VI. SAMUEL BARON
Description du Royaume de Tonkin
Kính gửi hai tôn ông John Hoskins,.Kt và Robert Hooke,.ESQ
Tôi nhờ hai tôn ông gửi cho ông Charles Chamberlain quyển sách tôi đã hứa viết về xứ Đông Kinh, trong đó tôi tưởng đã ghi chép những điều lặt vặt đáng chú ý về thương mại, hành chính và phong tục xứ ấy, cùng là những thói hư, nết xấu của dân ấy, ghi chép hết sức kỹ càng để có thể làm vừa lòng một người có khối óc điều độ, lại có thể giúp đỡ một ủy viên thương mại lúc mới (sang buôn bán bên xứ ấy).
Tôi cũng nhờ hai tôn ông làm ơn xem lại bản thảo cho kỹ càng và sửa chữa những chỗ nhầm, chỗ thiếu sót; hoặc giả bỏ đi những đoạn tôi viết ra để công kích hoặc để trả lời ông Tavernier (vì mục đích của tôi là để làm cho độc giả hiểu rõ sự thực chớ không phải để vạch những lầm lẫn của người khác; thảng hoặc có sửa chữa người ta, cốt ý là để giúp riêng hai tôn ông một ít tài liệu thôi). Những bản vẽ rất đúng và thật, tuy rất ít mỹ thuật; bản đồ vẽ theo và nhờ hai bản đồ khác, chúng tôi hết sức chú ý và dùng đủ mọi phương tiện ở đây để làm cho đúng.
Về toàn thể quyển sách quý ông William Gyfford sẽ gửi thư cho hai tôn ông; chính nhờ lòng hào hiệp của ngài nên tôi mới có tiền in sách; vậy tôi nhờ hai tôn ông giao cho ông Charles Chamber làm để ông này giao cho ông William Gyfford số tiền bán được sách này.
Chắc hai tôn ông cũng cho là phải, ý muốn của tôi tặng quyển sách này cho Anh quốc thương hội cũng là đặc biệt ghi tên các quý ông John Page, James Hobland, Charles Chamberlain và William Moyor là bốn ân nhân của tôi. Hiện giờ tôi đang ở trên đường sang Trung Hoa; nếu tôi thu thập được vật gì lạ hoặc khám phá ra được điều gì đáng đem trình hai tôn ông, xin hai tôn ông tin rằng tôi sẽ đem nói để hai tôn ông rõ.
Tôi xin trong lúc đợi thư sau, tự coi như là vẫn được hưởng ân huệ của hai tôn ông và là kẻ thủ hạ hèn mọn và tận tâm của hai tôn ông.
Samuel Baron
Viết tại hải cảng St Georges
Madras-pan am
Ngày 2 tháng Hai 1685 -1686
Lời dẫnÝ tôi trước kia không phải là để viết cuốn sách tường thuật lịch sử xứ Đông Kinh, nhưng để ghi lấy những chỗ sai nhầm trong tập du ký của ông Tavernier. Cốt để chiều ý hai tôn ông John Hoskins và Robert Hooke ở bên Anh Cát Lợi. Nhưng trong khi tiến hành công việc viết sách, tôi thấy đi tìm mãi những chỗ lầm lỗi và chép mãi lấy chỗ sai hỏng của người ta, tôi cũng chán và không làm cho hai tôn ông được thỏa chí tò mò vì hai tôn ông có thể hiểu được những điều rất huyền bí. Tôi tưởng riêng đối với tôi viết một tập du ký về xứ Đông Kinh là nơi tôi sinh trưởng cũng dễ dàng, là nơi tôi đã gặp gỡ và hỏi han nhiều người ở đủ các giai cấp. Những lý do ấy, thêm vào lòng ham muốn giúp ích công chúng, ý định tỏ lòng biết ơn hai ông bạn cao quý của tôi là hai tôn ông John Hoskins và Robert Hooke đã giục tôi viết và làm cho xong quyển sách này. Tôi có thể tự do nói rằng tôi chỉ cho vào cuốn sách này những điều gì theo lương tâm tôi đều đúng và thực. Chỗ nào nghi ngờ thì tôi đi dò hỏi những người dân đáng tin cậy trong xứ. Còn cách dàn xếp và phương pháp thì tôi theo ông Tavernier. Về văn chương và lối diễn đạt quyển sách này là quyển sách đầu tiên của tôi, tất nhiên thiếu sót vụng về lắm. Vậy tôi xin các bạn tôi cứ chữa và sửa những chỗ sai hỏng trong sách này.
Phê bình tập du ký của ông Tavernier về xứ Đông KinhXứ Đông Kinh được người Bồ Đào Nha tìm ra hơn một trăm hai mươi năm nay và những sách các cha Martin và Alexandre de Rhodes viết về xứ này thường đúng hơn tập du ký của ông Tavernier, vì những điều bây giờ ta thấy sai (đối với sách hai cha ấy) là do sự thay đổi của sự vật theo thời gian.
Ông Tavernier nói đến mười một mười hai hành trình của em ông sang Đông Kinh, Achem, Batavia và Bantam. Tin theo những lời ông em thuật lại và dò hỏi những ông sư, thầy pháp sang buôn bán gặp ông ở Bantam, ông viết tập ký sự ấy có bao nhiêu dòng thì đầy rẫy bấy nhiêu chuyện hoang đường và vô lý.
Trước hết người Đông Kinh không có sư ông và thầy pháp theo, tuy họ có sang Bantam và Batavia. ông còn viết: Người Đông Kinh, khi đi xa, có đem vợ con đi theo; tôi đoán ý chừng ông muốn nói đến những cuộc họ ngược xuôi trên các mặt sông trong xứ từ làng nọ sang làng kia; còn việc xuất dương họ có biết gì, trừ ra vài ba người vào hạng cùng khốn tự ý đi theo hầu những người nước ngoài hoặc vì sinh kế bắt buộc.
Ông có ghi tại sao mấy người Đông Kinh ấy ngạc nhiên ca ngợi ông khi ông cho xem toàn tập địa đồ thế giới với mấy bản đồ riêng vẽ vũ trụ, về các nước và họ chú ý ra làm sao như được xem một cõi đời, trên nguyệt cầu. Tôi chưa từng được nghe nói đến một ông Tavernier đã sang xứ Đông Kinh mười một mười hai chuyến về công chuyện riêng bao giờ; họa chăng chỉ có một ông Tavernier làm ủy viên cho Hòa Lan thương hội và sang đấy một lần.
Ông ta ca tụng em ông ta như một người có can đảm và nhã nhặn; đến bực nào và có đúng không thì tôi không được rõ; nhưng tôi chắc một điều rằng em ông tỏ ra ít có hòa khí và trung thực tuy em ông có biện bác, giãi bày rất nhiều lần trong tập du ký về xứ Đông Kinh, ông khoe em ông có đem theo nhiều tiền trong người khi đi du lịch, nhưng người ta biết rõ lắm công việc và quyền hạn của một ủy viên thương mại Hòa Lan; người này cấm không được buôn bán riêng cho mình.
Ông nói em ông có dâng quà biếu vua và chúa và được tiếp đãi long trọng, được nói chuyện thân mật với các vị ấy. Nếu sự ấy mà đúng, chẳng hóa ra người Đông Kinh đã suồng sã quá đi rồi sao. Tôi không cãi rằng lúc trước người ngoại quốc đến xứ ấy được tiếp rước tử tế hơn bây giờ, nhưng không thể đi đến chỗ suông sã dám coi người ta như bạn mình. Hiện bây giờ người Đông Kinh đều xa lánh người ngoại quốc và chú ý rất ít đến họ. Người Đàng Ngoài không có tục hôn bàn tay vua, thứ nhất là đối với người xa lạ. Ông ta nói được tiếng Mã Lai thì ông cũng có thể nói được tiếng Pháp với họ vì họ đều không hiểu hai thứ tiếng ấy. Tôi tự hỏi em ông đánh bạc gì với các quan nam để mất hàng ngàn bạc và đáng thán phục hơn nữa khi theo lệ thường vua ban cho em ông một con bê và hai hũ rượu nếp cũng đủ đền bù chỗ em ông thua trước. Ông thuật rằng nhờ sự em ông ra vào chốn triều trung và được tiếp chuyện nhiều người Đàng Ngoài (tuy họ không đi ra xứ ngoài bao giờ mà ông vẫn gặp họ ở Bantam và Batavia, ông viết quyển du ký thật thà và đúng sự thực ấy. ông còn nói trong một đoạn sau, rằng ông chỉ chú trọng đến sự thực khi viết sách nhưng quyển sách đầy rẫy những điều mâu thuẫn và chuyện sai nhằm chỉ thêm làm ô danh tác giả nọ).
Như các dân Âu châu, ông Tavernier gọi chúa Trịnh là vua vì chúa có toàn quyền hành động trong nước và tiếp đâi sứ thần các nước trừ có sứ thần Trung Hoa. Như thế là nhầm vì trên chúa có vua, tuy vua có cũng như không, đúng như lời tôi sẽ nói nhiều trong sách này...
Vị trí diện tích xứ Đông KinhVị trí...
Khí hậu...
Diện tích...
Quần đảo...
Thổ ngơi...
Đô thị: Ngoài Kẻ Chợ ra thì xứ Đông Kinh không có quá hai ba thành thị khá quan trọng. Còn thôn xã thì nhiều vô kể, tôi không biết chắc là bao nhiêu vì không để tâm nghiên cứu và vì muốn biết được xác thực cũng không phải là chuyện dễ dàng gì.
Kinh kỳ: Kẻ Chợ là kinh đô xứ Đông Kinh. Ở ngang 21 độ thuộc Bắc vĩ tuyến, cách bể bốn mươi dặm; về diện tích có thể so sánh với nhiều đô thị Á châu; về dân số có phần hơn nhiều đô thị ấy nhất là vào những hôm rằm, mồng một là những ngày phiên chợ, có các dân sự các làng lân cận mang đến bán một số hàng nhiều quá sức tưởng tượng. Nhiều phố xá rất rộng; thế mà vào những ngày phiên chợ, kẻ mua người bán ngồi chật đường, mình cố len trong đám đông thì may lắm nửa giờ tiến được độ trăm bước. Hàng bán mỗi thức riêng một phố và mỗi phố lại thuộc vào một hay nhiều làng, chỉ có dân làng mới được phép mở cửa hàng bán thôi, tựa như các hội buôn bán các phường công nghệ các tỉnh thành bên Âu châu ta.
Cung điện vua, phủ chúa cùng các ông hoàng, bà chúa, các pháp viện đều dựng cả ở đây. Cung điện nào cũng làm trên một khoảng đất rộng nhưng dáng dấp rất thường vì toàn bằng gỗ. Còn nhà cửa của dân gian thì bằng tre, bằng phên ken vụng; có ít nhà gạch ấy là những thương quán của khách buôn ngoại quốc. Làm ta kinh ngạc có ba lần tường của kinh thành cũ và của cung vua; tuy đổ nát nhưng những tường thành ấy còn tỏ cho ta hay rằng đã được xây rất kiên cố, và có những cửa thành đẹp, lớn dưới có lát đá vân; cung điện chu vi đo được chừng sáu, bảy dặm, có cửa, có sân, có cung viện trước kia rực rỡ nguy nga lắm. Trong thành có dinh trại của một toán quân nhiều ghê gớm lúc nào cũng sẵn sàng; xưởng đúc súng ở trên bờ sông gần một hòn đảo là chỗ tế kỳ đảo như tôi sẽ giảng lát nữa. Sống đây là sông Cái, phát nguyên tự Trung Hoa dài mấy trăm dặm và chảy ra vịnh Hải Nam do mấy cửa; cửa nào cũng để tàu nhỏ ra vào được.
Sông Cái rất thuận tiện cho kinh thành; tất cả các hàng hóa, người ta chuyên chở đến đây bằng thuyền bè đi lại khắp trong xứ, là bằng chứng của sự hoạt động của toàn quốc. Các thương nhân có nhà cửa ngay tại làng mình và không sống trên thuyền (như ông Tavernier đã thuật) trừ khi họ phải đi xa.
Các thổ sản của xứ Đông KinhTrái cây: Cam, dừa, cùi bùi, bên Xiêm: dầu dừa thắp đèn; nước ngọt. Ổi chín hay xanh đều làm săn ruột, gây bệnh táo. Đu đủ, cam, hồng, chuối, cây đa.
Vải: vị ngọt, dáng đẹp; nhưng mùa vải không quá bốn mươi ngày; vào khoảng tháng Tư dương lịch, lúc vải sắp chín, chúa Trịnh sai đóng dấu lên trên những cây vải ngon nhất trong xứ, của ai cũng mặc, chủ cây phải giữ và không được coi như của riêng của mình nữa, phải canh gác để khỏi có kẻ bẻ trộm mà không được nhà nước trả của và đền công.
Nhãn: làm long nhãn; người Đông Kinh cho là nóng và độc; mơ, mận, mít: mít dai ngon hơn mít mật.
Chuột, tổ yến, ba ba, dứa, chanh.
Tơ: Xứ Đông Kinh sản xuất ra được nhiều và người nghèo kẻ giàu đều may quần áo lụa mặc, giá cũng rẻ như những hàng trúc bâu [29] ngoại quốc.
Hoa: Về hoa thơm, tuy không chuyên giồng hoa, tôi cũng biết được hơn hai thứ. Nhưng tôi không ngửi thấy mùi thứ hoa mà họ gọi là “la bagne”. Có một thứ hoa hồng cánh trắng và đỏ thẫm; một thứ nữa cánh trắng và vàng mọc thành bụi không có gai nhưng cũng không có hương thơm cây ông lão. Có thứ hoa tròn như các nụ giống như hoa (câpre) cây ông lão của ta nhưng nhỏ hơn; thơm ngang tất cả các thứ hoa tôi biết và mười lăm ngày sau khi hái vẫn còn đượm hương. Các bá quan dùng để ướp thơm quần áo. Lan ở đây cũng có, nhỏ hơn lan Âu châu, cây hơi cao, hoa trắng, hương thơm nhưng ngát quá.
Hoa nhài, trắng như tuyết, cây nhỏ. Bên Ba Tư nhài nhiều lắm nên người ta chở hàng tàu dãy nước hoa ấy.
Súc vật: hổ, hươu, khỉ, bò, ngựa, voi, chó, mèo, chim chóc, muỗi, mối trắng, trứng gà, trứng vịt.
Phong tục... Người Đông Kinh trước kia rất chuộng ngoại hóa nhưng bây giờ chỉ mua vài đồ vật Nhật Bản bằng vàng và bạc, cũng ít hàng vải khổ rộng ở Âu châu buôn lại... Họ không đi bít tất và giày, trừ những văn nhân và các ông tiến sĩ (lệ này bây giờ bớt ngặt rồi). Đời sống của dân chúng khổ sở lắm. Sưu thuế đã nặng, việc quan lại vất vả. Tráng đinh từ mười tám, có tỉnh hai mươi tuổi đã phải đóng sưu từ 3 đến 7 dollars một năm tùy theo tình cảnh mình và do chỗ đất mình ở có phì nhiêu hay không. Sưu đóng một năm làm hai lần: vào vụ gặt tháng Tư và tháng Mười.
Được miễn sưu: các quốc thích, những người hầu cận vua; các quan chức văn võ, các văn nhân từ sinh đồ trở lên; binh lính cùng ít người được miễn tự ý chúa hoặc mất tiền xin. Sự miễn sưu chỉ riêng cho đời mình thôi nhưng con cháu mất ít tiền cũng vẫn xin được dễ dàng.
Các thương gia buôn bán ở tỉnh nhưng đóng sưu ở làng và chịu việc quan hoặc tự mình đi hoặc thuê người thay để sửa lại đường thành đổ, đắp lại đê, chữa lại các đường phố, kéo gỗ dựng cung điện hay công sở.
Công nhân thì trong một năm phải đi công sai sáu tháng mà chẳng được cấp lương đâu. Quan có cho ít nào thì lấy chớ không dám đòi tiền. Ta tưởng cảnh họ khổ thế nào nếu họ nhiều con.
Những cùng dân không có tiền có gạo đóng thuế thì phải đi cắt cỏ cho voi cho ngựa của chúa; làng xa cũng mặc, quanh năm phải gánh ra đến tận tỉnh thành...
Thi cửMuốn làm một công việc gì hay được một chức phẩm gì ai cũng phải qua ba khoa thi: khoa sinh đồ học lực như tú tài bên Âu châu ta; khoa hương cống tựa như cử nhân; và khoa tiến sĩ tựa như bác học bên ta. Trong số các ông tiến sĩ, sẽ lựa chọn lấy một ông trạng nguyên.
Việc tuyển lựa các nho sĩ này được tổ chức rất công bằng: người ta kính trọng tài năng từng người, và không đỗ được thì không được coi là xứng đáng.
Khoa thi sinh đồ như thế này: cứ ba năm một kỳ, vua Lê và chúa Trịnh cử cho mỗi tỉnh hai ba ông tiến sĩ, vài huyện quan đã đỗ hương cống ra chấm thi: thí sinh tỉnh nào thi riêng trong tỉnh ấy, khảo quan nhận được lệnh phải đến ngay nơi mình chấm và trong khi đi đường không được phép nói chuyện với thí sinh hay nhận quà biếu. Đến nơi các ngài vào ngay trường thi và ở trong những gian nhà tre lợp rạ. Trường thi cũng có rào tre, ở giữa có một quãng trống dựng đài. Các ông tiến sĩ ở biệt lập các huyện quan và trong một khoa thi hai bên không được giao tiếp với nhau. Các cửa đều có người canh và ai ra vào đều bị khám xét rất ngặt, cấm không được mang giấy má sách vở, ai trái lệnh sẽ bị nghiêm phạt và mất chức.
Hôm khai khoa, tất cả thí sinh đều phải đến trường thi. Đã có một võ quan chỉ cho họ 5 châm ngôn ngắn viết đại từ và ai cũng phải chép lấy. Xong rồi, thí sinh bị xét xem có mang giấy má gian lận không rồi họ ra sân trường thi, người nọ cách người kia khá xa; từng quãng lại có người canh để không ai được thông đồng với thí sinh.
Phải ngồi viết cho xong bài trước lúc tối và bài không được dài quá hai mươi bốn trang. Thí sinh nộp kèm với quyển thi một tờ khai tên mình, tên cha ông, tên làng. Các quan tiến sĩ sẽ thảo tờ này riêng ra sau khi đã ghi cho thí sinh một con số lên quyển văn và tờ lý lịch. Quyển thi giao cho các huyện quan giám khảo; các tờ lý lịch, giao cho một võ quan khác coi giữ.
Các bài hỏng phải loại ra; các bài khá được đem trình các ông tiến sĩ. Các ông này xem lại và loại một lượt nữa, cho nên trong số bốn năm nghìn sĩ tử, có chừng một nghìn người đỗ bài đầu. Ai hỏng thì về vì không được thi khoa này nữa. Chấm bài thứ nhất mất tám hoặc mười ngày.
Bài thứ hai có ba đầu đề và không được làm quá 12 trang; có chừng 500 người được vào.
Bài thứ ba có hai đầu đề và không được làm quá tám trang nhưng khó hơn hai kỳ đầu nhiều; còn lại ba trăm người đỗ; ấy là các ông sinh đồ. Các ông này được ghi tên vào sổ, được trừ nửa phần sưu và được hưởng vài quyền lợi nhỏ nữa.
Muốn đỗ hương cống thì phải thi ba kỳ đầu như các ông sinh đồ, cùng một nơi, cùng có các ông giám khảo trên và phải thi một kỳ thứ tư nữa: khó hơn, ngặt hơn và không được nói với ai trong khi thi. Các ông hương cống các khoa trước ở các nơi có trường thi phải tề tựu cả ở kinh trong suốt kỳ thi (để khỏi gà bài?); nhà nước cử mật thám ở lẫn với các ông và ngày nào cũng kiểm điểm xem các ông có đủ mặt không. Còn tỉnh nào không có kỳ thi thì các quan tỉnh cũng phải coi sóc các ông hương cống cũ.
Thi có bảy bài chọn trong kinh sách; các bài hỏng bị loại; các bài khá đem trình các ông tiến sĩ. Nếu được đỗ thi lễ xướng danh rất long trọng. Quyền lợi các ông hương cống lớn hơn quyền lợi ông sinh đồ; các ông được vào yết kiến vua và được ngài ban cho một nghìn đồng tiền (giá tất cả một dollar) và một tấm vải callicot noir may một cái áo đáng giá ba dollars.
Khoa thi tiến sĩ cứ bốn năm thi một lần ở kinh, trong một gian điện riêng, có cửa bằng đá vân, ngày xưa lộng lẫy lắm nhưng bây giờ trông rất điêu tàn. Các ông hương cống có học và tài vào bậc nhất mới được phép dự thi và ứng thi nhiều, chỉ có ít người đỗ. Chính vua, các ông hoàng, các văn thân có tiếng trong nước và các đại thần đứng ra chấm. Thi cũng như sinh đồ và hương cống, nhưng câu hỏi nhiều hơn, khó hơn, quan trọng và hiểm hóc về những chương khó nhất trong luân lý, chính trị, luật hộ, thi ca và tu từ học; thi viết làm bốn kỳ trong khoảng hai mươi ngày; ai qua được thì đỗ tiến sĩ. Công việc không dễ dàng gì vì phải nhớ hết số chữ của bốn quyển trong số chín quyển Tứ thư, Ngũ kinh; nhớ từng chữ và thuộc lòng thì mới có thể đỗ được. Mỗi người thi trong một gian lều tre lợp vải (?); trước khi vào phải khám xét cẩn thận; ngồi từ sáng đến chiều với bút, mực, giấy; có hai ông tiến sĩ ngồi lọng cách xa họ để trông nom. Thi bốn kỳ thì hai ngày đầu quan trọng nhất có vua Lê và chúa Trịnh ra chứng kiến; các ngày sau có các quan thượng thư thôi. Các ông tiến sĩ mới được bạn bè, dân sự và các ông tiến sĩ cũ hoan hô và ngợi khen, vua thưởng cho mỗi ông một thoi bạc (giá chừng mười bốn dollars) và một tấm lụa; lại được ăn lộc mấy làng tùy theo lượng vua và tài mình; về làng, còn được dân làng khao vọng trong mấy ngày. Các ông tiến sĩ sau này được tuyển đi làm quan, được cử đi sứ Tàu và có quyền dùng y phục Tàu cùng với phẩm phục mình.
Các hương cống thi hỏng còn có thể thi tiến sĩ nữa; nếu không thì họ có thể vào ngạch tư pháp hay trông nom một làng.
Các sinh đồ hoặc các người không muốn học nữa cũng có thể tìm một việc làm, nếu học có tiền trong dinh quan tỉnh, trong tòa án hoặc nho lại; không cần tài biện bác chỉ cần chữ tốt văn hay thôi.
Chúa Trịnh... Chính chúa Trịnh mới thực cầm quyền nước Nam. Vậy ta nên coi chúa Trịnh như linh hồn và nguồn sống của nước này. Quyền ngài như của nhiều bậc vua chúa bên phương Tây, rất thiên về quân chủ nhưng không chuyên chế vì ngài biết trọng pháp luật và tục lệ và nhất cử nhất động đều theo lệ luật.
Chúa bây giờ là chúa thứ tư họ Trịnh, kể từ lúc (Trịnh Tùng) diệt nhà Mạc và bắt đầu xây dựng nền tảng quyền hành cho con cháu bây giờ. Chúa (Định Vương Trịnh Cán) năm nay năm mươi ba tuổi; chúa tạng yếu nhưng cai trị tài. Chúa kế nghiệp cha (là Tây vương Trịnh Tạc) năm 1582 nhưng trước năm ấy chúa đã được tham dự vào việc cai trị nước Nam rồi. Chúa sinh được ba con trai và ba con gái. Con trai cả và con trai út mất rồi; người thứ hai, đúng vào năm ông nội mất (1682) thì mắc chứng điên, nhưng bây giờ khỏi rồi, và được phong làm thế tử (ông Baron viết chu-ta). Thế tử có phủ riêng cũng lộng lẫy như vương phủ, có quan văn, có quan võ, có quân hầu nhất nhất như bên phủ chúa, chỉ có khác một điều là người trong phủ thế tử phải nhường bước cho người bên phủ chúa. Khi chúa mất, thế tử lên thay lấy người của mình vào làm thủ tục, chỉ đặc biệt giữ lại ít người thông minh và từng trải đã giúp việc tiên chúa.
Nếu chúa Trịnh kết hôn thì bà chính phi được mệnh danh là “Quốc mẫu” vì bao giờ bà cũng trong dòng dõi nhà vua và được coi sóc các bà thứ. Chỉ lập Quốc mẫu vào những năm cuối cùng khi nào chúa không còn hy vọng sinh con nữa; các bà thứ thì nhiều lắm vì có khi trước năm mười tám tuổi các chúa đã lấy vợ rồi, không hạn chế, ba trăm, năm trăm tùy theo sở thích của các chúa.
Trong sự chọn lựa các bà thứ, các nàng hầu thì sắc đẹp không được chú trọng bằng tài múa, hát, chơi âm nhạc hoặc khéo biết cách làm vui lòng chúa. Người nào sinh con giai đầu tiên trước cả các người khác, được coi như là bà chính thê từ ngày con mình được nhận làm thế tử và được chiều mến hơn bà chính phi, được tôn trọng cũng gần bằng bà chính phi. Các bà khác, ai sinh con gởi chúa, được gọi là đức bà, con giai (trừ thế tử) là đức ông, con gái là bà chúa. Các anh em giai, chị em gái của chúa cũng được tôn gọi như thế; nhưng con cháu các ông, các bà thì không, chỉ trừ có con cháu của người con giai trưởng.
Chắc chắn là chúa cho con cháu dư lương bổng chi dùng nhưng chỉ trích tiền kho cấp cho anh em ngài vừa đủ hay thiếu tùy theo ý ngài, cháu chắt càng xa càng được ít, đến đời thứ tư hay thứ năm thì đừng trông đợi gì nữa cả.
Chúa (Định Vương Trịnh Căn) có nhiều anh em, chị em nhưng đối với họ không có nhiều độ lượng, có lẽ vì tính chúa nghi ngờ và tạng chúa suy nhược. Các tiên chúa thì hành động khác, cho các em tham dự vào chính sự, phong cho làm tiết chế chưởng phủ hay trấn thủ, giao cho họ coi giữ nhiều quan và dùng họ vào những địa vị xứng đáng.
Như đã nói trên, tôi chỉ biết có mỗi một chuyện một chúa Trịnh lãnh đạm mà giết em: ấy là tiên chúa Tây Vương Trịnh Tạc đối với em là Trịnh Toàn (Baron viết Chechening, Ninh quận công Trịnh Toàn là con út Trịnh Tráng).
Trịnh Toàn, em thứ của Trịnh Tạc, là một quận vương có dũng cảm; tính hào phóng, có độ lượng, có lịch lãm, nên được dân yêu và quân mến như cha đẻ; hành binh vừa khôn ngoan, can đảm thắng Nam quan của chúa Nguyễn nhiều trận nên được quân địch khiếp phục và tôn gọi là “thần tướng Bắc Hà?”. Uy danh mỗi ngày một tăng ngoài cõi và trong triều làm cho ông ghen tức với anh.
Chúa Tây Vương, rõ lòng em như thế, có ý muốn can ngăn, nói cho Trịnh Toàn hiểu rằng nhất nhất Toàn đều theo lệnh anh và Toàn thắng trận được do tài cai trị khôn ngoan và sáng suốt của chúa. Trịnh Toàn chối và thế không có ý làm điều gì hại cho anh, nếu quân, dân có xui ông tiếm vị thì chẳng những ông không nghe, ông còn nghiêm phạt những mưu sĩ (gian ác) ấy.
Lời tuyên ngôn ấy làm cho Trịnh Tạc yến lòng; yên lòng bề ngoài; mấy năm sau, không rõ vì Tạc vẫn ghen tức, vì Toàn đã làm việc gì mờ ám hoặc để Tạc hiểu nhầm, hoặc vì có người vu cáo (có nhiều ngoa truyền), Tây Vương cho triệu Toàn bấy giờ đang trấn đất Nghệ An về. Toàn tuân lệnh về đến phủ liêu thì bị xiềng và giam vào một gian ngục gãn cung điện.
Ninh quận công bị giữ như thế mấy năm; tội ông chắc không lấy gì làm nặng lắm và không có chứng cớ để hành hình ông.
Nhưng vào khoảng năm 1672, có hơn bốn vạn quần tụ tập ở Kẻ Chợ, kêu la ầm ĩ và làm dân gian kinh hoàng chạy tán loạn về các làng. Quân kéo đến cửa phủ nhưng vốn tự nhiên sợ hãi chúa không dám vào, không có khí giới, họ chỉ có tay không và lưỡi để điều trần, ồn ào, hỗn độn thóa mạ chúa đã vô tình với quân dân, lại hào phóng với các bà phi, cho phép các bà này vung phí tiền kho để binh sĩ túng thiếu và khổ sở gần chết, họ gán cho chúa đã cố ý triệt họ bằng những phương tiện cực nhọc và đau đớn; sự đói khát và sự rách bán. Họ kể công cán họ trong quân đội và dọa sẽ làm những điều quá độ nếu chúa không tăng lương và không ban thưởng tiền cho họ. Họ khinh mạn quá lắm, đứng vây chặt lấy phủ chúa, đóng giữ dọc các ngả đường, cố ý giam hãm chúa và ai ra vào trong phủ cũng phải xin phép chúng.
Trong tình thế cấp bách ấy, chúa Trịnh họp bàn với các quan. Một ông danh nho bàn nên thể lòng lính, vì nguyện vọng họ cũng vừa phải và có thể chiều được; ông cho rằng muốn dẹp dân nổi loạn thì phải dùng quân, nhưng để yên lòng quân nổi loạn thì chỉ có tiền bạc. Nhưng một ông danh nho khác là ông Trạng Đàm, được mọi người kính trọng vì trí sáng suốt và địa vị cao quý, nhưng tính rất quyết đoán và nóng nảy thì phản đối ý kiến trên cho rằng nhân nhượng với một đám quân loạn là một điều khờ, tốt hơn là bắt lấy mấy anh thủ xướng đem chém cổ như thế sẽ làm cho cả bọn ngạc nhiên kinh hãi và thay đổi thái độ để lo kế an toàn. Chúa Trịnh nghe theo ý kiến sau vì chúa không muốn mất tiền nhưng còn do dự.
Quân lính, có người do thám trong phủ mách cho biết, tức giận ông Trạng Đàm quá chừng nên họ rình lúc ông ra khỏi phủ giữ lấy ông để hành hình ông một cách hết sức độc địa và tàn khốc khi một đám đông điên dại có thể nghĩ ra được. Họ lấy tay đấm, khuỷu tay thích đầu gối lên, chân đá và giáo quạt giáng cho ông ngất đi, họ giày xéo lên người ông cho chết hẳn rồi kéo xác ông qua các phố đến bãi cát gần kho khí giới để chặt và băm thây ông ra làm nhiều khúc, nhiều mảnh. Sự tàn sát này kèm thêm nhiều sự tàn sát các quan khác làm cho chúa Trịnh và các thị thần cuống quýt và lo sợ đến chết đi được, nhiều người phải nấp vào góc cung xó tường, chui xuống hầm hố để tránh cơn điên rồ của trận giông tố ghê gớm ấy, mặc chúa Trịnh khiếp hãi một mình.
Tuy bọn loạn quân, có người sáng suốt đã biết rằng mình đi quá giới hạn rồi (passer le Rubicon) không thể nào tháo lui được nữa và bàn với anh em nên bấu lấy một chủ tướng để dìu dắt và giữ kỷ luật cho họ. Họ đề xướng Ninh quận công và đồng thanh bầu ông; giá trời không tối thì họ đã kéo đến ngục tìm quận công, nên họ đợi đến hôm sau.
Chúa Trịnh dò biết ý định của họ, tự tay chế thuốc độc cho quận công và đến tảng sáng sai một viên thái giám tin cẩn bưng sang ngục và truyền lệnh cho quận công uống. Trông thấy quận công thi tên giám quỳ lạy bốn lạy, thuật lại lệnh của chúa và dâng lên quận công thứ tặng vật của vương huynh. Quận công thấy thuốc độc thì hiểu ý. Ta không rõ công đã nói những điều gì, chỉ biết công hướng về phủ chúa quỳ lạy bốn lạy, uống độc dược và vài giờ sau mất.
Đấy là hồi cuối cùng đời Ninh quận công mà đức hạnh bị coi như tội ác, lòng cảm phục của quan quân đã làm cho chết sớm, chết oan.
Sáng sớm hôm sau, Tây Vương sai đem nhiều bạc tiền phân phát cho loạn quân; vì thế mà lửa dân loạn tự nhiên tắt. Loạn binh sau có nhiều người chết nhưng ta không rõ trong những trường hợp nào.
***
Vua Lê thiết triều những hôm mồng năm và rằm mỗi tháng nguyệt lịch để các quan bận áo tím hoặc lam, đội mão vải vào bái vọng - vải dệt trong xứ, các quan phải dùng may mặc cho bọn tùy thuộc. Chúa Trịnh cũng bận triều phục ngồi cách chỗ các quan khá xa, tại một chỗ ai cũng ngó thấy ngài rõ, có quân thị vệ mang binh khí đứng hầu trong sân điện. Các quan có sớ tấu dâng lên chúa thì quỳ xuống trình, đã có bọn quan thị đến lấy dâng lên, chúa có truyền điều gì thì cũng lại truyền cho bọn quan thị để bọn này truyền xuống...
Những việc quan trọng đã giao cho “Quan-solew” xét trước bên điện vua, lúc ấy mới đem để chúa duyệt. Vì chúa ít sang chầu, có khi một tháng không được một lần, nên vua Lê ủy các quan triều phải sang bên phủ chúa để trình chúa những việc đã xét bên điện vua và để chúa cũng quyết định như vua. Cứ kể, thấy các quan, nhất cử nhất động đều trang nghiêm, ai cũng chịu rằng triều chính thật có vẻ uy nghi, nếu các ngài bỏ cái lệ đi đất, chúa rất khoan hồng đối với các quan, có lòng thương, có phạm lỗi thì phạt tiền giáng chức thuyên chức hay phát vãng, chỉ tàn sát khi họ phản bội thôi.
Ai có xin điều gì hộ thân quyến hay bằng hữu mắc tội thì đến trước mặt chúa bỏ mão ra, quỳ lạy bốn lạy rồi mới nói. Chừng tám giờ thì chúa bãi chầu, các quan về cả chỉ trừ viên trưởng vệ và các nội thị. Bọn nội thị này hồi còn trẻ làm các việc ti tiện, được quyền cùng với bọn nữ tỳ vào ra trong cung thất các bà phi. Họ là một tai họa của nhân gian, ăn bám vào chúa, làm hư chúa nhưng là tay gián điệp cho chúa. Họ chừng bốn, năm trăm, kiêu căng hãnh diện, làm lắm việc phi lý nên có kẻ sợ, ghét và thù. Chúa tin họ lắm, bàn cả việc nước và việc riêng với họ. Tuyển vào phủ chúa được bảy tám năm làm những việc hèn hạ rồi họ được bổ dần dần vào những chức cai trị, được cầm giữ một trấn, làm thiệt cho các võ quan và các cống sĩ.
Có vài quan thị có kỳ tài, trong số đó có ba ông già Tu Lea (chúng ta chưa kiếm ra tên thật của mấy vị này), ông già Ta Fae Bay và ông già How Fac Tack. Các ông này tính tình phong nhã làm cho người ngoài yêu mến xứ này. Họ không bị hoạn do tay người nhưng khi bé họ bị muông hay lợn đớp mất nên theo những người tin nhảm ở đây, mới riêng được địa vị cao quý. Ông cuối cùng là ông già How Fac Tack, hiện còn sống và đương trấn giữ phố Hiến, một trấn to nhất trong xứ; thống lĩnh thủy quân và đứng đầu bộ ngoại giao; ông dùng binh giỏi, cai trị khéo, xử kiện công bằng; ông đáng khen phục, đáng làm thẹn người đạo nào khi đã làm chức lớn mà không biết giữ lòng cao khiết, làm lành và tự trọng, về ông thứ nhất là ông già Tu Lea có tiếng là thông minh, được thiên hạ chú ý vì ông lên rất nhanh và chết rất bi thảm. Chuyện ông như thế này: Lúc họ Trịnh mới lên cầm quyền, chúa Trịnh ước mong được một người có tài lương đống để ủy thác cho một phần nhiệm vụ. Một đêm chúa nằm mộng thần nhân báo là hôm sau sẽ gặp được hiền thần. Đến sáng hôm sau thì ông già Tu Lea có việc vào chầu và khuôn mặt, cử chỉ, dáng dấp đều giống hệt người trong mộng. Chúa cho vời ông lên và nhận thấy ông khôn khéo và am hiểu những bí mật nghề cai trị. Chúa thu dùng ông ngay và chẳng bao lâu danh vọng ông chẳng kém gì chúa, có khi hơn nữa vì ông nói lại được người nghe, người xu phụng, người sợ. Ta không hiểu vì sao, vì một đêm ông cũng thành đầy đủ như người thường, trái với phận sự của ông, vì ông vô ra, vì ông có ý muốn truất chúa để lên thay, hoặc vì chúa có lòng ngờ, mà ông bị bốn con ngựa phân thây, thân thể tứ chi bị băm vằm rồi đốt ra tro vứt xuống sông.
Mỗi năm vào cuối tháng Chạp các quan văn võ đều tuyên thệ lòng trung thành với vua Lê chúa Trịnh, không giấu một cuộc phản bội, một cuộc âm mưu nào, nếu trái lời xin chịu hình phạt.
Các quan cũng bắt vợ con và tôi tớ thề với mình như thế. Ai tố cáo ra một vụ làm phản được những 30 đồng và được bổ vào một chức nhỏ trái với món tiền lớn ông Tavernier đã nói.
Một năm gọi lính một lần. Ai cao lớn thì xung vào quân thị vệ của chúa; những người vừa thi được tuyển vào các ngạch tùy sự cần dùng. Những học trò và những người có nghề nghiệp thì được miễn. Tôi không biết lính đào ngũ phải tội gì; vì theo tôi ở đây không có tội giảo nhưng có tội trảm cho thường nhân; thân thích vua mới bị thắt cổ.
Họ không tin dùng người ngoại quốc, cho rằng không giỏi bằng họ. Nhưng khi ở Xiêm về, tôi được hỏi về tình hình xứ này và xứ Đàng Trong. Họ hỏi tôi xem thuyền có chở được quân lính đi biển không, tôi thưa rằng có. Chúa hỏi tôi nếu chúa giao cho tôi hai ba trăm quân để đánh Nam Hà thì tôi có chịu không? Tôi trả lời vốn dĩ là thương gia nên không có tài cầm quân và không giúp chúa về việc ấy được. Từ chối như thế rất tiện cho tôi lúc ấy nhưng rất hại cho tôi sau này khi bị người Tàu vu cáo.
Trong hàng quý tộc đầy sự tập truyền chỉ có trong họ vua; họ chúa thì đến đời thứ ba thôi; còn các quan đã thành tựu vì võ công, vì văn nghiệp hoặc tiền tài thì danh phận chỉ được một đời thôi, con cháu không được tập truyền chức tước. Vì thế dùng cách thứ nhất ít người lên, dùng cách thứ hai có vài người, dùng cách thứ ba mới có lắm người ham muốn.
Phủ liêu ở Kẻ Chợ, ở chính giữa Kẻ Chợ. Phủ rộng lắm, chung quanh có tường. Trong phủ và ngoài phủ có nhiều nhà thấp nhỏ cho quan ở, những nhà làm phía trong phủ có hai tầng và nhiều cửa. Cửa to và đồ sộ, bằng gỗ lim cùng như trong cung điện vua, nhưng tư thất và phòng các bà phi đều to tát, sơn son, thếp vàng. Trước phủ có chuồng voi, chuồng ngựa; phía sau phủ có vườn, cây, đường đi, lầu nhỏ, ao thả cá để chúa họa hoằn có ra cầu hay giải trí, tuy chúa ít vi hành lắm.
Không có lễ đăng quang và lễ tấn phong như ông Tavernier kể đâuNếu suốt quyển sách của ông Tavernier đã đầy những sự sai nhầm, thì chương 13 toàn những điều thêu dệt. Tôi đã cố đi dò hỏi những người có học, những bậc có địa vị trong xứ, không có ai chỉ được cho tối biết rằng có lễ tấn phong và lễ đăng quang như ông Tavernier đã thuật tỉ mỉ đâu. Chẳng có nghi tiết gì cả vì phong tục ở đây không công nhận những phù hoa trang sức, ghét sự phô trương. Khi vua hay chúa băng hà thì làm gì có cái lối tỏ sự vui mừng đến với tân vương hay tân chúa, thì ai được phép đeo bạc đeo vàng hay mặc quần áo lộng lẫy. Một vị quan triều, khi để tang vua hay chúa, cấm không được dùng ngựa đi, cấm không được mang phục sức quý giá; trái lại các quan chức càng cao và họ hàng càng gần lại phải dùng những thức thô và xấu.
Đối với tân vương chỉ quỳ lạy là đủ. Ngài ban cho mấy quan chức có mặt ở đây vài món ăn. Có điều cảnh lộng lẫy chốn triều trung, có đâu tự biểu lộ niềm vui sướng.
Vua đã giản dị như thế thì năm 1682 khi chúa Trịnh Tạc mất, chúa Trịnh Căn lên kế vị cũng lặng lẽ lên thay, ở nước ngoài không ai biết cả. Tân chúa miễn cả lễ triều kiến cho các quan, miễn cả lễ chào mừng cho các kiểu dân ngoại quốc đến điếu tang tiên chúa và chúc tụng mình. Làm gì có súng đại bác bắn trên tường thành, vì trên tường thành không bao giờ có một khẩu, làm gì có sự gọi quân lính ở biên cương về vì như thế thì khác gì mở cửa quan cho quân chúa Nguyễn vào được hai tỉnh, quân này đã mất đi và bao giờ cũng muốn lấy lại. Làm gì có cuộc tuyên thệ trung thành với vua Lê với nước nhà để chống lại Trung Hoa; làm gì mà cuộc phát tiền đã làm ma tốn đến một triệu quan vàng, nghĩa là một trăm năm mươi triệu couronnes bạc, một số tiền mà tôi chắc cả xứ Đàng Ngoài gom góp hết cả bạc vàng lại cũng không được, làm gì có việc vua ban bạc cho các võ quan chức thấp hoặc ở những chức không có trong xứ; làm gì có việc vua ban vàng với bạc cho chúa Trịnh khi chúa Trịnh cấp mỗi thứ cho vua Lê; làm gì có việc giết bao nhiêu thú vật để cúng tế như thế chẳng hóa ra giết hết trâu bò để cấy cày và buộc dân sự nhịn suốt năm hay sao?
Vua đi dạo(“Bova dec Yaw” hay là “Canja”) Họa hoằn lắm, đức vua mới du ngoạn; mỗi năm một lần, vào đầu tháng Giêng, được ngày lành ngài xuất cung cho thần dân chiêm bái.
Hôm ấy, từ lúc trời chưa sáng, vua Lê, chúa Trịnh, thế tử các triều thần, đi riêng đến một ngôi đền làm ở phía nam kinh thành, có ba cửa vào khác lối cửa các chùa chiền (xây gần đấy?). Trong đền không có bầy một pho tượng nào cả. Đến đền thì ai nấy không được vào trong nhưng ở tạm những gian bên ngoài. Đức vua đã tắm gội ăn chay thanh tịnh, ngài mặc những triều phục còn mới nguyên. Đến tám giờ thì súng thần công bắn một phát; chúa Trịnh, thế tử, chiếu lệ vào mừng vua; còn các quan theo lễ vào bái mạng. Nghi tiết lặng lẽ nhưng kính cẩn tôn nghiêm. Các quan vừa lễ xong thì súng liền bắn tiếng thứ hai: mọi người hộ giá vua đến cửa đền; ngài đập cửa thi quân canh hỏi ngài là ai. Ngài xưng là “vua” thì cửa mở. Ngài không vào, ngài đến gõ cửa thứ hai rồi cửa thứ ba. Cửa này mở thì chỉ có vua là được vào trong đền thôi. Trên kia đã nói ngài trai giới từ mấy hôm trước: vào đền ngài khấn và lễ. Lễ xong thì ngài lên ngồi một chiếc ngai thếp vàng đặt trong sân đến. Đoạn người ta dâng ngài một cái cày có mắc trâu. Ngài cầm lấy bắp cày tỏ ý là ngài cũng dự vào việc cày bừa. Ngài giúp cho các nông gia gặp sự may mắn và có ý khuyên nhủ ai nấy đều nên chăm chỉ, cần mẫn, biết lo xa nhất là trong việc canh nông và như thế sẽ được trời đền công làm lụng khó nhọc. Có người bảo hôm ấy có làm lễ dâng “bát” cho vua, nhưng có người lại bảo lễ ấy cử ngay vào hôm ngài đăng quang. Lễ như thế này: trên một án thư sơn son có đặt mấy cái bát trong đựng mấy ngự phẩm đã nấu chín rồi: bát thứ nhất đựng cơm trắng, bát thứ hai đựng cơm vàng và bát thứ ba đựng nước, bát thứ tư đựng rau xanh.
Bát nào trên miệng cũng bịt giấy dán kín để không phân biệt được bát nào riêng ra bát nào. Đức vua chọn lẫy bất cứ một cái bát nào: nếu được bát đựng cơm vàng thì thần dân mừng rỡ vì đó là điềm phong đăng hỏa cốc; nếu là bát cơm trắng thi mùa màng cũng khá; nếu là nước lã thì gạo kém rồi; nếu vua chọn phải bát rau xanh thì dân mất mùa, đói kém, chết hại rất nhiều. Lễ thế này là xong, súng bắn phát thứ ba, vua lên kiệu, có nhiều lọng che và được tám tên lính khiêng qua các phố về đến cung, theo sau là các quan mặc áo thụng đi bộ. Tùy giá còn có vệ binh của chúa Trịnh, có ngựa có voi, có trống có chiêng, có bát âm đàn sáo, có cờ xí phất phơ trước gió. Dọc đường vua vứt tiền cho dân nghèo đói ở các làng vua ngự qua, hay bọn cùng khốn đứng xem loan giá.
Cách sau vua một ít là chúa Trịnh ngồi voi to, có nhiều ông hoàng trong phủ liêu hay bên tôn thất, có nhiều võ tướng và đại thần đi kèm ai cũng ăn mặc lộng lẫy, lại thêm có ba bốn nghìn kỵ binh, trăm rưỡi hay một trăm thớt tượng đóng bành lộng lẫy, một vạn bộ binh mặc quân phục may bằng hàng thêu tay. Thành thử về nghi vệ chúa lấn hẳn vua. Chúa cùng về một đường với vua, nhưng khi đến chỗ rẽ thì chúa đi quặt về vương phủ và để vua Lê thẳng lối về cung.
Thế tử được dùng một nửa voi của chúa đi sau cùng theo vương phụ một quãng rồi rẽ lối tắt về phủ riêng của mình.
Tế kỳ đảo (?)Du “Theckydaw”: tế kỳ (yên?), đảo (vũ?). Tế kỳ đảo một năm một lần, nhất là khi nào có dịch người, ngựa voi của chúa hay trâu bò của dân gian. Người ta cho rằng có dịch tễ là tại các vong hồn những kẻ muốn bội phản nước nhà hay rắp tâm định mưu sát vua, chúa hoặc các tôn thần đã bị hành hình và muốn trả thù dương gian bằng cách phá hại đồ vật hay bạo động hiểm ác.
Muốn tránh những tai ương ấy, người ta mới nghĩ ra cách tế kỳ để ngăn ngừa lũ quỷ dữ và xua đuổi giống tà ma. Chúa sai mở lịch chọn ngày, thường thường cứ tế đúng vào hôm 25 tháng Hai tây lịch. Đàn tràng đã sửa soạn xong thì chúa cùng các hoàng thân và các quan đi ra võ trường (? arsenal). Chúa cưỡi ngựa ngồi voi hay ngự trên một chiếc kiệu có bánh do mấy tên trai lực lưỡng đẩy; ngự kiệu, có tàn che. Đi hộ giá có đến một vạn sáu hay một vạn tám bộ binh, không kể vô số ngựa voi đóng yên, đóng bành cẩn thận. Các phố có loan giá đi qua thì đã có cờ, có trướng (che cho kín?) và có quân lính cầm khí giới ngăn dân hàng phố mở cửa to hay cửa sổ dòm nom hay rắp mưu làm bậy. Chỉ có các ngoại kiểu, ai đã xin phép là được đứng xem thôi.
Ra đến võ trường, đáng lẽ các quan ai cũng phải về chỗ người nấy, nhưng đã có quân của mình đứng thay rồi, tại bãi cát gần võ trường (Bãi này mỗi năm một lớn do sông Cái đem cát từ Trung Hoa xuống).
Trên bãi cát đã dựng nhiều gian nhà tre và nhiều chiếc lều để che mưa nắng. Chúa truyền lệnh là cờ nào ngũ nấy phải đặt binh, lính, súng, ngựa, voi cho thành hàng lối; cờ xí phải treo lên cho rõ. Chiến thuyền phải cắm theo dọc sông. Thủy binh bộ binh đặt thế nào cho có vẻ một đạo binh lớn. Nếu thêm được quân có can đảm và các tướng súy là những người trai tráng trọn vẹn chớ không phải là hoạn quan thì binh lực xứ này đáng sợ bao nhiêu. Vì bộ binh có mặt lúc bấy giờ không dưới năm vạn có thao luyện hẳn hoi, biết múa gươm bắn súng. Kỵ binh có năm nghìn người có yên cương đầy đủ, có cung, tên, kiếm, súng. Voi có hai trăm năm mươi con quen chinh chiến, không sợ hỏa công và tiếng đại bác, trên lưng voi có đóng bành tựa như chiếc hộp hay chiếc ghế có lưng tựa, sơn son thiếp vàng; mỗi voi có hai tên quân cầm thương và súng. Thêm ba trăm khẩu thần công để theo hàng lối.
Văn quan, võ tướng, các quan trấn thủ mặc y phục bằng vải mỏng màu đỏ thẫm, trên ngực có những hồng tâm bằng vàng (? boucles dbr) đặt như những chiếc loop [cúc] trên áo chúng ta. Các ngài đội mão cùng một thứ vải đỏ như áo.
Quân vệ binh của chúa Trịnh đều là những trai tráng lực lưỡng vạm vỡ, lưng đẫy ôm, có vài người cao lớn ghê gớm cũng mặc áo và đội mũ một kiểu với các quan, nhưng vải thô hơn và ngực thiếu hồng tâm.
Riêng để hầu chúa có mười con ngựa và sáu con voi yên bành có nạm vàng toàn khối và đỏ ối khác xa những ngựa voi thường; cờ xí nhiều vô kể; trống, chiêng, phường bát âm, đủ các thứ dùng trong triều hay ra mặt trận cũng bầy liên cạnh đấy. Tất cả những bài trí này, giữa một đám người đến xem đông vô số làm cho bãi cát có vẻ huy hoàng và trọng đại. Sửa soạn xong thì ba tiếng trống thong thả đánh, tiếng trước cách tiếng sau khá lâu. Nghe hiệu trống chúa Trịnh từ võ trường đến chỗ lính xếp hàng và vào trong gian nhà đã dựng sẵn cho ngài.
Rồi đến ba tiếng chiêng cũng thong thả đánh như trống. Chúa bắt đầu, dâng lễ cho các quỷ ác và ma dữ. Cũng như trước khi hành hình ta cho phạm nhân ăn uống tử tế. Đoạn chúa mới đọc vàn kể tội chúng đã gây bệnh hoạn trong xứ, đã làm ngựa voi ngài chết, tội trạng ấy cũng đủ làm cho chúng phải đuổi ra khỏi xứ.
Đoạn người ta bắn ba phát súng lớn; và mỗi loạt súng hỏa mai, súng tay để xua đuổi tà ma.
Đến trưa thì ai nấy cũng ăn uống linh đình do tiền mình làm tiệc sẵn, quân lính thì được phát đồ cúng để ăn.
Chiều tối thì chúa hồi cung, cũng theo nghi vệ lúc đi, rất sung sướng đã thắng được kẻ nghịch.
Vua Lê không bao giờ dự lễ này. Có lẽ vì chúa sợ rằng quân lính, có điều gì bất mãn với mình nhân lúc tụ họp đông nổi loạn phế mình để khôi phục lại quyền vua.
Nhưng khi chúa có dịp đi tuần du trong xứ độ hai ba ngày hoặc vào Nam Hà đánh nhau với chúa Nguyễn thì chúa không bỏ lỡ dịp dắt vua cùng đi, lấy vua làm vì để muốn hành động gì cũng được, hơn nữa chúa cũng không muốn nhân khi mình đi vắng vua dự vào cuộc đảo chính hại cho mình hoặc để cho bọn thoán nghịch cướp được vua rồi nhân danh ngài, đứng lên phản đối mình và đánh đổ cơ nghiệp nhà mình cũng nên.
Người Đàng Ngoài cho lối ta bắn súng thần để nghênh tiếp các bạn hay lối ta gặp nhau mà hỏi thăm sức khỏe của nhau (?) là dã man và kỳ lạ, họ chỉ bắn súng để xua đuổi tà ma thôi.
Tang lễ chúa TrịnhTang lễ chúa Trịnh được cử hành long trọng cũng như tang lễ các vua, về nhiều chi tiết lại còn còn hơn tang lễ vua Lê bấy giờ. Khi chúa băng hà, tân chúa và các quan trong phủ liêu phải đợi ba bốn ngày rồi mới phát tang. Vì nếu tin ấy mà bay ra ngoài, thì dân gian và kẻ chợ náo động, sợ hãi vô cùng vì mỗi lần một chúa qua đời thì anh em và con cháu ngài dấy binh đánh lẫn nhau để tranh chiếm quyền chính, dân sự vì thế cũng bị hại lây.
Việc thứ nhất của họ là tắm rửa thi hài tiên chúa, mặc cho ngài bảy bộ quần áo tốt nhất và dâng lễ cúng ngài những thực phẩm bày biện rất huy hoàng. Tân chúa, các vương thân, công chúa đến trước linh sàng tỏ lòng thương tiếc, quỳ lễ năm lễ, khóc to, hỏi sao chúa bỏ chúa đi và chúa ước vọng những gì. Đoạn, các quan ngày thường được tiên chúa trọng đãi vào lễ, tân chúa đã đứng sẵn đáp lễ nhưng không ai dám nhận. Chỉ có những vị kể trên là được phép vào chiêm bái thi thể chúa thôi; bà con họ xa với chúa và người ngoài thì không được.
Lễ xong, thì người ta cậy hàm mà đặt vào miệng chúa những miếng vàng, bạc hoặc hạt trai nhỏ. Thi hài chúa đem đặt vào trong một chiếc quan tài to rộng, làm bằng gỗ tốt và gắn một lần sơn dày. Dưới đáy quan tài, họ rắc rất nhiều phấn gạo để phòng uế khí và rải nhiều nệm, mền mảnh, quý giá. Quan tài được khiêng đặt vào một gian phòng khác có đèn nến luôn luôn thắp sáng; các vương tử, công chúa, các vương phi và bà con gần của chúa một ngày ba lần dâng lễ và cúng, sáng vào lúc năm sáu giờ, trưa và chiều vào khoảng năm giờ. Thi thể chúa còn quàn đấy thì lễ ấy vẫn giữ.
Trái với ông Tavernier, làm gì có việc ướp thây chúa để giữ cho xác chúa khỏi thối trong vòng sáu mươi nhăm ngày; làm gì mà dân chúng được vào chiêm yết long nhan chúa; các nhà sư và bọn cùng dân đâu có được chia phần những lễ vật cúng chúa, các quan tỉnh đâu có nhận được lệnh riêng về việc để tang vì tục lệ xưa nay đã định rõ; cả xứ phải để tang vua và chúa hai mươi bốn ngày; thế tử trong ba năm ba tháng; các vương tử, các công chúa, vương phi ba năm; thân thích một năm; người họ xa kẻ thì năm tháng kẻ ba tháng; nhưng tất cả các quan đại thần phải chịu tang ba năm như các vương tử.
Tôi cũng không hình dung được phía nào trong phủ chúa mà lại có những tòa tháp ông Tavernier đã nói và cũng không được nghe tiếng những quả chuông theo lời ông Tavernier, đã luôn luôn đánh từ lúc chúa nhập quan cho đến khi linh cữu chúa rước xuống thuyền. Vì năm 1683 trong dịp tang chúa Tây vương, các chuông đều im lặng.
Khi mọi việc đã sắp đặt sẵn thì các thuyền dùng để chở được lệnh cập bến cạnh xưởng binh khí cách phủ chúa chỉ độ nửa giờ chớ không đến hai ngày như ông Tavernier kể.
Linh cữu rước ra thuyền theo cách sau này.
Nhiều cơ binh bận quần áo sắc đen, vác binh khí và có chủ tướng đi kèm, sắp hàng đầu đi oai nghiêm và lặng lẽ; rồi đến hai người to lớn khác thường tay cầm thương, tay cầm bìa bắn tên, mặt đeo nạ để dọa ma quỷ, đi mở đường cho linh cữu; đoạn đến phường bát âm, cho trống, kèn, chiêng... cử những điệu tang thật ra rất uể oải; tiếp đến bức trướng đề chức tước của chúa được truy tặng lại còn quan trọng hơn lúc sinh thời... trướng thêu chỉ vàng trên nền hàng damas tốt, màu đỏ sẫm (écarlate ou cramlist), lồng vào trong một cái khung cao từ hai đến ba toise và rộng một toise, đặt trên một chiếc giá có từ hai mươi đến ba mươi vệ binh của chúa khiêng (một toise là thước đo bên Âu châu thuở xưa, chừng 1th93).
Sau đến một chiếc ngai thếp vàng trong đặt tượng (Phật?) được người khiêng rất kính cẩn; hai lá cờ nhỏ rồi mới đến chiếc đòn khiêng linh cữu chúa; đòn thếp vàng và chạm trổ rất tốn tiền và kỳ lạ. Đòn có từ một trăm đến một trăm năm mươi người lính khiêng có hàng lối và im lặng chớ linh cữu không đặt lên trên một chiếc xe có tám con hươu kéo và có tám viên tướng dắt như lời ông Tavernier kể đâu (vì trong xứ này ít khi thấy có hươu và nai?); chung quanh linh cữu có tàn quạt che vừa cho khỏi nắng, vừa để trưng bày.
Sau linh cữu đến thế tử tức là tân chúa, các vương tử, mặc quần áo dệt bằng những sợi lụa thô thừa bỏ, giống như thứ vải chúng ta may túi, giống như vải bao màu nâu xám bên ta và buộc vào mình bằng dây; mũ cũng bằng thứ hàng ấy và cũng dùng dây buộc; vị nào cũng chống gậy; riêng thế tử mới được đi giầy rơm. Các vương phi và công chúa đi sau, trên đầu có bức riềm che bằng thứ cát bá trắng và thô; tang phục cũng thứ vải trên. Các bà than khóc và rền rĩ. Rồi đến bọn thị tì và tiểu thái giám trong phủ chúa.
Chung quanh, đi án tiền và đoạn hậu đám tang có quân lính cầm binh khí có chủ tướng chỉ huy, nhưng không có voi, ngựa, xe thật; còn voi ngựa xe giả bằng giấy màu hay gỗ sơn thì nhiều vô kể, đem theo để đốt ở lăng chúa.
Ra đến bến thì linh cữu đem đặt trên một thuyền rồng sơn đen toàn, không có chạm trổ, sơn son hoặc thếp vàng lòe loẹt. Các thuyền khác đi hộ tống cũng không có chút trang hoàng gì, vào số năm mươi hoặc sáu mươi chiếc.
Linh cữu đem từ Kẻ Chợ về đến Thanh Hóa là sinh quán của nhà Trịnh. Hành trình mất từ năm đến sáu ngày. Thuyền rồng chở linh cữu được năm sáu chiếc khác nhẹ nhàng dắt, vì trên chiếc ấy không dám đặt mái chèo và không được phép đánh trống thổi kèn sợ làm náo động đến hồn phách chúa. Các thuyền khác cũng phải im lặng. Dọc đường, đến các bến do các quan địa phương đã làm sẵn, thuyền dừng lại để tỉnh tế; trâu, bò, lợn,.. đã mua nhiều làm thịt cúng. Thế tử ở lại Kẻ Chợ, không cho các anh em đi sợ có sự mưu loạn hay canh cải gì; các công chúa thì lại được lệnh đi theo đám tang.
Khi đám tang đến quý hương chúa Trịnh thì còn nhiều lễ nghi nữa, chỗ chôn chúa chỉ có ít người biết thôi và những người này phải nguyền sẽ giữ bí mật. Không phải là sợ dân gian đến đào lấy mất vàng bạc châu báu chôn theo thi hài như ông Tavernier đã kể.
Tôi đã nói trên kia chỉ có ít vàng, bạc bỏ vào miệng chúa thôi (ngoài ra không có gì cả). Nhưng chính là vì sợ dân tin nhảm và có óc muốn cướp nước tranh quyền. Ở đây người ta tin rằng nếu tiên tổ mình mà được mồ yên mả đẹp thì người sống sẽ được sung sướng và thịnh vượng; tân chúa sợ rằng nếu để cho người ngoài biết chỗ mộ chôn tiên chúa thì có kẻ đem hài cốt tổ tiên hắn táng vào trong quan tài tiên chúa, vứt bỏ hài cốt tiên chúa đi. Như thế cơ nghiệp nhà chúa sẽ sụp đổ và kẻ kia sẽ được sang giàu. Trong xứ này người ta đã kể nhiều chuyện tráo đổi hài cốt như thế, những hành động ngông cuồng thế.
Còn những chuyện các quan và các bà phi xin chết theo tiên chúa như lời ông Tavernier kể thì không có đâu, vì thật trái với phong tục và bản tính dân này. Nếu họ nghe thấy ta đồn sằng như thế thì họ sẽ bảo ta tàn ác và dã man.
Tôi không biết ở Đông Kinh có tòa lâu đài nào gọi là Bogligo cả. Họa chăng đối diện với Kẻ Chợ bên kia sông có bến Bồ Đề (Bồ Đề khẩu?), nhưng làm gì có nhà cửa, lâu đài thành quách ở gần hay xa bến ấy.
Tôi còn phải nói đến lễ thứ ba có hàng năm (?) và cử hành ba tháng trước khi mãn phục tiên chúa. Lễ này linh đinh, không những con cháu chúa phải trông nom, mà các quan đã có giữ một chức phận lớn nhỏ cũng phải đến dự cả, dâng lễ để tỏ lòng biết ơn bậc ân nhân và quốc phụ của họ.
Lễ cử hành như sau này:
Trước kho súng trên bãi cát đã dựng sẵn nhiều gian nhà rộng bằng tre, cột rui nhẹ, theo kiểu cung điện, có sân mở rộng vách bằng phên trông rất lạ, các gian nhà đều giăng vải kim tuyến và ngân tuyến, nhất là những gian có đặt bàn thờ, cột và bệ cũng phủ những vải ấy hoặc những hàng sắc đỏ thầm sợi mảnh hoặc những vóc lụa Âu châu. Mái có treo một cái tán hoa bằng lụa damas, sàn rải thảm và chiếu. Hương án chạm trổ rất kỳ khu, sơn son và thếp vàng sặc sỡ vừa nhiều tiền và lắm công. Đấy là phần của tân chúa và Trịnh gia. Các quan đại thần cũng tài lực đua nhau làm những đàn hỏa đặt chung quanh đàn thứ nhất rất có thứ tự, cách nhau rất đều, cùng một kiểu và cùng cao như nhau, bệ đàn có bốn, sáu hoặc tám chân vuông, đường kính đàn chừng mười lăm cho đến hai mươi thước (pieds), những đàn ấy giống như những vọng tháp bên ta (belvédères), các phía đều có cửa mở, cánh cửa chớp đặt vào giữa các con tiện và các trụ. Các đàn đều có phủ hình vẽ đủ màu hình trạm trổ hoặc hình sơn và có treo những màn lụa đắt tiền hoặc những tấm vải dày mảng. Xà cột những đàn ấy đều làm bằng vật liệu nhẹ, vách bằng ván. Quan to thì mỗi người dựng hai đàn, quan nhỏ thì một, nên số đàn dựng lên nhiều đến nỗi bãi cát trong vòng mươi lăm hôm biến thành một thành phố mới, một trại binh giống như Antiochus. Trong khi ấy thì dân gian cả xứ kéo nhau đến xem cái cổng xây dựng lộng lẫy và xa hoa ấy. Có nhiều thú vật lạ (như hổ, gấu, vượn, khỉ) cũng nhiều vật dữ nữa đã được người ta đi tìm hàng tháng, hàng năm, bắt được tận những chốn rất xa và đem đến đấy. Dân tụ tập nhiều đến nỗi làm cho ta tưởng rằng khắp xứ ch?