lành và có lễ độ trong lúc nói chuyện hơn các dân tộc khác ở Đông phương và họ coi sự giận dữ là một điều ô nhục tuy họ rất tự cao. Các dân tộc Đông phương coi người Âu châu như những quân phàm tục và tự nhiên kinh sợ ta đến nỗi khi thuyền ta ghé vào đất họ, họ trốn tránh cả. Ở Trung kỳ thì trái hẳn lại: Dân Trung kỳ tranh nhau đến gần ta, hỏi ta hàng nghìn câu, mời ta ăn với họ; nói tóm lại, đối với ta, họ dùng đủ mọi điều lịch sự, nhã nhặn, thân mật. Tôi và các bạn đồng hành đã thấy như thế khi chúng tôi mới vào xứ này lần đầu và người ta có thể nói là chúng tôi đến giữa các bạn rất thân, biết nhau đã từ lâu...

Vì bản tính họ rộng rãi và phong tục dễ dàng nên họ ở với nhau rất có hòa khí, cư xử với nhau ngay thực và chân thành như anh em ruột cùng sống, cùng ở trong một nhà tuy họ chưa gặp nhau và biết nhau bao giờ. Và họ coi là một người đê hèn, nếu kẻ nào giữ lấy ăn một mình một thức gì dù bé nhỏ vụn vặt đến đâu mà không đem chia cho kẻ khác mỗi người một phần. Họ có thảo tầm hay bố thí cho kẻ nghèo, chẳng bao giờ từ chối làm phúc cho ăn mày vì họ coi như đã thiếu bổn phận nếu họ không cho, và lẽ công bằng bắt buộc họ phải giúp đỡ.

Bởi thế nên một lần có mấy người ngoại quốc bị đắm tầu bơi được vào một thương cảng Trung kỳ, không biết thổ ngữ để có thể hỏi xin những thức cần dùng, chỉ phải học có mỗi một tiếng: Doii, nghĩa là tôi đói. Bởi vì khi nghe thấy mấy người ngoại quốc than như thế và đi qua cửa nhà họ kêu đói, thì người Trung kỳ đua nhau ra ngõ, tỏ vẻ ái ngại và cho mấy người đó ăn...

Nhưng người Trung kỳ rộng rãi và sẵn lòng cho nhanh bao nhiêu thì khi ngó thấy cái gì là lạ và hiếm, lập tức họ ham muốn và nói ngay: Scin mocaii (nghĩa là cho tôi xin một vật kia). Và họ coi là một điều đại bất nhã nếu ta từ chối, không cho họ một vật, dù hiếm, dù có giá, dù ta chỉ có một bản; kẻ từ chối là một thằng bủn xỉn. Nên khi cần chỉ có thể: một là đem giấu vật mình muốn giữ lại, hai là sẵn sàng cho kẻ đã hỏi xin.

Một khách thương Bồ Đào Nha ý chừng không thích cách hành động lạ lùng ấy - mấy người thích cho được - và ngày nào cũng bị bực mình phải cho những vật đẹp mà họ thấy anh ta cầm tay, một hôm có ý kiến là anh ta cũng xử sự như họ. Định tâm thế, anh ta đến gần thuyền một chú chài nghèo khổ, để tay lên một sọt đầy cá, nói theo tiếng bản xứ Scin mocaii (cho tôi cái này); chú chài chẳng nói chẳng rằng cho luôn anh ta cả sọt cá. Anh Bồ Đào Nha đem sọt cá về, không khỏi ngạc nhiên và lạ lùng về tính hào phóng của người Trung kỳ. Thật ra thì sau này ái ngại cho chú chài, anh ta có đem trả đúng số tiền chỗ cá ấy.

Những tiếng dùng để nói chuyện, thường dùng trong cuộc xã giao hay dùng trong các lễ nghi cũng tựa như người Trung Hoa. Kẻ dưới rất kính cẩn với người trên; người ngang hàng đối với nhau rất tương kính đúng mực, chúc tụng khen ngợi nhau cũng tỉ mỉ như người Trung Hoa. Họ tôn trọng đặc biệt các bậc lão thành: trong bất cứ việc gì, ở giai cấp nào, trong trường hợp nào, họ cũng nhường người hơn tuổi và để tuổi già được ưu đẳng đối với hạng thiếu niên. Vì thế có mấy ông quan, tuy đã đến thăm chúng tôi nhiều lần ở nhà chúng tôi và đã được viên thông ngôn báo cho biết rằng có ông Cụ Đạo nhiều tuổi hơn chúng tôi nhưng không phải là bề trên chúng tôi, mấy vị quan ấy vẫn không khỏi đến chào ông Cụ Đạo trước, rồi mới chào vị bề trên ít tuổi hơn. Trong các nhà của người Trung kỳ ngồi chơi có ba cách. Cách thứ nhất, thường nhất, ở trên chiếc chiếu trải trên nền đất để tiếp những người cùng bằng vai. Cách thứ hai ở trên những dây hay chạc căng thẳng [13] , trên trải chiếu mảnh hơn, mềm hơn thứ trên kia, để tiếp những khách sang hơn. Cách thứ ba ở trên một chiếc “lều” [14] cao so với mặt đất chừng hai “thước” rưỡi (2 pieds... [15] demi: 0m48) giống như cái giường, để tiếp riêng các quan lớn, các vị chủ tể trong vùng hay là các người trông coi việc tế lễ (các cố của ta vẫn được họ mời lên ngồi đấy). Đã nhã nhặn và vui tính như thế, người Trung kỳ biết trọng người ngoại quốc, để mặc cho những người vùng này sống theo lệ luật của họ, ăn vận theo ý muốn của họ. Thí dụ họ khen ngợi cách làm việc của ta, ca tụng tôn giáo của ta mà họ tự ý cho là hơn tôn giáo của họ; khác hẳn với người Trung Hoa chỉ khoe khoang xứ sở, cách làm việc và tôn giáo của mình thôi.

Y phục của người Trung kỳ

Về y phục, tôi đã nói rằng tơ lụa rất thông dụng ở Trung kỳ và tất cả mọi người đều mặc thứ hàng ấy. Chỉ còn phải nói cách họ ăn mặc ra sao.

Bắt đầu từ đàn bà thì tôi phải thú rằng tôi vẫn cho áo họ là giản tiện nhất trong vùng Ấn Độ và họ không chịu để hở một phần thân thể nào cả, trong những dạo oi nực nhất cũng vậy. Họ mặc năm sáu thứ vải mỏng, màu khác nhau, cái nọ phủ lên cái kia. Cái thứ nhất dài sát đất và họ kéo lê một cách trang trọng, đoan chính và uy nghiêm đến nỗi ta không thấy đầu bàn chân của họ. Rồi đến cái thứ hai, ngắn hơn cái thứ nhất bốn năm ngón tay; cái thứ ba ngắn hơn cái thứ hai, và cứ tiếp tục thế, cái sau phải cân xứng với cái trước. Thành ra các màu đều thấy rõ, tuy khác nhau. Ấy là thứ y phục mà đàn bà mặc từ thắt lưng xuống dưới còn thân trên thì họ phủ bằng mấy thứ... (?) (Car pour le corps ells le couvrent de certains corps de côte), giống như bàn cờ, màu sắc khác nhau; trên lại choàng một cái khăn quàng rất nhẹ mỏng trông qua còn rõ các màu sặc sỡ kia, hàm ý một xuân sắc đẹp vui, kiều diễm nhưng vẫn trang trọng và khiêm nhường.

Đàn bà để tóc xõa và tỏa lên vai, mọc dài có khi chạm đất; vì tóc càng dài, lại càng được coi là đẹp. Đầu đội nón vành to che lấp cả mặt đi, làm người đàn bà không nhìn quá ba bốn bước ra đằng trước. Những nón ấy, tùy theo địa vị của người đội, còn thêu lụa hay vàng. Sự lễ phép bắt buộc người đàn bà, khi gặp ai mà muốn chào, chỉ phải đỡ cao nón lên để người ta thấy mặt.

Đàn ông không có quần cụt và quấn cả một tấm vải, trên lại mặc thêm năm sáu cái áo (dây lưng?) dài và rộng, bằng lụa mỏng và nhiều màu, có tay to và rộng như tay áo của các cha dòng Saint Benoit; những áo này từ thắt lưng xuống đều rách và cắt vòng theo nhiều chấm lốm đốm. Thành ra khi đi chơi phố phường, họ đem khoe hết cả các màu sắc hỗn tạp ấy; giá có ngọn gió nhẹ thổi vào làm mớ áo ấy bốc lên và bay tỏa ra, thì người ta có thể nói họ là những con công đang xòe đuôi và phô trương hết các màu lông của chúng.

Đàn ông cũng nuôi tóc dài, chấm gót như đàn bà và cũng có nón. Ít người có râu, nhưng ai có thì không cắt đi bao giờ, y như người Trung Hoa cũng như họ nuôi móng tay dài; những nhà quyền quý không cắt móng tay bao giờ, giữ móng tay để tỏ ra rằng họ cao quý và để phân biệt với bọn cùng dân và các thợ thuyền không thể để móng tay dài vì vướng trong khi làm lụng...

Các văn nhân và các văn quan án mặc đứng đắn, ít lòe loẹt; trên các áo dài khác họ mặc một tấm áo dài bằng vải Damas đen; họ lại còn có một thứ khăn tế (étolle) đeo ở cổ, một thứ khăn tế bằng lụa xanh da trời khoác ở tay; (manipule) họ có chiếc mũ giống như mũ tế của các giám mục.

Cả đàn ông lẫn đàn bà tay cầm quạt, giống như quạt Âu châu, cầm để cho có vẻ hơn là vì lẽ gì khác. Trái với người Âu châu ta có tang thì bận đồ đen, họ lại bận đồ trắng. Chào ai, họ không để ý lộ đầu vì họ cho thế là vô phép và họ đồng ý với người Trung Hoa, coi sự để đầu trần không hợp với người có danh giá và rất bất kính nên muốn chiều tính họ, các cố dòng ta đã xin được phép Đức thánh Giáo hoàng Paul V của chúng ta khi làm lễ Misa ở các xứ này vẫn được đội mũ.

Sau hết, người Trung kỳ không có quần nịt, không có giầy; muốn cho gan bàn chân khỏi bị thương tổn bất quá họ chỉ dùng một miếng đế giầy bằng da, có mấy cái khuy hay mấy cái dải lụa giữ lại và buộc lên trên chân, thay cho dép, vì họ không nghĩ rằng đi chân không là trái lễ nữa (như để đầu trần). Dù đi giầy hay đi chân đất, họ cũng không ngại giá [16] chân vô ý hay cố ý vấy bùn, vì trong mỗi nhà ở bực cửa đã có sẵn một bể nước sạch để rửa chân; còn ai có dép thì khi vào nhà, bỏ ở cửa - khi ra mới lấy lại - vì trong nhà, nền đã trải chiếu rồi không còn lo bẩn chân nữa.

Đã biết rõ rằng người Trung kỳ không cố chấp về hành vi của mình mà đến phải như người Trung Hoa thì khinh miệt hành vi của người ngoại quốc, nên các giáo sĩ của ta ở các xứ này không phải lo đổi kiểu áo; áo này cũng giống kiểu áo chung cho toàn cõi Ấn Độ, các vị ấy mặc một áo tu bằng những bông mỏng, kêu là Ehingon, thường thường màu xanh da trời, đi ra chỗ đông không mặc áo dài nào khác và không có áo quàng.

Tuy vậy họ không đi giầy, kiểu Âu châu và kiểu bản xứ; vì thứ trên thì không thể có được, ở đây không ai biết làm; còn kiểu dưới thì họ không dùng được vì rất bất tiện cho những người không dùng quen, làm chân đau đớn tại các khuy làm dép hẹp lại nhưng lại làm choãi những ngón chân ra, ngón nọ cách ngón kia xa quá. Nến họ thích đi chân không, lúc đầu bị đau chân luôn luôn vừa tại đất ẩm thấp, vừa tại chưa quen. Thật ra ít lâu tự nhiên cũng quen đi và chân cứng làm cho người ta không thấy khó gì cả, dù có phải đi trên những đường đầy đá hay giẫm lên gai góc nữa. Riêng tôi, tôi đi quen nên khi trở về Ma Cao, tôi phải khó nhọc mới đi được giầy lúc bấy giờ sao mà nặng và bận chân tôi thế.

(Relation de la nouvelle Mission

des Pères de la Compagnie de Jésus

au Royaume de la Cochinchine,

chương V, trang 44 - 56)

Thực phẩm của người Trung kỳ

Đồ ăn thường của người Trung kỳ là cơm; mà kể ra cũng là một sự lạ là xứ này sẵn mọi thứ thịt, cá, gia cầm, hoa quả như thế, mà thức ăn chính của dân lại là gạo, ăn ngay từ đầu bữa, rồi sau mới gắp và nếm tới các thịt thà khác, như để cho đúng lệ. Bánh mì đối với ta quan hệ mật thiết thế nào, thì gạo đối với họ cũng vậy, họ không thêm nước chấm hay chế biến khác đi, sợ rằng cho thêm bơ, muối, dầu hay đường vào thì ăn mãi sẽ ngấy. Họ đem gạo đổ vào nước thổi chín lên, nước đổ vừa đủ để gạo khỏi dính vào nồi và cơm khỏi cháy. Hột gạo còn nguyên, chỉ mềm thêm và ướt chút ít thôi. Họ lại còn nghiệm rằng không có gia vị, gạo ăn dễ tiêu; vì thế tất cả những dân tộc nào ở phương Đông ăn gạo, một ngày ít ra cũng ăn đến bốn bữa mới đủ.

Người Trung kỳ, lúc ăn ngồi sệp xuống đất, chân xếp bằng, trước mặt có một chiếc bàn tròn (mâm) cao vừa tầm với bụng, chạm trổ rất đẹp, vành thếp bạc hay mạ vàng tùy theo tư cách và tài lực từng người. Bàn không to, mỗi người theo lệ có riêng một cái, nên trong một đám tiệc có bao nhiêu khách thì có bấy nhiêu bàn, mà thường ngày ở tư thất cũng vậy, trừ khi vợ chồng, cha con ngồi chung một bàn. Ăn không cần dao, dĩa; không cần dao vì thịt đã chặt sẵn ở dưới bếp, không cần dĩa vì đã có những chiếc que (đũa) nhỏ nhẵn bóng, họ cắm giữa mấy ngón tay và dùng rất khéo và rất tài, không có gì là không gắp được. Họ cũng chả cần đến cả khăn ăn vì đã có đũa để gắp đồ ăn, tay họ không bị nhơ nhớp.

Họ mở tiệc luôn để mời bạn lân bang hàng xóm, thịt, cá đủ mọi thứ; duy chỉ thiếu cơm vì họ cho rằng cơm thì ở nhà ai chẳng có. Mà chủ nhân, dù nghèo đến đâu nếu không hiến đủ mỗi người khách một trăm món ăn, cũng chưa được coi là người phong nhã. Vì họ mời tất cả thân nhân bạn hữu, lân bang, nên một bữa tiệc cũng phải có ba, bốn, năm chục người dự, đôi khi một, hai trăm người và có một lần tôi đã đến ăn một đám có hai nghìn tân khách. Bởi thế những đám tiệc to phải tổ chức ở các làng mới đủ chỗ chứa nhiều bàn như thế. Tất ai cũng lấy làm lạ rằng mỗi bàn chứa thế nào được trăm món ăn? Thực ra thì họ tiện mía đem bó lại thành mấy từng xếp lên trên bàn, rồi lần lượt bày những món ăn có đủ sơn hào hải vị: thịt, cá, chim muông hay thú vật nuôi tại nhà hay săn bẫy được, các trái cây mùa nào thức ấy. Nếu thiếu một món gì thì chủ nhân coi như là một điều đáng trách lớn và bữa cơm hôm ấy chưa được nhận là bữa tiệc. Các ông chủ ăn trước được bọn thuộc hạ thân tín hầu bàn; khi các ông chủ đứng dậy, bọn thuộc hạ này ngồi vào bàn, có bọn nô bộc khác kém vế đứng hầu; bọn thuộc hạ thân tín ăn xong, thì bọn nô bộc kém vế này vào ăn. Vì ăn không xuể và đĩa nào cũng phải vét sạch, nên sau chót có bọn nô bộc hàng cuối cùng vào ăn la liệt, còn thừa thì bỏ bị riêng đem về cho...? (ragasches) và bọn rửa bát...

Xứ Trung kỳ không có nho và bởi vậy, không có rượu nho. Họ uống một thứ rượu cất bằng gạo có màu; có vị cay, hơi hăng, bốc chóng như hỏa tửu... Những người sang thì đem pha rượu này với một thứ rượu khác cất bằng hương mộc (? calambac), rất thơm.

... Ngày thường thì họ đem đun vào nước cho sôi rễ một thứ cỏ gọi là Chia (Trà); nước ấy gọi là nước Trà, uống rất bổ vì nó làm cho tan những hơi độc trong dạ dày và giúp cho sự tiêu hóa. Người Trung Hoa và Nhật Bản cũng uống trà; nhưng người Trung Hoa thì không dùng rễ mà dùng lá, còn người Nhật Bản thì đem tán nhỏ ra bột; nhưng công hiệu ở đâu cũng vậy...

... Ấy về việc ăn uống cũng như sự đi chân không, thói quen làm cho ta sống theo được lối sống của dân bản xứ và khi phải ăn lại những món ăn ngày xưa thấy vị nó lạ. Từ khi trở về Âu châu, tôi càng nghiệm thấy điều ấy và tôi không ao ước gì bằng lúa gạo Trung kỳ tôi đã ăn quen rồi và thích hơn tất cả phẩm vật của nước nhà người ta đem hiến tôi.

Khoa chữa bệnh của người Trung kỳ

Về các ông lương y và phép chữa bệnh, tôi phải nói rằng ở Trung kỳ có rất nhiều lương y người Bồ Đào Nha và bản xứ; và thường thường có những bệnh rất lạ và không có thuốc chữa đối với y sĩ Âu châu thì ở đây các ông lang đã biết rõ căn chứng rồi và chữa được rất dễ dàng. Đã nhiều lần các y sĩ Bồ Đào Nha đã bỏ mặc người bệnh rồi tưởng thế là đi đứt, thì khi với đến ông lang An Nam bệnh khỏi rất dễ dàng.

Phương pháp của các y sĩ An Nam là khi bước vào buồng con bệnh, họ đứng lại một lúc để cho hết sự xúc động trong khi đi đường. Đoạn họ bắt mạch rất chủ ý và cẩn thận; xong rồi họ nói rõ căn bệnh cho người ốm biết; nếu bệnh không còn chữa được, cứu được nữa thì họ nói thật; tôi không có thuốc để chữa, tỏ cho con bệnh rõ là không thể nào qua khỏi được; nếu họ đoán rằng nhờ thuốc họ mà người ốm lành mạnh được, họ sẽ bảo cho ta biết là họ có thuốc chữa ta và bao nhiêu lâu thì ta đi đứng được. Xong rồi thì họ tính tiền công, tùy theo bệnh nặng hay nhẹ. Cũng có khi, họ làm giấy cam kết với gia chủ. Đoạn họ kê đơn và bốc thuốc lấy, không nhờ đến bọn chế thuốc, một là để giữ kín, hết sức kín các đơn thuốc của họ, hai là họ không dám tin và nhờ người khác bốc thuốc thay họ. Nếu đúng hạn khỏi, bệnh nhân phải trả công cho thầy; nếu không khỏi thì thầy uổng công và mất tiền thuốc.

Không như thuốc ta làm cho người uống ghê tởm, “bụng mềm và dãn ra”, thuốc Nam dễ uống như nước cháo và rất bổ, uống vào không cần phải ăn cơm (?). Nên một ngày người ốm uống mấy lần như ta uống nước xuýt. Đã không trái với lẽ tự nhiên, thuốc lại còn bồi bổ những bộ phận trong người, làm tiêu các khí độc, mà không hành người ốm. Vào chỗ này có một chuyện đáng kể: Một người Bồ Đào Nha ốm, nhờ các lương y Âu châu chữa mãi không khỏi; người ta đành bỏ mặc anh ta chết đấy không đến thăm nom nữa; sau vời một ông lang bản xứ đến; ông này cam đoan chữa khỏi cho anh ta trong một kỳ hạn nhất định, nhưng căn dặn anh ta là trong lúc để ông chữa, anh ta phải kiêng khem, sự đi lại với đàn bà cấm ngặt; nếu anh ta trái lời thì không có thuốc nào chữa nữa; phải cữ đàn bà mới sống được. Hai bên đồng ý làm giao kèo và ông lang nói chắc ba mươi ngày thì khỏi. Bệnh nhân uống thuốc, vài ngày thấy khỏe khoắn và không còn sợ cái việc mà ông lang đã cấm ngặt anh ta. “Chuyện đến đấy” thì ông lang lại thăm anh ta, thấy mạch khác, bảo anh ta sửa soạn việc ma chay đi vì ông không còn hy vọng gì nữa và hết phương để cứu sống rồi; bảo anh ta đừng quên trả tiền công đã hẹn trong giao kèo vì anh ta chết không phải lỗi tự ông ta. Việc đem đến cửa quan, án ra bắt người bệnh cùng ông lang; và án tuyên rồi thì anh Bồ Đào Nha kia hấp hối.

Người Trung kỳ còn biết chích huyết nữa; nhưng họ hà tiện máu người ốm hơn ta và họ không dùng những dao chích thông thường đâu: họ có những lông ngỗng trong có lắm “kim” bằng sứ rất sắc, có cái to cái nhỏ, hình răng cưa. Khi phải mở một ống hồi huyết quản nào, họ đặt lên trên ống ấy một chiếc lông ngỗng lớn vừa bằng bể ngang huyết quản, chiếc “kim” vào nông hay sâu đúng với ý muốn. Phải phục họ là sau khi lấy đủ máu rồi, họ chẳng cần đến băng bó, vải thấm và dây buộc gì cả, chỉ đem nước bọt nhấm đầu ngón tay cái rồi đem ấn lên chỗ lỗ thủng, họ làm cho thịt trở lại nguyên chỗ, máu ngừng chảy và vết thương chóng lành. Tôi cho vì họ dùng chiếc “kim” sứ có răng nên mạch máu chóng hàn miệng và đập được ngay

Người Trung kỳ không thiếu những tay giải phẫu. Tôi chỉ muốn đem cách họ đã chữa tôi và một người bạn ra làm thí dụ.

Từ một chỗ rất cao, tôi bị ngã xuống, dạ dày đập vào một khối đá; tôi thổ huyết và ngực bị tổn thương. Uống thuốc Tây chẳng đỡ chút nào. Lúc đó có một ông lang chuyên nghề giải phẫu đến cho tôi một ít cỏ, giống như cỏ mercuriale của ta (hỏa diễm thái), một phần ông ta đem giã và đắp lên dạ dày tôi; một phần đem sắc lấy nước cho tôi uống; và một phần bảo tôi ăn sống. Vài ngày sau, tôi hoàn toàn khỏi. Muốn tự thí nghiệm lấy, tôi bắt một con gà con đem bẻ chân nó gẫy thành nhiều đoạn rồi đem cỏ ấy đắp lên những chỗ gẫy vài bữa thì con gà nguyên lành.

Một thầy dòng bạn tôi bị bọ cạp đốt - nọc bọ cạp có thể làm chết người ở xứ này - cổ họng sưng bạnh ra và chúng tôi đã nghĩ đến phép sức dấu thánh cho thầy ta thì bỗng có một ông lang ngoại khoa đến, thổi một hồ cơm với nước lã thường. Xong rồi ông ta đặt nồi cơm xuống dưới hai chân thầy dòng, lấy chăn trùm kín thầy ta để hơi cơm và khói nóng không mất đi đâu được. Hơi bốc lên đến chỗ bị thương, thì thầy dòng thấy bớt đau, cổ hết sưng và người khỏe mạnh như không bao giờ bị bệnh cả.

Còn có nhiều việc tương tự như thế, nhưng thuốc dùng ngay tại xứ ấy công hiệu hơn là đem về đây. Riêng tôi, tôi đem về một thùng nhỏ đại hoàng (rhubarbe), lúc xuống tầu còn tốt vào bực nhất nhưng sau hai năm đi đường lúc về đến Âu châu thì đại hoàng biến thể đến nỗi tôi không nhận ra được nữa. Thế mới biết các dược thảo đem từ bên ấy về đây mất hết cả linh nghiệm.

(Relation de la Cochinchine, trang 56 - 68)