VII. HÀNH TRÌNH CỦA CHIẾC THUYỀN BUÔN GROL
Tiểu dẫn: Trong số 13 của tạp chí Excursions et Reconnaissances xuất bản tại Sài Gòn vào năm 1882, ông A. J. c Geerts, cố vấn Bộ Nội vụ ở Đông Kinh, có đem dịch ra chữ Pháp tập hàng hải nhật ký (Journal de bord) của chiếc thuyền buôn (yacht) Hòa Lan "Grol ".
Chiếc Grol được viên giám đốc chi nhánh Ấn Độ Hòa Lan thương hội (Compagnie orientale des Indes néerlandaisee) ở Bình Hộ đảo (Hirado) là ông Koeckebacker cử đi mở đầu cuộc thông thương giữa Hòa Lan và Bắc kỳ. Sau đó Ấn Độ Hòa Lan thương hội mới lập một chi điếm ở Phố Hiến (Hưng Yên).
Nguyên văn tập nhật ký hiện lưu trữ tại Thuộc địa công văn khố ở La Haye.
Ngày 31 tháng Giêng tây. - Ngày 31 tháng Giêng năm 1637, chiếc yacht Grol rời bến Tiểu Khẩu gần thành phố Bình Hộ (Hirado) trên đảo Bình Hộ (Hirado, Nhật Bản) để sang Đàng Ngoài. Trên thuyền có viên thương đoàn trưởng Karel Hartsinck đứng đầu phái bộ thương mại này; có ông Vincent Romeyn, người Hòa Lan, trú ngụ ở Trường Kỳ (Nagasaki) không làm cho Ấn Độ Hòa Lan thương hội, một mình đứng buôn bán riêng và trong việc bán buôn thường giao thiệp với lão Melebior Santovoort, là người Hòa Lan đã đến Nhật Bản từ ngày 19 tháng Tư năm 1660. Ông Giám đốc chi nhánh của Thương hội ở Binh Hộ đảo là ông Nicolaas Keockebacker đã nhờ ông Vincent Romeyn đi chuyến này và đem tri thức và sự từng trải ra giúp thương hội để đền công ông, hội cho phép ông mua (ở Nhật Bản) chừng hai nghìn rưỡi nén tiền hàng và hội chở không chỗ hàng ấy sang Đàng Ngoài cho ông. Nhưng hội buộc ông Karel Hartsinck phải chịu trách nhiệm nếu ông Vincent Romeyn lạm dụng sự nhượng bộ của hội (tức là phép của hội).
Trong số hàng thuyền Grol chở đi, trị giá được 36 vạn 6 nghìn 5 trăm 88 florins [30] , thì chỉ có 18 vạn 8 nghìn 1 trăm 66 florins là dành cho Đàng Ngoài thôi mà nguyên về đồng với sắt đã hết 17 vạn 1 nghìn florins rồi, còn ra thì có thêm ít thức hàng Âu châu và Nhật Bản.
Ông giám đốc của hội ở Nhật Bản có giao cho ông Karel Hartsinck một bức thư để dâng lên quốc vương xứ Đàng Ngoài và ông còn dự định phái một thương thuyền thứ hai là chiếc yacht Waterlooze Werve từ Nhật Bản sang Đàng Ngoài nữa.
Ngày 13 tháng Hai. - Mấy hôm trước có bão, thuyên gẫy mất bánh lái và đứt mất tai neo. Bảy giờ rưỡi tối ngày 12 tháng Hai thì thuyền vào bến Tayouwan (Đài Loan, Formose). Ông Van den Burg đứng quản trị chi điếm của hội ở Đài Loan (Tayouwan hoặc Fort Zelandia) có phái một chiếc xuồng ra đón ông Karel Hartsinck lên bộ ngay.
Ngày 25 tháng Hai, - Đến 25 tháng Hai, chúng tôi lại nhổ neo và định chạy thẳng xuống Quinam [31] nên có trang trí (armer) một chiếc mành hiệu là Lantekou có một hoa điểu, chín người Hòa Lan và chín người Trung Hoa; ở Đài Loan chúng tôi có mua thêm 2 nghìn 3 trăm 64 Aorins hàng và sắm hai khẩu súng (thần công) có đanh ốc, một chiếc nặng 1.020, một chiếc nặng 1.050 cân (livres), đạn nặng 12 cân để biếu vua Lê.
Chiếc Waterlooze Werve mất hết neo từ trận bão hôm 18 tháng Mười năm ngoái không đi được.
Từ bữa 18 Janvier trước khi chúng tôi cập bến cho đến bữa 25 lanvier là ngày chúng tôi rời đi thì đã có 17 chiếc mành chở từ Trung Hoa đến bến Đài Loan 60 tạ tơ sống, 1.500 tạ đường, 200 tạ lankins (?) và rất nhiều đồ sành và sứ.
Viên thuyền trưởng đoàn thuyền ấy là Bencan có ý muốn nhờ chúng tôi chở những thứ hàng vừa kể xuống Quinam và xin chúng tôi đừng tính tiền nhập và xuất quá 15 phần trăm. Nhưng ông Putmans đã định rằng tiền nhập là 10 phân và tiền xuất cũng là 10 phân, nên ông Van den Burg không muốn cải lệ cũ. Ông Bencan tính rằng nếu hàng chở được đến Quinam thì ông sẽ được lãi 40 phần trăm vào chỗ lankins và 150 phần trăm vào chỗ đồ sứ xấu.
Bữa 26 tháng Hai, nghĩa là một hôm sau ngày rời bến Đài Loan, thì chiếc mành Lautebou biệt tăm.
Trên thuyền có mười sáu tên Bồ Đào Nha và hai vị linh mục Bồ Đào Nha bị chúng tôi giam lại.
Ngày 5 tháng Ba. - Bữa 5 tháng Ba thì chúng tôi vào vịnh Hàn (Turon, Turan, Tourane, Cửa Hàn [32] . Mười sáu tên Bồ Đào Nha được thả ra và lên bộ. Chúng tôi đợi dỡ xong chỗ hàng cho xứ Quinam rồi mới giải phóng cho hai ông linh mục.
Có sự giam giữ người Bồ Đào là vì có một võ quan Hòa Lan của chủ điếm hội chung và chi điếm ở Quinam thuộc quyền ông Ducker, bỏ sở trốn đi và chúng tôi nghi rằng hắn ta đến ẩn tại nhà các người Bồ Đào. Nhưng bọn này một mực nói rằng không chứa chấp nên chúng tôi thả hai giáo sĩ ra.
Đến Quinam, chúng tôi mua một chiếc mành khác để thay cho chiếc mất tích. Nhưng chiếc sau cũng phải trả lại vì không tốt.
Ngày 13 tháng Ba (1637). - Chúng tôi rời bến Quinam, ông Ducker có trao cho ông Hartsinck tờ báo cáo (mémoire) sau này về xứ Đàng Ngoài:
“Xứ Đàng Ngoài và xứ Đàng Trong đang chiến tranh; tuy hai chúa thâm thù nhau nhưng nhân dân hai xứ vẫn được thông thương buôn bán. Vậy trong khi đậu lại trong xứ Đàng Ngoài chúng mình vẫn có dịp giao thiệp với chi điểm ở Quinam.
Vào tháng Một năm 1636, giá tơ rất hạ ở Đàng Ngoài và chỉ có 45 lạng một tạ. Nhưng vì có ba chiếc mành Bồ Đào Nha đến hai chuyến, một chuyến vào cuối tháng Một năm 1636 và một chuyến vào ngày 15 tháng Hai năm 1637, nên giá tơ lại lên 60 lạng một tạ rồi. Chúa Trịnh đã thâu nhận số tiền bốn vạn lạng của người Bồ Đào Nha đem đến và hứa sẽ tìm đủ số tơ cho họ. Trong số bốn vạn lạng nói trên có ba mươi hòm tiền bạc Nhật Bản tiếng Hòa Lan gọi là Schuitjes hoặc Schuitgeld.
Chúa Nguyễn và chúa Trịnh vốn thân thích. Ta nên nhân dịp chiếc Grol thăm xứ Đàng Ngoài để dò hỏi một cách kín đáo xem chúa Trịnh có vàng và có thể giúp cho ông ta lấy lại số 2 vạn 3 nghìn 5 trăm 80 reales [33] do chiếc thuyền Grooten brock chở; số tiền ấy khi thuyền đắm đã cứu được nhưng lại bị dân xứ Quinam chiếm giữ rất trái phép. Việc này cần phải điều đình khéo léo và kín đáo mới được, không nên nói thẳng cho chúa Trịnh hoặc một vị đại thần nào biết, vì ở triều đình Thăng Long có tin tức gì thì trong Quinam đã được mật báo rồi. Và nếu chúa Nguyễn biết chuyện chúng mình vận động, thì tất cả các quan chức trong chi điếm của chúng ta ở Quinam sẽ lâm nguy hết sức và lúc đó cái xứ tàn nhẫn ấy sẽ gây ra một bi kịch thực”.
Ký tên ngày 12 tháng Ba năm 1637
Ngày 18 tháng Ba. - Thời tiết và gió ngược nên chúng tôi lại phải quay mũi lại và bỏ neo gần Cửa Hàn. Sáng nay chúng tôi thấy chiếc Rurop của ta ra khỏi vịnh Hàn.
Ngày 23 tháng Ba. - Hôm nay lại giương buồm ra Đàng Ngoài.
Ngày 26 tháng Ba. - Hôm nay chúng tôi đến 17 độ 2 phân bắc vĩ độ. Và chạy theo hướng Tây Bắc và Tây Tây Bắc. Chúng tôi thấy một hòn đảo.
Ngày 27 tháng Ba. - Thuyền theo hướng Tây Bắc và đến 17 độ 49 phân bắc vĩ độ. Chúng tôi đặt tên hòn đảo (trông thấy từ hôm qua) là đảo Grol. Hiện giờ thì thuyền đang chạy giữa đảo này và hai mũi bổ. Đảo không thấy ghi trên địa đồ của ông thuyền trưởng Hendrik Arendsz.
Ngày 29 tháng Ba. - Chúng tôi trông thấy đảo Sahoe (Sahou) ở ba hải lý về phía nam. Thuyền theo hướng Nam Tây Nam mà chạy về phía đảo Frakaki (Cát Bà), cách bờ bên này độ 14 hải lý thì bể sâu 12 sải ở phía đông đảo Frakaki, từ ngoài khơi vào lòng bể càng ngày càng nông: từ đảo Sahoe đến đảo Frakaki bể sâu 12 sải ở phía tây đảo là chỗ tối nay chúng tôi buông neo thì bể sâu 5 sải. Cách đảo 1 hải lý về phía Bắc Đông Bắc và Đông Bắc có một hòn thấp và phẳng, và lắm đá ngầm, về phía Tây đảo cũng có nhiều đá ngầm, chắc là dưới mặt nước có nhiều đá hoặc bãi nổi ngầm. Chúng tôi định cử viên phụ việc Huibrecht Eems và viên thông ngôn Strick lên bộ tìm viên quan địa phương, biếu ông này chừng 8 đến 10 lạng các thức hàng Nhật và nhung, tâu với vua Lê có thuyền chúng tôi đến và xin phép vua cho chúng tôi ngược sông ngay với tất cả hàng hóa, các đồ tặng phẩm và bức thư dâng lên vua.
Ngày 30 tháng Ba. - Chúng tôi cho hai viên phụ việc Huibrecht Eems và Strick lên bộ. Quà đem theo cho viên quan có:
- Bốn ấm đun nước (chừng 1 lít),
- Bốn ấm đun nước (chừng nửa lít),
- Hai hỏa lò để pha chè (? brasero),
- Hai chiếc kiếm Nhật (? catabre).
Viên hoa tiêu được lệnh là phải dò xem cửa sông Giang sâu bao nhiêu. Sâu từ 8 thước rưỡi đến 9 thước (pied) nước. Viên hoa tiêu được dân sự đón tiếp tử tế lắm.
Ngày 1 tháng Tư. - ông quan (địa phương) gửi cho chúng tôi 1 bức thư và tặng chúng tôi năm nghìn đồng tiền (zeni theo tiếng Nhật tức là tiền) và 1 con lợn sống.
Số tiền năm nghìn công và con lợn được viên võ quan coi thuyền chiến bản xứ và ba văn quan đem đến.
Còn bức thư thì đại ý nói: “Quan (trấn thủ) rất vui thích thấy có người Hòa Lan đến và chắc vua chúa cũng rất đẹp lòng; các thương nhân sẽ phải trả thuế hàng hóa và thuế bỏ neo, chưa có lệnh cho thì chớ có dỡ hàng vội, nếu trái luật thì tất cả (hàng hóa thuyền bè?) sẽ bị tịch thu; không được bắn một phát súng thần công nào; phải hết sức yên lặng”.
Chúng tôi ngờ rằng tất có một cố đạo Bồ Đào xui nên mới có những lệnh này.
Chúng tôi có đãi viên võ quan (coi thuyền chiến) và ba văn quan những đồ sau này:
5 tấm jackans to,
4 tấm jackans bé,
2 tấm quitasalles [lọng, dù] to,
2 tấm quitasalles bé,
4 cantabers [thanh gươm] bé,
6 cái quạt.
Các ông nói cho chúng tôi biết rằng tơ ở Đàng Ngoài nhiều đến nỗi có thể xếp đầy quá ba chiếc tàu buồm. Chúng tôi có nói để cho các ông yên lòng rằng những lệnh đã ban ra sẽ được chúng tôi thi hành và chúng tôi không làm hại hay làm thiệt dân; chúng tôi nói có những ý tốt và mục đích thân thiện khi đến đây và hỏi tại sao các ông còn giữ viên phụ tá và người thông ngôn lại? - Các ông trả lời “hai người ấy đến mai sẽ về với viên quan coi thuyên chiến”.
Mồng 2 tháng Tư. - Hôm nay mồng hai tháng Tư, viên phụ tá và người thông ngôn của chúng ta trở về thuyền với viên quan coi thuyền chiến và hai người thư ký; tuy vậy chớ họ vẫn còn giữ lại một người lính Hòa Lan tên là Wolf và một người dân bản xứ. Hai ông Eems (phụ tá) và Strick (thông ngôn) đã được đối đãi tử tế; người ta căn vặn hai ông xem người Hòa Lan đến làm gì, tự ý đến hay bị phong ba đánh dạt vào; hai ông trả lời rằng: “Chúng tôi ở Nhật Bản lại; được nghe đại danh của vua chúa, nhân bên Nhật lại có chiếu cấm dân Nhật không được sang Đàng Ngoài buôn bán nữa nên ông quản lĩnh chi hội của thương hội Hòa Lan ở bên ấy có phái một chiếc thuyền buôn sang để thân giao và buôn bán với xứ Đàng Ngoài. Hai ông lại có xin các quan cho phép chúng tôi được ngược sông và chở theo cả hàng hóa sớm ngày nào hay ngày ấy”.
Quan trấn hải thấy tặng vật của chúng tôi do viên phụ tá mang đến ít ỏi quá, trước hết khước từ ý chừng cho rằng không xứng đáng với chức vụ của ông; nhưng sau cũng nhận, lấy cớ rằng chúng tôi là khách lạ ở phương xa mới đến chưa hiểu rõ phong tục ở đây. Ông lại thể tất quá lòng mong mỏi của chúng tôi; ông bảo chúng tôi ứng cho ông năm hòm bạc để ông mua tơ và quế giúp chúng tôi. Viên phụ tá có trả lời rằng không có quyền riêng để trả lời ông về chuyện đó. Sau rồi quan (trấn hải) lại bảo rằng ông Hartsinck là trưởng đoàn thương mại của chúng tôi nên đến công đường ông để bàn về việc ấy. Viên phụ tá còn nói rằng thuyền cần áp mạn nhưng phải đủ 45 thước nước mới được mà lòng sông chỉ sâu có mười thước, lại hỏi xem còn có lối nào vào tốt hơn không thì ông trả lời rằng ông cũng không được tường nhưng ông sẽ phái người thành thạo để chỉ đường cho.
Nếu thế thì chúng tôi không cần đánh thuyền đến Sche- phay (chắc là những đảo đá ngầm Ché-li-pai thuộc về phía Đông Nam đảo Cát Bà tức là những hòn Frakaki theo tiếng gọi của người Hòa Lan) và bỏ neo ở khu đảo Roovers elland (tức là đảo Ile des Pirates) như đã định trước nữa.
Mồng 3 tháng Tư. - Chúng tôi định rằng ông Hartsinck là trưởng đoàn chúng tôi sẽ đến thăm quan trấn hải và tặng ông một món quà 60 lạng để nhờ ông tâu ngay lên chúa Trịnh rằng có chúng tôi đến. Chúng tôi cũng tính giao cho quan trấn hải một nghìn lạng vừa bằng bạc vừa bằng hàng để ông mua giùm chúng tôi những hàng hóa của xứ Đàng Ngoài vì chúng tôi nghĩ rằng không hy sinh như thế thì sẽ làm ông tức bực mà chỉ kéo dài vô ích cuộc chúng tôi đến thăm ông thôi. Chúng tôi có hai mươi hòm bạc cố giấu không cho ai biết; nên đưa tải xuống chiếc thuyền con trước khi ông Hartsinck chỉ để một số tiền là hai nghìn lạng bạc bằng tiền nhỏ (Schuitgelo) cho viên chủ thuyền to giữ để mua hàng, nếu trong vòng một tháng mà viên này không dùng đến món tiền ấy thì phải báo cho ông Hartsinck biết.
Hai ông Hartsinck và Vincent Romeyn chiều nay rời thuyền nhưng (chiếc đò chở ông) không đi được bao xa vì ngược dòng và nước mạnh, đến làng Giang thì phải ghé lại ngủ nhờ một viên thông ngôn người Nhật Bản tên là Guando. Viên này nói vui lòng đem hết sức giúp hai ông lại bảo rằng đem một món tiền to như thế cho quan trấn hải là một việc vô ích vì đã chắc mình được phép vào sông này chưa? - Nếu không mà lại phải tìm một bến khác thì mình đã không giao thiệp với y nữa mà vẫn phải mất tiền với các quan Kapados (Cai bạ?) khác đến định đoạt việc buôn bán của mình. Ông Guando có khuyên chúng tôi rằng nếu quan trấn hải có nhắc lại chuyện năm nghìn lạng bạc thì chúng tôi cứ trả lời rằng ông trưởng hội chúng tôi là ông Nicolas Koeckebacker trong bức thư cho quốc chủ đã tường khai những hàng hóa dưới thuyền rồi.
Hôm sau, khi thấy chúng tôi trả lời vậy, thì quan trấn hải không nằn nì nữa.
Ông Guando còn tỏ lòng tốt với chúng tôi là phái người đến bảo với người thông ngôn ở Ourusra (?) để nhờ người này lên Kẻ chợ tức là kinh đô để tâu với quốc chủ có chúng tôi đến và xin giấy thông hành cho chúng tôi.
Mồng 4 tháng Tư. - Chúng tôi rời làng Giang thực sớm, đi ngược sông đến chỗ lị sở của quan trấn hải, cách làng Giang chừng 8 dặm đất. Tối mịt chúng tôi mới tới nơi, được quan trấn sai cả bát âm, đánh trống và đốt đuốc tiếp đón. Đồn có hai trăm lính bồng súng cắm lưỡi lê sắp hàng theo dọc sông. Ở thuyền xuống, chúng tôi đi thẳng vào dinh quan trấn hải. Dinh làm bằng tre, nhưng quan trấn hải cho bày đặt có nghi vệ lắm và đứng giữa các thuộc tiêu, chúng tôi chào theo lối Hòa Lan. Diễn văn bắt đầu.
Quan trấn rất mừng được đón tiếp chúng tôi, nhưng xin lỗi rằng công đường thì chật hẹp và mời chúng tôi xuống ngủ dưới thuyền chiến.
Chúng tôi đáp rằng: “Nhân được nghe các thân hữu Nhật Bản ca tụng độ lượng và lòng nhân từ của quốc chủ không những đã cho phép tất cả người các nước ngoài đến kiều cư ở đây được buôn bán lại còn che chở và bảo vệ cho nên ông trưởng hội chúng tôi ở bên Nhật, là người thay mặt Quận vương xứ Hòa Lan lại là người thay mặt Ấn Độ Hòa Lan thương hội và đứng chủ trương nền thương mại Hòa Lan ở Nhật Bản, có phái chúng tôi sang tận xứ Đàng Ngoài để đem hàng hóa dâng Quốc chủ dùng.
Chúng tôi là phái viên chớ không phải là khách thương tầm thường như người Bồ Đào hay Nhật Bản đến đây để buôn riêng đâu. Các chúa và các chủ chúng tôi có thương điếm ở Ấn Độ, ở Nhật Bản, ở Trung Hoa, ở Cao Miên, ở Xiêm La vân vân; ở đâu chúng tôi đều giao dịch và đi lại tử tế với các quốc chủ cả. Vậy chúng tôi xin quan lớn cho phi báo ngay với quốc chủ có thuyền chúng tôi đến. Nếu quốc chủ cho phép thì đoàn thuyền chúng tôi sẽ ngược sông mà lên. Chúng tôi lại tường quan lớn rằng ông trưởng hội chúng tôi đã ra lệnh cho chúng tôi phải đánh thuyền vào sông nhưng vì lòng tàu thì sâu và sông thì nông nên chúng tôi buộc lòng phải đỗ lại một bến xấu ở đảo Frakaki. Chúng tôi lại tưởng rằng vì đi từ Nhật Bản sang chúng tôi luôn luôn gặp bão, mất ba chiếc neo nhiều thừng và chão, nên sơ nếu cứ đậu ở bến ấy mãi thì thuyền không chịu được gió to, thương hội chúng tôi sẽ bị thiệt thòi nhiều và số hàng đem dâng quốc chủ dùng sẽ bị hư kém đi, nên chúng tôi ước ao kiếm được bến thả neo cho tử tế và xin quan chỉ giùm cho chúng tôi một chỗ đậu chắc chắn. Chúng tôi nói thì đã có thông ngôn dịch ra.
Quan trấn hải đáp lại rằng: “Chắc thế nào việc chúng tôi đến Đàng Ngoài cũng làm đẹp lòng quốc chủ; đã cắt một người phi báo rồi, đến mai sẽ cử người thứ hai báo cho đế đô biết, rằng chúng tôi ước rằng chừng năm sáu ngày nữa sẽ được các quan cai bạ đến khám hàng. Ông có khuyến chúng tôi nên cho thuyền vào sông và khúc này cũng khá sâu. Chúng tôi có trả lời đã đo rồi và không đủ nước nên dù phải đỗ bến xấu chúng tôi cùng đành chịu không thể lên sông được. Muốn quan trấn hải tin thật, chúng tôi có bảo một tên hoa tiêu người Đàng Ngoài đi với người hoa tiêu của chúng tôi dò lại sông.
Quan trấn hải có bảo nếu sông nông quá thì chúng tôi có thể đánh thuyền đến đậu ở Vương đảo (?) (Konings eilland, Ile du Roi?).
Sau ông mời chúng tôi ăn cơm bản xứ; cơm xong có cho ăn trầu (pinang). Ông có mời chúng tôi tối nay đặc biệt nghỉ lại dinh ông, chúng tôi kính cẩn lĩnh ý. Còn ông thì từ biệt chúng tôi, rất nhã nhặn rồi trở lại thuyền lấy những tặng vật của chúng tôi, ông đã giao cho một viên quan võ và một quan văn giữ tặng vật gồm có:
1) Ba thước rưỡi đá đỏ,
2) Hai tấm sarasses,
3) Hai tấm salemporis,
4) Hai cái gương.
Một lúc sau thì có mấy quan võ đến bảo quan trấn hải sáng mai xin nộp lại chỗ tặng vật kia mà cho rằng ít ỏi quá. Chúng tôi có nói xin ngài nhận cho đấy mới là chút quà của viên thuyền trưởng thôi, chưa phải là quà của thương hội. Khi nào các quan cai bạ đến và thuyền được vào nơi chắc chắn thì thương hội sẽ biếu ngài một món quà. Chúng tôi có xin ngài che chở cho để bọn chúng tôi không thiệt thòi gì khi đem hàng hóa ngược sông. Quan trấn hải có vẻ không hài lòng và không nhắc đến chuyện quà cáp nữa.
Mồng 5 tháng Tư. - Theo lời mời, hai ông Hartsinck và Vincent Romeyn lại đến thuyền của quan trấn hải có hứa rằng nếu thuyền mà vào được trong sông thì sẽ đãi quan lớn ngay và hậu hơn. Quan có hỏi xem mình có chở hổ phách, hồng san hô và vàng đến không? Bọn ta trả lời có và hỏi những hàng đó bán bao nhiêu ở Đàng Ngoài; quan trấn hải nói mấy thứ đó chỉ có vua chúa và các quan mua thôi. Quan lại hỏi có nghe thấy chuyện thuyền Hòa Lan đuổi bắt thuyền Bồ Đào và Trung Hoa trên mặt bể, thì hai ông trả lời rằng đối với người Hòa Lan, người Bồ Đào là kẻ thù và đã không bỏ lỡ một dịp nào để vu cáo nước Hòa Lan với các nước khác và làm cho Hòa Lan mang tiếng tàn ác và các nước khác hiểu lầm. Còn đối với Trung Hoa thì trước kia Hòa Lan có tranh chiến thật vì người Trung Hoa gian trá lừa lọc có làm thiệt cho chúng tôi, nhưng bây giờ hai bên đã giảng hòa rồi và chúng tôi không làm hại người Trung Hoa nữa, nói tóm lại người Hòa Lan chỉ muốn yên ổn buôn bán với các nước thỏa thuận cả hai bên cùng bất đắc dĩ có phải đánh nhau thì chiến tranh không bao giờ người Hòa Lan gây ra cả.
Quan lớn tiếp đãi hai ông tử tế lắm; xong rồi thì hai ông cáo từ, về đến Giang thì đã sáu giờ chiều. Vì nước nên chúng tôi không xuôi được thêm nữa nên phải nghỉ đỗ lại nhà ông Guando, người thông ngôn Nhật Bản.
Mồng 6 tháng Tư.- Hai ông Hartsinck và Vincent Romeyn về đến thuyền Grol.
Chúng tôi được tin rằng năm nay đã có hai chiếc tầu (ô) và một chiếc Gabate của người Bồ Đào đến xứ Đàng Ngoài. Một chiếc tàu chở cố đạo (paters jonk) hễ có gió là khởi hành sang Mã Cảng (Ma Cao, Áo Môn) họ thường đi men bờ đến giữa (vịnh Quảng Châu loan) và đảo Hải Nam rồi từ đó mới đến đảo Tontro trước khi đến Mã Cảnh.
Mồng 7 tháng Tư. - Chúng tôi chở đá để thuyền giảm thêm? để rải đường? (nous prenons des pierres à bord comme ballast).
Mồng 8 tháng Tư. - Viên quan coi thuyền chiến đi với ba người nữa đến giúp chúng tôi đến “Vương đảo” (? Konings eillanden).
Mồng 9 tháng Tư. - Chúng tôi kéo buồm buông neo rồi nhổ neo; nhưng trời xấu làm chúng tôi lại phải quay lại chỗ đậu cũ ở đảo Frakaki (Cát Bà).
Mồng 10 tháng Tư. - Không làm gì cả.
Ngày 11 tháng Tư. - Chúng tôi khởi hành đến bờ Tây Nam đảo Sahou thì bỏ neo tại một chỗ sâu mười sải.
Từ 12 đến 24 tháng Tư. - Chúng tôi kéo buồm chạy, hôm 14 thì đến một bến ở phía Tây một đảo lớn gọi là Đảo giặc (Ile des Pirates, Roovers eilland). Chúng tôi được tin rằng các phái viên của đức vua đã đến đây nhưng không gặp chúng tôi nên họ lại đến bến Giang để tìm thuyền dỡ hàng; ông quan coi đảo có nói những hai ba hôm nữa, họ sẽ trở lại.
Chúng tôi có tặng cho ông quan coi đảo:
1) Hai (chiếc? tấm?) jackans to,
2) Bốn (chiếc? tấm?) jackans nhỏ,
3) Một chiếc batero,
4) Sáu cái quạt.
Ngày 15 tháng Tư. - Không làm gì cả.
Ngày 16 tháng Tư. - Chúng tôi đem giấu 18 hòm bạc phòng khi họ khám thuyền.
Ngày 17 tháng Tư. - Các phái viên đến nơi dẫn theo 16, 17 chiếc đò để chở hàng lên Kẻ Chợ. Họ bỏ neo gần thuyền Grol, họ có một viên thông ngôn Nhật Bản thông thạo cả tiếng Đàng Ngoài và Bồ Đào Nha.
Hai ông Hartsinck và Vincent Romeyn đi với hai viên thông ngôn Guando và Strick xuống đò, được tiếp đón rất tử tế và được nghe người ta thuật rằng: Việc người Hòa Lan mình đến xứ Đàng Ngoài làm cho vua chúa đẹp dạ vì từ năm ngoái người Bồ Đào đã báo cho ngài biết điều chúng ta dự định đến đây và ngài đợi từ năm ngoái xem lời vu cáo của bọn người Bồ Đào đã làm cho ngài tức giận ta có đúng không; họ còn dám nói là ta chủ tâm muốn ám sát ngài, sẽ đeo gươm, đeo súng vào triều kiến ngài để mưu hại ngài, nhất là ta lại từ Quinam ra tất cả những điều thêu dệt ấy không có công hiệu gì đối với vua chúa cả.
Ngày 18 tháng Tư. - Các phái viên tới bờ sông mời thuyền trưởng của chúng tôi lên nghe tuyên đọc tờ chỉ của vua. Hai ông Hartsinck và Vincent Romeyn lên bờ, các phái viên mở chỉ ra đọc rồi giảng chỉ, đại ý như thế này: Việc người Hòa Lan đến Đàng Ngoài làm cho vua rất đẹp ý. Ngài có cử phái viên để dẫn người Hòa Lan và hàng hóa đến kinh kỳ, lần này thì không theo lệ khám xét thuyền nhưng ngài muốn có một bản kê khai thực đúng các đồ vật hàng hóa trong thuyền.
Sau các phái viên mới xuống thuyền, đem theo nhiều binh lính, chúng tôi đoán có lẽ tại người Bồ Đào đồn bậy về chúng tôi, nên họ mới đề phòng. Nói chuyện với các phái viên, chúng tôi mới tường duyên cớ và có biện bạch để bào chữa cho mình, chúng tôi có kể nước Nhật làm thí dụ: Chúng tôi được chính phủ biệt đãi, còn người Bồ Đào thì bị cầm giữ trong một hòn đảo nhỏ.
Chúng tôi nói muốn sau này đem những thuyền to sang đây buôn bán.
Đôi bên từ biệt nhau rất thân thiện.
Hàng hóa dỡ xuống đò.
Ngày 19 tháng Tư. - 9 giờ sáng; 10 chiếc đò chở các phái viên và hàng hóa của thương hội kéo buồm chạy. Mặt trời lặn thì đến sông Luộc (Cona-Lacq), chúng tôi áp mạn.
Ngày 20 tháng Tư. - 8 chiếc đò đến làng fansy (?) trên bờ có ruộng nương trông rất vui mắt.
Ngày 21 tháng Tư. -1 giờ trưa, gặp thuyền các giáo sĩ Bồ Đào, một chiếc Galiote, có một chiến thuyền của vua đi kèm; chiếc thuyền Bồ Đào chở 620 tạ tơ, đến xứ Đàng Ngoài từ tháng Một tây năm ngoái, còn chiếc Galiote thì đến sau một tháng. Chúng tôi tiếc rằng chiếc Waterlooze Werve không thể sang đây được, trái với ý định của chúng tôi, nếu có nó đi tuần ở ngoài bể thì thế nào hai chiếc kia cũng bị nó bắt.
Ngày 22 tháng Tư. - Mãi tối mới đến Kẻ Chợ. Chúng tôi có hứa sẽ biếu quan (đứng đầu các phái viên) và ông Cai bạ nhiều thức đẹp nếu hai ông giúp cho chúng tôi buôn bán được lợi ở đây. Hai ông có xin chúng tôi để cho hai hòm bạc rồi các ông sẽ đổi tơ cho, theo như lệ xưa nay với tất cả khách thương các nước kể cả người Nhật Bản. Tuy chúng tôi không muốn, nhưng sau cũng cho họ hai hòm nhưng buộc phải trả chúng tôi bằng số tơ cầm nặng gấp 17 lần (17 fackaer de soie primers).
Ngày 23 tháng Tư. - Quan phái viên trưởng và quan Cai bạ vào chầu trong phủ chúa (?). Hai giờ chiều, tất cả các đò đều ghé bến Kẻ Chợ.
Chúng tôi cho chở 4 hòm da vào phủ (?). Các quan trong phủ đòi 30 hòm bạc, sau sẽ có tơ trao cho, chúng tôi không nghe nhưng sau phải chịu mất 20 hòm. Họ coi bạc và hàng một cách “suồng sã” quá, như của ăn cắp vậy.
Buổi chiều, các ông Hartsinck, Vincent Romeyn Nagtglas, các người phụ tá và các người làm, tất cả là 17 người, đi theo quan phái viên trưởng và quan cai bạ vào phủ. Trước khi vào, chúng tôi phải bỏ gươm ra.
Họ dẫn mình vào một hành lang trong đã để các vật dâng lên vua, chúa.
1) Một tấm (24 annes) dạ đỏ,
2) Hai mươi tấm sarasses,
3) Hai mươi tấm parcolles,
4) Một tấm serge đen,
5) Một chiếc gương thiếp vàng,
6) Ba hộp ngoài sơn, đựng nữ trang,
7) Hai mươi lăm catti đinh hương,
8) Hai khẩu đại bác (có bắt đanh ốc) nặng 2.070 livres [34] , mỗi khẩu bắn được đạn nặng 12 cân sắt.
9) Giá súng cho hai khẩu ấy,
10) Ba mươi viên đạn,
11) Bảy cái cặp để gắp (pincettes scimiftangen),
12) Ba viên đạn có dấu thập ác (? ba bì thập ác, Kruisballen),
13) Ba cái chùy,
14) Một thùng con... (beursvantje,petit tonneau à bourse).
Người ta bảo chúng tôi lễ, chúng tôi chào theo lối Hòa Lan, tuy chẳng thấy chúa đâu cả, trong phủ không nom thấy ngài và chẳng có quan đại thần nào cả? Chúng tôi ngồi xuống chiếu chung quanh có nhiều quân lính mang khí giới. Các tặng vật đem vào điện, không được trịnh trọng và lễ nghi cho lắm.
Họ cho chúng tôi ăn và uống theo lối trong xứ.
Chúng tôi sai hai viên phụ tá Mathys ten Broecke và Pieter Huysmans vào điện mở các hòm bạc và hàng hóa để chúa lựa chọn. Lúc chúng tôi ăn xong, chúa phái hai viên cai bạ còn trẻ đến hỏi chúng tôi về vị trí nước Hòa Lan ở phương Nam hay phương Bắc. Chúng tôi đáp: “Ở 52 độ thuộc bắc vĩ, nước Hòa Lan sản xuất hổ phách, dạ len, tơ, lụa, nhưng có sa tanh, dạ kim tuyến, dạ ngân tuyến cùng nhiều hàng khác nữa”.
Chúng tôi ăn xong đứng lên và chào một lần nữa, tuy chẳng thấy chúa hoặc một quan to nào cả. Chúng tôi cáo từ, rất bực tức về cách họ tiếp đãi chúng tôi và cách họ lôi vứt hàng hóa.
Tối đến, chúa sai khiêng trả lại những hòm và hàng hóa còn lại chúa không dùng sang nơi chúng tôi đóng, kèm thêm 5 vạn tiền đồng, mấy lọ cá thối và mấy lọ cau. Đêm nay, bọn chúng tôi ngủ cả dưới đò.
Ngày 24 tháng Tư. - Chúng tôi khuân lên bờ những hòm bạc và những kiện hàng. Thế tử sai đem cho chúng tôi 1 vạn đồng tiền đồng, hai con bê và bốn hũ cau, và hỏi vay chúng tôi 5 hòm bạc. Chúng tôi đáp là không thể vâng mệnh thế tử được, vì đã dâng chúa hết quá nửa số bạc của chúng tôi đem đến và tưởng thế nào chúa thượng cũng không tiếc gì ba bốn hòm bạc mà chẳng cho thế tử. Viên cai bạ liền hỏi chúng tôi một cách xúc xiểm rằng hẳn chúng tôi muốn đánh đổi tiền lấy hàng với thế tử chăng? Chúng tôi trả lời: “Liền sau khi chúng tôi được vào bệ kiến chúa”.
Ngày 25 tháng Tư. - Chúng tôi được vào điện chầu chúa, nhưng không được thấy long nhan. Nhưng (lúc trước) đã được gặp xa giá ở dọc đường, chúa ngự kiệu, tuổi đã cao, có ba, bốn nghìn quân lính đi tùy giá. Người ta đồn ngài có đến 60 bà phi và 84 người con.
Hôm sau bọn Bồ Đào Nha được vào yết kiến chúa và lại nhắc lại những điều họ thường vu cáo chúng tôi.
Ngày 26 tháng Tư. - Trong cuộc giao thiệp với triều đình Đàng Ngoài, chúng tôi được một người đàn bà Nhật, bà Ouru san (Ouroussa, bà Ouru) giúp đỡ rất nhiều; bà lại còn làm thông ngôn cho chúng tôi. Bà đã đảm nhận lấy việc bênh vực chúng tôi trước mặt chúa Trịnh chống với lời vu cáo của bọn Bồ Đào Nha. Bà có cho chúng tôi biết rằng chúa Trịnh không để vào tai những lời sàm tấu của người Bồ Đào Nha và tại phủ liêu, người ta không hề tin rằng người Hòa Lan chúng ta có những dự định xằng bậy để đến Đàng Ngoài.
Chúng tôi có biếu bà ta một bộ y phục Nhật Bản và 1 cái “Cataber”.
Nhưng tin tức chúng tôi về cuộc buôn bán của người Bồ Đào Nha ở đây không làm cho chúng tôi vui lòng. Chiếc mành Bồ Đào Nha năm ngoái có chở đến đây 24 hòm bạc và 80 thoi (nén) vàng, mỗi thoi là 10 lạng; có thêm những “tafache lasses”, hàng Damas, nhung và dạ. Chúa Trịnh có truyền lệnh cho họ khuân tất cả mọi thức vào triều và mở mọi hòm ra trước mặt ngài; ngài giữ lại hết cả số vàng mà chỉ trả cho mỗi lạng vàng là 4 lạng rưỡi bạc; hàng hóa khác thì trả hết sức rẻ. Bọn liêu thuộc còn nhằn lúc người Bồ Đào Nha vắng mặt mở trộm các hòm lấy mất 80 tấn nhung và dạ ngân tuyến, những thức họ không lấy thì bị phá hư nhiều lắm; rất nhiều lọ kẹo bị mở ra để xem trong có giấu vàng không? Chiếc thuyền Bồ Đào Nha đã nhổ neo từ hôm 19 tháng Tư, chở đi 540 tạ tơ. Tơ primero mua từ 22 đến 23 fackaer, tơ fecunda mua từ 27 đến 28 fackaer. Còn chiếc Galiote Bồ Đào Nha thì chở đến đấy 12 hòm bạc và chừng 3.000 lạng hàng hóa; số hàng này, người Bồ Đào Nha cũng bị ức hiếp như số hàng trên chiếc mành kia.
Người Đàng Ngoài lại thừa dịp có người Hòa Lan đến để đặt giá mua rẻ hơn các năm trước. Chiếc galiote lúc đi mua được 350 tạ tơ và 10 tạ quế, mỗi tạ quế là 16 fackaer. Kể thêm một chiếc thuyền nữa, hiệu là Navet, do các giáo sĩ Gia tô Bồ Đào Nha ở Hải Nam phái đến, lúc về mua được 75 tạ tơ. Cộng cả lại, thì người Bồ Đào Nha đã mua được 965 tạ tơ. Chiếc Navet sau mang không đủ số bạc đến để mua tơ, nhưng ở Kẻ chợ có ba giáo sĩ Gia tô làm tay sai cho các Giáo sĩ dòng Tên ở Áo Môn nhân có giữ lại của các thuyền buôn Bồ Đào Nha đến từ trước được 12 hòm bạc, và đã dùng số bạc này để mua những hàng bất thường. Hàng đem đến thì bắt buộc phải bán rẻ ở Đàng Ngoài, đem như thế để giấu số bạc chở lận đến. Có muốn được lãi thì phải trông mong vào số hàng mua được mang về.
Chúng tôi được tin là một chiếc mành Trung Hoa chở 20 hòm bạc từ Nagasaki (Trường Kỳ) do hai quan trấn Nhật Bản là Pheso Douno và Miyazaki Douno phái đến, đã ghé vào trong một con sông ở Đảo giặc (Ile des Pirates Roovers eilland).
Ngày 27 tháng Tư. - Chúng tôi trở lên bộ, một số lớn bạc còn lại trong thuyền.
Ngày 28 tháng Tư. - Chúng tôi được tin rằng chiếc mành khách chúng tôi để lạc mất khi sang đây đã vào được sông Possin, trên mành có chín người Hòa Lan, vài người khách trú. Quan trấn hải tước hết trọng pháo, súng ống, đạn dược; giữ chiếc mành lại mười ngày, xong rồi thả cho đi, chỉ bắt giam viên hoa tiêu và hai người Hòa Lan vào ngục; còn bọn khách trú trốn thoát hết. Viên hoa tiêu được tin rằng có một chiếc thuyền buôn Hòa Lan trong hải phận ấy.
Chúng tôi có làm sớ dâng lên chúa Trịnh để xin tha cho những người Hòa Lan bị cầm tù; chúng tôi cam đoan sẽ trả hết số tiền quan trấn hải chắc đã chi phí về việc cung cấp cho họ; chúng tôi xin chúa trả lại cả những súng, đạn cho chúng tôi.
Chúng tôi được chúa trả lời ưng thuận; muốn nhắn mọi tin tức vào Quinam nhưng không có dịp nào cả.
Ngày 29 tháng Tư. - Chúng tôi cho khuân tất cả số bạc còn lại lên bộ; đem phá những tiền ra thì được 82 phần trăm bạc thật.
Đem đồng và sắt vào cân trong phủ; chúa thì cắt các quan cai bộ ra chứng kiến, chúng tôi thì cắt hai người trợ viên là Huibrecht Eems và Matthys ten Broecke. Bọn cai bộ cân gian tham và lừa lọc đến nỗi hai người trợ viên của chúng tôi phải đình việc cân và ra khỏi phủ.
Những người Nhật Bản ngụ cư ở Kẻ Chợ xin đứng ra điều đình; quan cai bộ trưởng ưng thuận, còn chúng tôi không chịu vì chúng tôi đã có kinh nghiệm ở Quinam rồi nên biết rằng phương sách đó không ăn thua gì cả.
Hôm nay, chúa ban yến cho mấy quan cai bộ để dò hỏi họ luôn thể xem ý kiến họ đối với chúng tôi ra sao? Họ trả lời tốt lắm; đồng thanh cho rằng người Hòa Lan đáng tin hơn người Trung Hoa, người Bồ Đào và các dân tộc khác đã qua đây. Họ còn thuật lại những lời tâu ấy cho chúng tôi nghe; nhưng chúng tôi đã thừa biết rằng họ nói thế để mua chuộc cảm tình chúng tôi, chớ thật ra họ vẫn cấm dân sự buôn bán với chúng tôi, và họ giữ lấy tất cả số tơ trong xứ để bán lại rõ thật đắt.
Ngày 30 tháng Tư. - chúng tôi vẫn muốn phái chiếc đò xuôi xuống miền bể (đậu và thông tin tức) với chiếc thuyền buôn to của chúng tôi, nhưng mãi chưa được phép riêng của chúa. Chiều nay chúa mới cho chúng tôi biên một bức thư cho ông thuyền trưởng và cắt một hoa tiêu bản xứ xuống đó.
Mồng 1 tháng Năm. - Số đồng và số sắt đã nộp đủ.
Chiếc galiote Bồ Đào chở nặng hàng xuôi ra bể, để lại ở Kẻ Chợ một chiếc mành sắt, sau bán cho người Nhật Bản.
Mồng 2 tháng Năm. - Có tin một chiếc mành chở đầy hàng ở ngoài bể vừa ngược sông đến đây. Thế tử sai lấy vài thứ hàng hóa.
Mồng 3 tháng Năm. - Chúng tôi được quyền đến thông thương tại xứ này.
Mười chiếc đò đã chở hàng của chúng tôi từ miền bể lên, có lệnh rút đi mà chúng tôi không hay biết gì hết.
Mồng 4 tháng Năm. - Chỗ đồng và sắt chưa cân hết thì hôm nay đem nộp đủ. Nhưng vì người ta cân gian, nên chúng tôi thiệt mất 15 tạ (piculs) 70 cattis đồng và 11 tạ 50 cattis sắt.
Mồng 5 tháng Năm: Chúng tôi được vời vào dinh quan cai bộ trưởng. Chúng tôi đem biếu ông:
- Ba aunes dạ hồng,
- Ba aunes dạ đỏ,
- Một chiếc gương,
- Hai cái jacquans to,
- Hai cái jacquans nhỏ,
- Bốn ấm đun nước nhỏ.
Ông thết cơm chúng tôi hậu hĩ lắm. Chúng tôi có phàn nàn đã gặp nhiều sự khó khăn khi muốn giao dịch với người trong xứ, tuy chúa đã cho phép chúng tôi tự do buôn bán rồi. Ông hứa sẽ giúp chúng tôi về chuyện này. Chúng tôi còn xin cho ba người Hòa Lan được tha ra và đòi lại chỗ súng, đạn; ông cũng lại hứa sẽ làm vừa lòng chúng tôi.
Mồng 6 tháng Năm. - Các ông cai bộ vận động để chúng tôi được vào triều kiến chúa Trịnh và tâu rõ những lợi ích của nền thương mại Hòa Lan. Chúng tôi biên thư cho ông chủ chiếc tàu buôn của chúng tôi là ông Piter Feunisz để ông gửi nốt cho chúng tôi hai hòm bạc ông còn giữ hộ.
Mồng 7 tháng Năm. - Các ông cai bộ chỉ hứa bảo; thực ra các ông ấy vẫn ngăn cấm dân đến buôn bán thẳng với chúng tôi vì các ông muốn thu lấy tất cả số tơ vào trong tay để làm chủ thị trường và bán lại cho chúng tôi thật đắt; họ tưởng cầm chắc chúng tôi như giam con chuột con trong bẫy.
Đến chúa Trịnh cũng không cho chúng tôi vào triều kiến. Chúng tôi đồ rằng chúa và các quan cai bộ đồng ý với nhau để bán hàng cho chúng tôi rõ thật đắt.
Mồng 8 tháng Năm. - Hai ông Hartsinck và Mathys ten Broecke vận động một lần nữa để cùng với bà Ouru san được vào triều kiến chúa Trịnh, nhưng uổng công toi.
Chúng tôi bắt buộc phải chịu nếm và coi như đường ngọt những sự ngược đãi ấy, kiên tâm mà chịu.
Mồng 9 tháng Năm. - chúng tôi dâng lên chúa một tờ sớ để nài cho được tự do buôn bán với dân gian; chúng tôi cũng tâu để chúa hay rằng chúng tôi sắp rời khỏi xứ này.
Chiều nay, vào quãng bốn giờ, chúng tôi được vào bệ kiến. Có nhiều lính mang khí giới. Chúng tôi đứng ở xa mà chào chúa ngự trong một hành lang (Có lẽ là một gian điện, đằng trước có nhiều cột, ngai chúa đặt trong cùng điện). Chúng tôi được vời ngồi vào những chiếc chiếu trong một gian khác; ngồi đây thì không thể thấy long nhan được; chúng tôi được ban yến và dùng cơm. Có năm sáu người hòa nhạc cho chúng tôi nghe; một người nhào lộn và biểu diễn nhiều môn thể dục. Bà Ouru san (là người Nhật Bản được chúng tôi tặng một áo lụa Nhật, hai cái jacquans tơ và hai chiếc braseros) đi lăng xăng từ chỗ chúng tôi ngồi vào điện, rồi lại từ điện ra; sau cùng cũng dẫn được ông Hartsinck một mình vào triều kiến chúa Trịnh. Sau khi đã làm lễ chào, ông được lệnh ngồi cách chúa mười ba bước, chúa ban khen ông đã đến đây; hỏi ông tính nết người Hòa Lan, quyền hành của quận vương xứ ta, của vua Tây Ban Nha; ông đối đáp tự nhiên làm chúa đẹp lòng. Sau chúa lại hỏi có phải thương hội ta đòi 150 hạt trai cho chúa Nguyễn để lấy cù lao Chàm. Ông Hartsinck cải chính lời nói xằng ấy và bảo rằng người Bồ Đào chỉ đặt điều nói bậy; vì hội đã đặt ra nhiều nguyên tắc và huấn lệnh, không bao giờ chúng tôi làm trái cả. Thương hội không muốn có thêm đất đai, chỉ lo mở mang việc buôn bán vào những chốn nhất định thôi. Câu chuyện thành tự nhiên, thân mật, chúng tôi có lo đến chuyện thuyền buôn Hòa Lan và Bồ Đào gặp nhau trên mặt sông trong xứ; nhưng chúa có nói không bao giờ chúa lại chịu để cho có cuộc tranh chiến ấy trong bờ cỗi chúa; còn đánh nhau ngoài khơi thì tha hồ, chúa mặc không can dự. Ông Hartsinck rất cảm ơn chúa về lệ này và có xin chúa cho phép buôn bán tự do với dân chúng; chúa ưng thuận. Sau cùng chúa có truyền cho ông Hartsinck rõ ràng sáu hôm nữa thì có thể bàn nhiều chuyện to tát; ý chúa muốn vời ông Hartsinck vào chầu để nhận ông làm dưỡng tử và để tiện thể định giá tơ cho chúng tôi mua.
Triều kiến xong thì chúng tôi lui ra, báo tin cho các ông cai bộ. Bây giờ mới biết chỗ dụng tâm của người Bồ Đào làm cho chúa Trịnh nghi chúng tôi không phải là không công hiệu, vì không có lời sàm tấu, thì sao chỉ có một mình ông Hartsinck vào triều kiến thôi, vào chân tay không, không được mang khí giới; cũng vì có lời sàm tấu, nên bọn chúng tôi chờ mãi mới được vào trong triều.
Mồng 10 tháng Năm. - Chiều nay, theo như lời đã hứa trước, chúng tôi dâng cho thế tử:
- Ba aures rưỡi dạ đen,
- Hai tấm salempores,
- Hai chiếc gương,
- Hai gói đồng đúc thành thoi,
- Hai gói sắt đúc thành thoi,
- Bốn ấm đun nước bằng kim khí,
- Bốn ấm pha nước bằng kim khí,
- Hai cái braseros,
- Hai cái sarasses.
Chúng tôi được tiếp đãi và thết cơm tử tế lắm.
Ngày 11 tháng Năm. - Viên thuyền chủ của chúng tôi biên thư lên nói rằng mua mọi thức cần dùng hằng ngày cho thuyền và các bạn khó khăn quá.
Thế tử gửi cho chúng tôi một con bê và 12 lọ cau.
Chiếc galiote Bồ Đào bữa nay ra đến bể; chiếc mành và chiếc Nava ra đến trước được chín ngày.
Ngày 12 đến 14 tháng Năm. - Không làm chuyện gì cả.
Có thể đem 1 fackaer bạc thật mua 16 fackaer tơ hạng tốt.
Ngày 15 tháng Năm. - Các ông Hartsinck, Vincent Romeyn và Mathys ten Broecke vào chầu có bà Ouru san theo làm thông ngôn. Đến nơi, chúng tôi làm lễ chào, đoạn người ta dắt chúng tôi vào một gian điện, điện này gần lăng tiên chúa và tổ mẫu của chúa. Chúng tôi bỏ mũ tỏ lòng tôn kính. Chúng tôi lạy chào hai lăng ấy, giữa lúc ấy thì có 8, 9 mụ đàn bà mặc quần áo đến nhẩy múa một lối riêng gần chỗ láng. Họ múa xong, thì chúng tôi trở lại điện chúa. Nhưng chỉ một mình ông Hartsinck được vào bệ kiến thôi. Chúa hỏi ông thỉnh cầu điều gì thì ông nói: “Những lệnh chúa đã truyền ra không được quan liêu tuân theo, nên xin chúa định cho một giá phải chăng để chúng tôi mua tơ, nhân thuyền chúng tôi chỉ đem có ít vốn đến thôi, chúng tôi mong chóng được về Đài Loan rồi chở bạc đầy thuyền đến mua tơ”.
Chúa truyền cho quan cai bộ trưởng trả lời rằng: “Cứ 15 fackaer tơ thượng hạng thì phải 1 fackaer bạc thật”. Chúa còn hứa từ mai sẽ báo cho nhân dân được buôn bán tự do với người Hòa Lan.
Chúng tôi bái tạ chúa xong thì chúa nhận ông Hartsinck làm dưỡng tử; các quan cai bộ đặt cho ông tên là Heyng Ihorgh (nghĩa là có độ lượng?). Chúa truyền ban cho ông Hartsinck một lá cờ để chuyến sau sang thì vào thăm các ông cai bộ được dễ dàng và ngược sông khỏi bị ngăn trở.
Chúng tôi xin phép tải ra ngoài 1, 2 thuyền gạo khi nào thương hội cần đến, chúa trả lời rằng chúa không ngăn cấm.
Ngày 16 tháng Năm. - vẫn phải cãi nhau với các ông cai bộ về giá tơ. Người Hòa Lan nói rõ ý định sửa soạn khởi hành chỉ để lại ba bốn người, để nhận chỗ tơ chúa bán. Chúng tôi nhắn viên thuyền trưởng cho đánh lên Kẻ Chợ một chiếc đò, kèm thêm hai khẩu súng.
Ông cai bộ trưởng ra lệnh cấm nhân dân mua hàng của chúng tôi.
Ngày 17 tháng Năm. - Chúa triệu chúng tôi vào. Đến trưa thì chúng tôi đi với bà Ouru san vào phủ, có tải theo hai mươi hòm bạc. Bạc đem cân: tệ quá, mỗi một... bạc, họ lấy dư ra một hai ms (maas?). Chúng tôi phản đối cũng chả ăn thua.
Chiều đến, chúa ngự ra điện, ăn yến và xem các vũ nữ ăn mặc xinh đẹp múa. Chúng tôi lại xin chúa cho phép - như chúa đã hứa - vào nhà dân gian để mua tơ cũng như người Nhật Bản. Chúa lại trả lời với bà Ouru san theo điệu cũ: “Chúa có cấm dân gian bán và có định giá tơ của dân và các quan cai bộ bán bao giờ đâu, chúa cho rằng người Hòa Lan ít kiên nhẫn, và còn nhiều thì giờ để mua tơ mà ngày nào dân cũng chở tơ mới quay được đến, chừng năm sáu hôm nữa số tơ đó sẽ nhiều vô số. Chúa cho rằng chúng tôi đáng lý ra phải vừa lòng rồi. Và chuyện tơ hãy xếp lại để bàn khi khác”.
Thượng đế làm cho tình thế chúng tôi tốt hơn. Ngày nào cả chúa lẫn các quan cai bộ cũng đem lời nói dối và nói gạt để chúng tôi tin. Và mãi sau này chúng tôi mới biết rõ kết quả của những sự phỉnh phờ ấy.
Tối đến thì trong phủ chong đèn và các vũ nữ lại múa; đến chín giờ thì chúng tôi kiếu từ về quán trọ. Chẳng thêm được điều gì về sự mua tơ, bây giờ chúng tôi mới biết chắc rằng hễ không làm cho quan cai bộ trưởng vừa ý, thì chẳng mua bán gì được cả; họ đã có ý định bán tơ giá thật cao cho chúng tôi thì ắt chúng tôi phải mua cao; họ nói thẳng ý định ấy ra, ít nhiều lần cho chúng tôi biết.
Ngày 18 tháng Năm. - Không có gì đáng chú ý. chúng tôi mua được ít thứ hàng.
Ngày 19 tháng Năm. - Chỗ 20 hòm bạc đem vào phủ cho các quan cai bạ cân, họ cân gian lên thành hụt hẳn đi mất 80G Nhật.
Quan cai bộ trưởng, là chủ nhà trọ của chúng tôi, cấm dân gian bán bất cứ thức gì cho chúng tôi.
Chiều nay, họ cân cho chúng tôi 50 tạ tơ sống, đóng thành 100 bó.
Tối đến thì chúng tôi điều đình ổn thỏa với quan cai bộ trưởng: cứ mười hòm bạc thì ông bán cho chúng tôi... [35]
Ngày 30 tháng Năm. - Mua bán bây giờ đã hơn trước. Quan cai bộ trưởng Taphay dạm bán cho chúng tôi; cứ ba hòm bạc này thì 1 fackaer bạc lấy 19 fackaer tơ. Chúng tôi nhờ bà cụ Basumano điều đình để mua tơ hạng nhì; chúng tôi đem 22 fackaer bạc họ đòi 23 fackaer chúng tôi không chịu. Bây giờ mới biết xứ này mỗi năm sản xuất được 3.000 tạ tơ sống.
Ngày 31 tháng Năm (lễ Pentecôte). - Chúng tôi cho chở xuống tàu to bốn đò hàng đã mua được.
Mồng 1 tháng Sáu. - chúa ra lệnh giải phóng những người Hòa Lan đã bị bắt trên sông Possin. Họ trả giá chúng tôi 6 lạng một tạ đồng và 2 lạng một tạ sắt. Nhưng họ không đả động gì đến chỗ súng đạn đã thấy trên thuyền cả.
Mồng 2 tháng Sáu. - Chúng tôi cho đò chở 14 người Hòa Lan ra tàu.
Chúa sai một viên cai bạ trẻ đến hỏi ông Hartsinck xem có phải:
1) Chúa Nguyễn đã nhượng lại cho chúng tôi cù lao Chàm; và có phải chúa Nguyễn đã đem 17.000 lạng bạc mua 150 hạt ngọc của chúng tôi không?
Chúng tôi trả lời: Không, những chuyện ấy là do người Bồ Đào bịa đặt ra cả.
2) Có phải chúa Nguyễn đã lấy tiền của chúng tôi không?
Chúng tôi trả lời rằng có. Năm 1633 chúa Nguyễn có cướp hết cả súng tiền trên chiếc “Yacht” De Kemphaan đắm ở gần cù lao Chàm. Sau chúa Nguyễn còn tịch thu hết cả chỗ bạc do bọn thủy thủ chiếc “yacht” Grootenbrock đắm ở đảo Paracelses, đã cứu được và đem vào xứ Đàng Trong.
3) Thương hội có còn đòi chúa Nguyễn chỗ bạc ấy nữa không?
Chúng tôi trả lời: Còn.
4) Thương hội có sẵn lòng giúp chúa Trịnh đánh nhau với chúa Nguyễn không?
Chúng tôi trả lời: Việc này phải do ông Toàn quyền của Thương hội ở Qua Oa quyết định.
5) Nếu chúa Trịnh thắng được chúa Nguyễn thì hội có còn đòi chỗ tiền ấy nữa không?
Chúng tôi trả lời: Vẫn còn.
Mồng 3 tháng Sáu, - Chúa Trịnh bảo chúng tôi nộp hai hòm bạc rồi sẽ có tơ; tơ thứ hạng xấu cứ một fackaer bạc thi ăn 16 fackaer tơ, để chúa vui lòng vì chúng tôi nói thứ tơ này mua của dân thì những 30 fackaer kia. Chúa không quyết định gì cả.
Mồng 4 tháng Sáu, - Chiếc galiore Bồ Đào, rời Kẻ Chợ bữa mồng 1 tháng Năm, bị đắm trong vùng Hải Nam 350 tạ tơ mất cả, nhưng thủy thủ thoát chết, các giáo sĩ lên bộ đi Áo Môn.
Từ mồng 5 đến mồng s tháng Sáu. - Mấy điều lặt vặt về việc buôn bán.
Mồng 9 tháng Sáu. - Chúa lại triệu ông Hartsinck vào phủ, hỏi lại những câu hỏi đã thuật trên kia và ông Hartsinck cũng trả lời như trước.
Mồng 10 tháng Sáu. - Chúa lại dạm bán tơ được, nhưng theo những điều kiện mà chúng tôi không nhận được. Chúng tôi được biết rằng chúa là một người ác và không đáng tin cậy. Người ta nghi rằng chúa vừa mới đánh thuốc độc em ruột chúa. Dân sự sợ chúa lắm.
Ngày 11 tháng Sáu. - Chúa Trịnh nhờ mấy người... làm môi giới để lấy ba hòm bạc; chúa dọa sẽ bắt giam... nếu chúa không lấy được bạc. Muốn chiều lòng chúa, họ gom góp được nghìn lạng và các quan cai bộ cũng thêm được nghìn lạng nữa, còn thiếu bao nhiêu thì họ yêu cầu ông Hartsinck góp vào. Thoạt tiên, chúng tôi không chịu và nhắc lại sự thiệt thòi. Chúa đã lấy mất 20 hòm bạc và trả bằng tơ xấu, giá đắt lòi con ngươi; hai ông cai bộ cũng lấy 10 hòm bạc và cũng trả tơ xấu. Tàu đến 40 hòm bạc thì đã mất 30 hòm rồi, phải để dành 10 hòm cuối mà mua tơ của dân sự chớ. Vả chăng, chúa vẫn còn nợ chúng tôi và chúng tôi không hy vọng lấy lại chỗ tiền thiếu ấy mà không khỏi bị thắt nghẹt. Điều đình mãi, chúng tôi phải để chúa vay số bạc, lãi 2 phân một tháng gốc và lãi sang năm sẽ giả, khi chúng tôi trở lại Đàng Ngoài. Chúng tôi đã tính phác rằng dùng tiền như thế sẽ được lãi 50, 60 phân nếu sang năm chúa trả chúng tôi cứ 20 fackaer là một hòm bạc. Nhưng chúng tôi ngờ vực sự thành thực của mấy người... lắm.
Ngày 12 tháng Sáu. - Chúng tôi viết thư cho ông thuyền trưởng bảo ông gửi 1.200 lạng bạc.
Ngày 13 tháng Sáu. -... Chúng tôi cố vận động để được yết kiến chúa hoặc các ông cai bộ. Nhưng không ăn thua. Một quan cai bộ trẻ đến thăm chúng tôi; chúng tôi bằng lòng giao cho ông hai hòm bạc và cho trả cứ 1 fackaer bạc là 20 fackaer tơ. Ông ta hứa với chúng tôi nhiêu điều lắm: năm nay chỉ có tơ xấu, nhưng sang năm tơ sẽ tốt hơn. Ông ta cho chúng tôi xem lệnh kỳ và ấn tín của vua. Ông phàn nàn về sự thất tín của... những người trung gian cần thiết trong sự giao dịch với dân sự. Ồng khuyên sang năm chúng tôi nên đem thông ngôn ở Đàng Trong ra hoặc nơi khác đến.
Ngày 13-28 tháng Sáu. - Hàng khuân hết lên thuyền lớn rồi. Chúng tôi giao thêm một hòm bạc cho Chúa.
Ngày 29 tháng Sáu. - chúng tôi vào phủ từ biệt chúa, chúa giao cho chúng tôi một bức thư cho ông toàn quyền của thương hội và ông trưởng hội ở Nhật Bản. Chúa giao cho chúng tôi một lá lệnh kỳ và một con dấu. Chúa lại yêu cầu hội giúp cho việc đánh bại chúa Nguyễn.
Chúa hứa hẹn với chúng tôi nhiều lắm.
Chúng tôi lại yêu cầu chúa tha những người Hòa Lan ra. Chúa bảo đã tha họ rồi.
Viên đốc công và người coi súng bị một bọn 30 người có khí giới đánh bị thương hôm nay.
Ngày 30 tháng Sáu. - Chúng tôi vào thưa quan cai bộ sự hành hung hôm qua; hình như chính quan cai bộ sai bọn thủ hạ của mình làm bậy. Ông chối nói không biết bọn hung đồ ấy và hứa sẽ nghiêm trị nếu bắt được chúng.
Người ta khuyên chúng tôi chớ làm đơn trình chúa vì không ăn thua gì đâu và lại làm chậm cuộc về của chúng tôi thôi.
Mồng 1 tháng Bảy. - Chúa giao tặng vật biếu ông Toàn quyền và ông trưởng hội bên Nhật Bản.
Mồng 2 tháng Bảy. - Ông Hartsinck rời khỏi xứ Đàng Ngoài.
Mồng 3, 5 tháng Bảy. - Đi đò xuôi sông và xuống đến thuyền lớn.
Mồng 6 thảng Bảy. - Viên đốc công bị mổ. Tính mệnh ông nguy kịch lắm.
Mồng 7 thảng Bảy. - Giương buồm.
Mồng 7 tháng Tám. - Sau 32 ngày thì hôm nay chúng tôi vào bến Hirado (Nhật Bản).
Dọc đường, không có gì đáng kể.