← Quay lại trang sách

III. BALDINOTTI

Cố Giuliano Baldinotti (1591 - 1631), người Ý, sinh tại Postola; sang Viễn Đông truyền giáo năm 1621. Cố là người Âu châu đến Bắc kỳ đầu tiên; được chúa Trịnh Tráng trọng đãi. Cố về Áo Môn hôm 18 Aout 1626 và mất ở đấy. Cố làm tờ trình và nhân đấy cố Alexandre de Rhodes được cử sang trông nom địa phận Bắc kỳ.

Nhân dịp mấy khách thương Bố Đào Nha trù tính đáp một chiếc “galiote” sang xứ Đông Kinh - hành trình mà chưa ai đi cả - các bề trên xét rằng nên phái tôi đi với thầy Giulio Piani người Nhật Bản, sang trông nom việc rửa tội và nhân thể xem dân xứ này có sẵn sàng chịu lời Chúa hay không?

Chủ tâm như vậy, chúng tôi ở Áo Môn đi ngày 2 Février 1626; mất 36 hôm, một phần vì dò hỏi đã không được kỹ càng, hai là vì bão... Ngày 7 Mars, chúng tôi mới đến Đồng Kinh, do một con sông ăn ngược lên đất mười tám dặm. Được tin chúa (Le roi) cử bốn thuyền chiến ra bể đón và hộ vệ chúng tôi suốt dọc sông để bọn Tàu ô đã rình sẵn khỏi cướp bóc.

Đến nơi, tôi đi cùng thầy Giulio và tất cả các người Bồ Đào Nha vào bệ kiến, chúa hoan hỉ tiếp chúng tôi, khoản đãi chúng tôi, cho ăn nhiều món khác nhau và hứa giúp chúng tôi mỗi khi chúng tôi cần dùng việc gì. Khi chúng tôi kiếu từ, ngài ban cho viên thuyền trưởng và tôi nhiều y phục bản xứ rất quý giá và truyền lệnh cho chúng tôi được ở những nhà tốt nhất tại kinh đô.

Trong thời kỳ chúng tôi lưu tại Đông Kinh, ngài hậu đãi chúng tôi, sai mang các thứ giải khát cho viên thuyền trưởng và tôi hoặc ban cho chúng tôi đủ thứ tặng phẩm mỗi khi chúng tôi vào triều kiến. Ngài thường cho đòi chúng tôi vào xem các cuộc vui như đấu voi, thí ngựa hoặc đua thuyền. Ngài cưỡi voi xông vào đám quân lính rồi voi lấy vòi cướp lấy giáo gươm hay khí giới khác dâng ngài; ngựa cũng vậy, cũng biết nhặt những giáo mác đưa cho quân kỵ. Chúng tôi còn được mời xem tuồng hát và nhiều hội hè: có vài nơi cần giữ phẩm cách, tôi không đến. Ngài ưu đãi chúng tôi như vậy, hình như vì muốn thông thương với người Bồ Đào Nha đã được tiếng đồn là đem nhiều nguồn lợi bằng tàu thuyền đến xứ này.

Trong khi ở Đông Kinh, tôi hết sức khuyến bảo người Bồ Đào Nha nên làm gương tốt cho dân trong xứ. Họ nghe theo tôi, nên chúa đẹp lòng và, sẵn có ý tốt với đạo chúng ta, muốn lưu tôi lại: một vị “nội giám” và một pháp sư đã tâu ngài biết rằng tôi hiểu toán học, nên ngài sai một quan thị vời tôi vào để giảng cho ngài rõ những lẽ thuộc về thiên văn. (Vì một lần có một pháp sư đến thăm tôi, tranh luận với tôi trong ba giờ đồng hồ về giáo lý, chịu phục tôi và đã tuyên bố trước bộ hạ ông và các người Bồ Đào Nha rằng người Đông Kinh không biết nói năng, suy nghĩ và ở ăn như thú vật; pháp sư nài ép tôi ở lại để dạy dỗ chúng dân, gửi quà bánh biếu tôi và đi lại thăm tôi rất lịch thiệp). Khi quan thị đến, tôi thưa rằng: “Bề trên sai tôi đi theo người Bồ Đào Nha lượt đi cũng như lượt về, tôi phải cai quản họ và hướng dẫn họ về việc đạo, tôi không có phép ở lại đây; nhưng khi về đến Áo Môn, tôi sẽ xin phép trở lại đây và sẽ ở đây vĩnh viễn. Được như thế tôi sẽ thỏa mãn lắm vì phận sự tôi ở Đông phương không phải là để thâu nhặt bạc vàng nhưng là để dạy cho họ cần đến những việc Trời và nói cho họ hiểu đâu là vị Thượng đế chân chính đã tạo ra Trời Đất”.

Chúa rất hài lòng về những lời trình bày của tôi nên mấy hôm sau cho vị pháp sư trên kia đến vời vào chầu. Chúa ban yến cho tôi, hỏi tôi những câu hỏi về khối tròn, yêu cầu tôi sang năm lại sang, ban cho tôi một chỉ bài để được vào và ngụ khắp xứ, không phải chịu một điều khoản nào cả. Thế tử là người sẽ lên kế vị ngài cũng ban cho tôi một chỉ bài giống như thế cùng nhiều quà cáp của vương phi và của ngài...

Việc lập giáo đường đang tiến hành thì có một tên Maure có đạo, hồi đi nói xấu người Bồ Đào Nha và rêu rao lên rằng người Bồ Đào Nha làm do thám cho vua Đàng Trong là thù địch của vua Đàng Ngoài và viên thuyền trưởng Bồ Đào Nha đã nhận được một món tiền to về việc ấy. Bịa đặt ra như thế, tên Maure muốn trả thù mấy người Bồ Đào Nha có hiềm khích với hắn và muốn chiếm lấy của cải chúng tôi khi chúng tôi bị trục ra khỏi xứ như quân do thám hay như quân bất lương. Chúng tôi có dâng biểu trần tình; lại được thêm một vị hoàng thân đã hiểu biết người Bồ Đào Nha ở nhiều nơi nói cho vua rõ, nên ngài không tin những điều đồn bậy. Nhưng không yên tâm chúa buộc chúng tôi thề sẽ không vào Đàng Trong và bao giờ cũng một lòng với ngài. Ngài cho đòi chúng tôi đến một ngôi chùa (pagode). Dân gian theo chúng tôi đồng lắm. Người ta đặt lên trên một chiếc hương án một bình đầy rượu và nước, lần lượt người ta lấy một chiếc xẻng và mũi một thanh mã tấu gõ vào bình. Đoạn người ta cắt tiết một con gà mái, rồi lấy mấy giọt huyết gà dập tắt lửa một tờ giấy có viết lời thề đem đốt trên hương án. Con gà mái bị chặt làm nhiều khúc. Lễ phát thệ chỉ có thế, mọi người đứng vòng quanh hương án và không làm gì khác nữa ở trong chùa. Song rồi họ chỉ vào chùa, chỉ vào bàn thờ và các cây nho thếp vàng dựng ở trên bàn thờ bảo chúng tôi thề sẽ theo đúng lời đã nguyền và uống rượu cúng...

Đoán biết trước việc sẽ xảy ra như thế nào, tôi có đem giấu được một cái tranh to của Chúa tôi đem trải ra, quỳ trước tranh tôi nói không muốn gọi danh hiệu một vị chúa nào khác Chúa cứu thế mà thề cả... Quan nội giám, đến dự lễ thay chúa, không nghe theo lời tôi;... sau cùng tôi phải yêu cầu quan nội giám cho người về tâu vua rõ ý định của chúng tôi... Chúa, minh mẫn nên hiểu chuyện và truyền cho chúng tôi cứ thề như người có đạo Cơ Đốc... Tôi xây lưng lại Chúa và nhìn vào hình Chúa mà thề rằng... nếu tôi sai lời trong sớ thì Chúa sẽ bắt tôi chết bằng nước, bằng lửa, bằng đao gươm và các thứ khổ hình khác. Thầy Giulio, viên thuyền trưởng và tất cả các người Bồ Đào Nha cùng thề như vậy... Lời thề của chúng tôi làm chúa hết nghi ngờ, ban cho chúng tôi nhiều phẩm vật cùng đồ giải khát và cho phép chúng tôi nhổ neo. Ngài đã giữ chúng tôi lại thêm vài tháng chỉ vì ngài đã sợ chúng tôi vào Nam.

... Xứ Đông Kinh gọi theo tên kinh thành là chỗ chúa đóng; ở phía Bắc, xứ ấy tiếp giáp với Trung Hoa; ở phía Nam với Đàng Trong; ở phía Tây với dân Lào (Laos); ở phía Đông với biển Đông. Đất ăn vuông ra trăm dặm; có nhiều sông và lắm đồng bằng; sản xuất ra nhiều thực phẩm như gạo, thịt, cầm thú rừng nuôi và hoa quả, đất phi nhiêu nhưng thổ sản không rẻ vì dân sự đông đúc.

Người dân... vóc đạc cao táo tợn và can đảm, bận áo dài mổ trước, dài xuống đến giữa ống chân; tóc dài và đội một chiếc mão. Họ thích nghề binh; sở trường về hạng súng nặng và súng hỏa mai, gươm và mã tấu đeo bằng dây ngang người. Họ dễ xúc động, dễ bảo, có nghĩa, vui tính... Bọn cùng dân hay ăn trộm ăn cướp: vì thế người ta khép bọn đạo tặc cũng như tội ngoại tình vào tội tử hình.

Chúa Đàng Ngoài trị vì chín nước: ba thuộc quốc phải cống ngài (vua Lào, vua Đàng Trong, và chúa Bầu [17] . Ngoài lại phải cống vua Tàu mỗi năm là ba pho tượng bằng vàng, ba pho tượng bạc. Ngài thu được chừng hai triệu bạc lợi tức.

Kinh thành ở hai mươi mốt độ (bắc vĩ tuyến); khí hậu nóng bức lắm khi nào không mưa, nhất là vào hồi tháng Sáu. Không có hào, không có lũy. Cung điện lợp ngói, tường xây đá to chạm trổ đẹp; còn nhà cửa của dân làm bằng tre, lợp rạ và không có cửa sổ. Trong thành phố có nhiều vũng nước rộng, để dập tắt lửa cho dễ khi nào có hỏa hạn. Hỏa tai phá 5, 6 nghìn nóc nhà thì 4, 5 hôm sau chỗ nhà ấy đã làm mới lại. Kinh thành chu vi 5, 6 dặm và dân cư rất đông; lập trên một con sông rộng, thuyền bè đi lại được và ăn ra bể xa mười tám dặm. Nước sông đục, nhưng dân bản xứ dùng nước ấy ăn, bởi vì không có máy nước, giếng hay bể chứa. Mỗi năm sông tràn ra khỏi triền hai lần, đầu tháng Sáu và tháng Một, làm lụt một nửa kinh thành nhưng nước lại rút ngay.