- 2 - Thắp một tuần hương
Tôi phải cố ghìm mình. Nếu không, tôi sẽ văng ra lời bất nhã và cũng có thể là sẽ thô bạo hơn: leo lên, giật đứt và đập tan cái loa kim công cộng treo ở góc buồng - vật bất khả xâm phạm của ông Tương Bằng, một người sống cùng một căn buồng tập thể với tôi. Cái loa léo nhéo ngày bốn buổi: sáng, trưa, chiều, tối; rặt những khi tôi cần nghỉ ngơi tĩnh lặng. Ồn ĩ lăng xăng ở cơ quan, phố xá suốt cả ngày rồi còn chưa chán hay sao!
Nhưng mà cuối cùng thì cái loa vẫn còn đó!
Ấy là vì, hễ cứ thấy ông Tương Bằng hiện diện một thân xác già nua, còm nhõm, là tôi lại động lòng và ngơ ngẩn: Đời một con người sao mà có lắm lần phân thân! Ông Tương Bằng, hai mươi năm trước, hiển hiện một trang thanh niên nước Việt khôi ngô, tuấn tú, ngời ngời một vẻ đẹp nam nhi! Praha, Matxcơva, Buđa-pext, Xôphia... trong những tấm ảnh đã ngả màu, tuyết mùa đông phủ trắng các ngọn tháp và tượng đài. Bên các bạn bè châu Âu mũi nhọn, tóc vàng, ông Tương Bằng sáng tươi gương mặt một chàng trai châu Á điển hình: tóc đen, mặt tròn, tam đình, ngũ nhạc phân minh, tinh tướng đàng hoàng sang trọng lắm! Ông Tương Bằng, một tên tuổi trong các tổ chức công đoàn thế giới, một người có danh vọng, bậc tai mắt của xứ sở, giờ sao lại có cái hình dong thảm hại thế này: Mặt tóp, mũi khoằm, mắt quằm quặm, đã thấp bé còi cọc lại hơi gù, còn phong độ tính tình thì lắm lúc như một chú hề, như một lão già dở tính, vừa nhâng nháo thô vụng, vừa tinh ranh, cổ quái lạ lùng.
Tôi về nhận việc ở cơ quan này, và vừa được phân về ở cùng một buồng với ông trong khu tập thể, đã có người rỉ tai: “Này, ở với lão già ấy thì nhớ thực hiện ba đừng. Cụ thể là: Đừng bao giờ mua bán hộ. Đừng bao giờ cho vay cho mượn bất cứ cái gì. Và đùng có trò chuyện nhỏ to tâm sự với lão. Lão bủn xỉn, có tính gian, hay thóc mách và lố bịch lắm!”.
Quả nhiên, vừa thấy mặt tôi, ông Tương Bằng đã lên mặt cha chú, hất hàm hỏi tuổi tôi, rồi buông một câu thật khinh nhờn: “Còn kém tuổi con gái tớ!” Tôi im. Với các vị cao niên, các bậc lão thành cách mạng tốt nhất là kính nhi viễn chi.
May là tuy ở cùng buồng, nhưng tôi và ông Tương Bằng ít khi giáp mặt nhau. Tôi đi làm thì ông ở nhà. Ngoại trừ buổi đêm, còn tôi về buồng cũng chẳng mấy khi gặp ông. Ông đã quá tuổi hưu trí, giờ đang nghỉ chế độ, làm thủ tục để lĩnh sổ. Thực ra thì ông phải nghỉ hưu cách đây bảy, tám năm rồi. Nhưng có khúc mắc gì đó nên cứ dầy dưa lần lữa, nửa như chờ nghỉ, nửa như vẫn còn đang đi làm. Và tiếng là đang nghỉ chế độ mà cứ bận rộn hết việc này đến việc khác, cứ như là đang còn tại chức vậy. Ông đi suốt. Đến bệnh viện khám sức khỏe tranh thủ lĩnh ít thuốc bổ thì chẳng nói làm gì. Bận rộn là gần như ngày nào ông cũng có việc đến gặp hết vị chức sắc này đến ngài thủ trưởng đơn vị kia, và trở về thì mặt mũi lúc nào cũng đầy khí giận, chí ít cũng rầu rĩ bực dọc, không hề có cái vẻ thảnh thơi của người đã hoàn tất trách nhiệm, giờ thong dong hưởng thụ sự thanh nhàn.
Mỗi người mỗi việc, mỗi tuổi mỗi tính, tôi mặc ông. Kể cả những lúc ông gây điều khó chịu cho mình. Chẳng hạn, ông rất hay tọc mạch dò hỏi quan hệ của tôi với Giang, nữ bác sĩ. Chúng tôi yêu nhau là phải tường trình với ông chắc? Chẳng hạn, đêm chẳng mấy khi ông yên giấc. Khậm khoặc ho. Khạc nhổ hên hổi. Rên rẩm và nói mê ầm ĩ. Hút thuốc lào sòng sọc. Đánh trung tiện liên tục. Chưa kể mỗi đêm là bảy tám lần đái tồ tồ vào cái bô để ở gầm giường. Gầy còm, nhưng ông ham ăn và ăn khỏe lắm. Lót dạ phải hai gói mì tôm. Mỗi bữa một bò rưỡi gạo. Ông sống chẳng mấy khi yên ổn với mọi người. Vài ngày, buồn thế, tôi lại phải chứng kiến một cuộc đôi co, thậm chí cãi cọ đến mức văng tục giữa ông và một đồng nghiệp. Mà toàn là chuyện nợ nần, vay mượn nhau từ đời tám hoánh nào; ông nói thế này, bà nói thế nọ, chẳng bên nào chịu bên nào. Phiền não hơn là không mấy khi ông yên lặng. Ông nói suốt, nếu không phải là lúc sau bữa cơm, nằm ngửa trên giường, tay lót gáy, mắt lim dim nghe loa. Ông nói xấu, rủa xả, chê trách hết người này đến người khác. Mà toàn là bạn bè cùng trang lứa một thời, nhưng giờ đây đã thoái hóa biến chất, thành tên cơ hội, đứa vong ân bội nghĩa, thằng ăn cướp, lũ lừa thầy phản bạn, đểu giả ba que...
Già quá hóa trẻ... con. Đó là lúc các khuyết tật thời trẻ được dịp tích tụ. Đó cũng là lúc nhầm lẫn và u mê. Nghĩ loáng thoáng vậy, lại cũng là kẻ lâu nay đang tập trung vào công việc viết lách, thêm nữa, suy cho cùng quan hệ tôi và ông chẳng qua là sự ghép đôi mang tính ước lệ trong một không gian mười mét vuông trong chốc lát chứ có gì là quan trọng mà phải quá phiền lòng. Nghĩ vậy, nên cuối cùng mọi sự khó chịu cũng qua; cuộc đời nên chăng, cán coi như là một vở hài kịch được xem không mất tiền?
Khó chịu cuối cùng có chăng chỉ còn là cái loa kim!
Cái loa kim, di vật cuối cùng của một thời nghèo khổ, một thời coi trọng sự truyền thông đại chúng và tính đồng nhất tuyệt đối của đời sống tinh thần.
Cái loa kim bắt vào đường dây trực tiếp của đài phát thanh thành phố biết rằng mình sắp hết thời rồi hay sao là dạo này nó hùng dũng và to tiếng khác thường thế! Năm giờ kém mười lăm sáng, trời còn nhá nhem mà nó đã khua tôi dậy trong tiếng nhạc hiệu đinh tai nhức óc của nó. Khổ nữa là từ năm giờ chiều đến mười một giờ đêm là lúc tôi cần yên tĩnh để chìm vào dòng tư duy sáng tạo; mà ác cái, tai không như mắt, có thể nhắm mắt làm ngơ.
Tôi cằn nhằn với ông Tương Bằng:
- Hồi còn chế độ bao cấp, cỡ cán bộ như bác hẳn là đã được mua đài theo giá cung cấp chứ ạ?
- Hẳn rồi! Tớ được mua những bốn cái kia. Ôriôngtông. Mẫu đơn. Xiêngmao. Naxionan.
- Sao bác không đem ra mà nghe?
- Tớ bán rồổi! Tốn tiền pin lắm!
Hừ, có đài cung cấp, bán đi để nghe loa công cộng, để khỏi tốn tiền mua pin! Ông khôn, tôi cũng chẳng dại. Bắc ghế lên, tôi dùng kéo cắt béng một đoạn dây, vứt đi. Thấy loa mất tiếng, ông lập cập leo lên ghế, lần mò tìm ra nguyên nhân, rồi lọ mọ đi xin dây, nối lại. Cáu sườn, tôi cầm cái dùi thọc bậy vào lòng loa. Ông lại leo lên, kiểm tra dây dợ, gõ gõ một chập, áp tai một hồi, không thấy tiếng liền gỡ xuống, cuốc bộ hai cây số đến Đài Phát thanh thành phố yêu cầu sửa lại.
Năm lẩn bảy lượt như vậy, kết cục kẻ thua cuộc là tôi. Cái loa lại oang oang. Đam mê quả là một sức mạnh vô địch thật!
Thật điềm tĩnh và khách quan dõi theo, mới biết ông Tương Bằng gắn bó với cái loa - gắn bó với thế sự mật thiết đến dường nào. Cứ tưởng ông chỉ chú tâm đến những điều lặt vặt xảy ra hàng ngày quanh mình, nào ngờ ông nhập tâm chẳng sót một tin tức, một bài xã luận, một thông cáo nào đã phát trên đài. Ông chửi rủa thật độc địa Pinôchê độc tài và lên án gay gắt tổng thống Mỹ đương thời không chịu hủy bỏ lệnh cấm vận với nước ta. Ông xúc động vô cùng trước thảm họa núi lửa ở Philippin bỗng nhiên hoạt động trở lại. Và viết thư cho đồng bào Sơn La, ông chia buồn về cơn hồng thủy vừa tàn hại vùng này. Ông bàn luận về biến động chế độ chính trị trên bình diện thế giới và đề xuất một đề án chấn chỉnh quy mô tầm cỡ vũ trụ. Ông viết bài hưởng ứng các cuộc thi tìm hiểu về luật Công đoàn, về lịch sử Đoàn Thanh niên, về Hội Phụ nữ. Ông quan tâm đến tin trẻ lạc và người điên mất tích. Đặc biệt hễ có dịp là ông viết bài bày tỏ quan điểm tư tưởng, bênh vực điểu này, phản bác luận điểm kia rất hăng hái. Vài ngày ông lại hoàn thành một bài báo để gửi báo này, tạp chí nọ. Chỉ tiếc, chúng chẳng có được một hổi âm. Cáu tiết, ông chửi vung: “Mẹ chúng nó chứ! chúng nó quên mình là ai rồi!”. Cáu vậy, chửi bậy vậy, nhưng ông không thối chí. Ông là sản phẩm đích thực của cuộc sống đầy phong ba bão táp của xã hội ta mấy chục năm qua. Ông phản ánh tập trung nhất đặc điểm tinh thần của mỗi cá thể chúng ta: Ông là cách mạng gia, là nhà chính trị nòi, ông nảy sinh từ cái gốc cắm sâu vào các phong trào, các cuộc vận động xã hội. Đời ông đã được định hướng. Ông như con tàu đã được đặt trên hai thanh ray. Giờ, con tàu chỉ việc chạy, chạy theo thói quen, theo quán tính đã ăn sâu vào máu thịt, đã trở thành một bản thể tự nhiên, không thể khác được, chạy, dẫu có tàn hơi kiệt lực cũng cứ chạy.
Quán tính là một sức mạnh vô hình, nó có sức chi phối đến mức ông Tương Bằng không tự biết. Nghỉ việc, sửa soạn nhận sổ hưu rồi, ra khỏi quỹ đạo của chức trách rồi, vậy mà cứ dăm bữa nửa tháng, ông lại nai nịt gọn gàng, đeo cái ba lô lên vai, xách chiếc cặp da trên tay, trịnh trọng bảo tôi: “Này, có ai hỏi thì cậu bảo: tớ lên làm việc với Thủy điện Hòa Bình. Ai gửi cái gì thì cậu nhận, giữ hộ nhé!”. Lâu dần, hết cả ngạc nhiên, tôi chỉ còn tủm tỉm cười thầm.
Ông Tương Bằng sống theo quán tính, tự tạo hư giác cho mình mà không hay. Còn tôi, tôi sống theo trực giác đời thường. Ông ra khỏi nhà là tôi ngắt dây loa và phôn ngay cho Giang.
Giang, nữ bác sĩ, xinh đẹp cỡ hoa hậu quận, người yêu của tôi đã hai năm nay. Cơ hội và địa điểm gặp nhau thật hiếm. Chín muồi để nên vợ nên chồng rồi mà vẫn không thành hiện thực, chỉ vì chúng tôi không một chốn nương thân. Giờ, vắng chúa nhà gà vọc niêu tôm, ông Tương Bằng đi vắng, chúng tôi đã có một giang sơn riêng.
Giang dắt chiếc xe Honda 81 đời chót vào, khóa cổ xe thật cẩn thận xong là tôi kéo nàng đến bên giường. Thôi thì tha hồ. Chúng tôi quấn lấy nhau. Tôi vốn là kẻ háo sắc. Còn Giang, học ở Pháp về, tính âm mạnh mẽ, cách sống hiện đại có thừa. Làm đủ trò yêu đương cho thỏa nỗi nhớ mong xong, chúng tôi mới bắt đầu công việc nhóm bếp dầu nấu ăn.
- Ông Tương Bằng đi Bắc Thái mấy hôm, anh?
- Một tuần.
- Thú vị nhỉ. Ông ấy bao nhiêu rồi mà vẫn chưa chịu về hưu?
Tôi đáp. Giang đưa tay vén tóc mai, khuôn mặt mảnh mai hoáy nhẹ một núm đồng tiền:
- Người đâu mà dại thế! Năm tháng còn lại được bao nhiêu lâu nữa đầu!
- Em nói thế nào chứ, anh thấy ông ấy còn khỏe, còn hăng hái lắm! Giang lắc đầu, lạnh lùng:
- Gặp ông ấy vài lần, nhìn thoáng qua là em biết chứ. Cách đây mười hai năm, ông ấy đã mổ tim. Quá date rồi! Giờ, lục phủ ngũ tạng thảy đều đã suy. Thiên quý đã hết nên râu tóc bạc cả. Gân xương rã rời, đi đứng đâu còn vững. Anh có để ý không, ấn đường ông đã có dấu vết hôn ám. Em lo ông thọ chẳng được bao lâu nữa đâu!
Trời! Nói về cái chết của một người mà sao giọng lại nhẹ tênh và giá lạnh thế! Nhận ra cái rùng mình của tôi, Giang mỉm cười:
- Sao, anh sợ à?
Tôi im lặng. Nhìn Giang, bỗng thấy hàm răng trắng lóa đều tăm tắp của Giang và đôi mắt rất đẹp của Giang sao lạnh tanh vô cảm thế.
- Hôm nay em vừa mổ chết một lão già tám mươi. - Giang nói tiếp: Đã bảo mổ là chết mà người nhà không nghe. Thành ra, động dao vào, đóng bụng lại là chết ngay. Trách ai được!
Không để ý tới cơn run rẩy chạy dọc sống lưng tôi, Giang nhìn quanh căn buồng như đo đạc kích thước của nó, rồi nhìn tôi, nhoẻn cười:
- Ông Tương Bằng mà chết thì anh được ở cả căn buồng này nhỉ!
Nhìn tôi chớp chớp mắt quay đi, Giang tiếp, giọng vẫn tênh tênh:
- Anh đã nghe chuyện ông nội em và bố em chưa? Cả hai đều mệnh thiên y, đúng giờ ngọ mỗi ngày, gọi từng người trong gia tộc đến, xét đoán người này người nọ thọ yểu ra sao, chính xác từng ngày từng giờ. Em được hưởng cái tiên thiên bẩm sinh của hai cụ, và đi vào ngành y là theo hướng nghiệp của các cụ đấy. Để em đoán vận số của ông bạn già cùng buồng với anh nhé...
Tai tôi ù ù như có gió thổi. Nỗi sợ khiến tôi tê liệt cả thính giác. Xung quanh tôi là cái chết mênh mông.
Thính lực của tôi phục hổi hoàn toàn khi tôi nghe thấy tiếng chân bước trở về của ông Tương Bằng; và sau đó nhận ra bóng hình ông còm cõi lẩy bẩy trên cái ghế đẩu đang nối lại sợi dây loa trong buồng. Chiếc loa lại kêu oang oang trong tiếng ho khục khoặc đầy đờm dãi của ông. Đợt đi này ông hao tổn nhiều sức lực quá. Ông viêm họng, ngây ngấy sốt. Lại thêm bàn chân trái bong gân vì bước trượt trên cầu tàu, sưng u, đỏ tấy.
Ám ảnh về phán định của Giang, khiến tôi không khỏi không lo lo cho ông. Nhưng, thật may, tôi đã thở phào. Giang của tôi nói vậy là nói trên đại thể thôi, chứ sống là khó mà chết cũng đâu có phải là trò chơi dễ dãi của tạo hóa! Con người ta còn ẩn tàng một năng lực sống, một năng lượng chống trả cái chết nữa, chứ đâu có yên phận một bề. Thanh minh cho thái độ vô tâm của Giang, tôi sung sướng vì nhận ra, sau ba ngày khặc khừ, thậm chí cơm không một hạt, li bì, lệt bệt, tưởng phải đưa vào bệnh viện cấp cứu, ông Tương Bằng như nhận được phép thần, đã khỏe mạnh trở lại. Ông Tương Bằng đã khỏe mạnh trở lại như thường khi. Thả vào cổ họng mấy viên thuốc cảm xuyên hương lẫn với kháng sinh ămpixilin và chục viên vitamin C và B1, đơn giản vậy thôi, ông đã trút hết bệnh tật ra khỏi người, như ta cởi bỏ một bộ quần áo bẩn đang mặc vậy. Ông lại như mọi ngày. Lại cười khề khề: “Tớ trước nay, kể cả thời lặn lội trong rừng Việt Bắc, sốt rét rung lán trại, cũng không bao giờ nằm quá một tuần”. Ông Tương Bằng lại nghe đài. Lại bàn luận mọi việc. Lại viết, lại sống hăm hở theo cái quán tính đã nhập vào ông, đã dẫn dắt ông bấy lâu.
Không thể quan niệm được một ông Tương Bằng khác với chính ông. Ông trung thành với chính mình. Trước sau ông vẫn là một chính trị gia, một nhà cách mạng chuyên nghiệp. Và hẳn là ông nghĩ, nếu ông không tiếp tục những công việc ông đã từng làm thì đời ông sẽ rất vô vị, sẽ rỗng tuếch, sẽ chẳng có nội dung gì cả. Chả nên khắt khe với ông. Chỉ có điều đáng buồn là khi đã ra khỏi guồng máy rồi thì ông coi như đã bị loại thải, chẳng còn có cơ hội thi thố tài năng và biểu hiện cái bản thể đã được hình thành, ngoài những công việc lặt vặt ở khu tập thể cơ quan, nơi ông tá túc những ngày đã về hưu. Vâng, những việc lặt vặt bàn cả đời không hết. Như chuyện dạy dỗ con trẻ, phòng chống mất cắp, giữ gìn an toàn trật tự vệ sinh, xây dựng gia đình văn hóa mới...
Ông Tương Bằng nổi lên như một nhân vật quan trọng số một trong những cuộc họp dân phố bàn bạc những chuyện lặt vặt ấy. Ông đến sớm. Ngồi ở hàng ghế trên. Bao giờ ông cũng là người phát ngôn đầu tiên. Và không chỉ nói một lần. Ông nói như lâu nay bị triệt khẩu. Giọng the thé và quyết đoán. Lại kèm các động tác vung tay, đảo mắt, đánh vai, lắc đầu. Ông sống lại trong các hồi ức một thời chuyên đứng trên các bục diễn giảng, hô hào, cổ động, đọc diễn văn. Mê man trong hoài niệm, nên mặc dấu cử tọa chỉ là các bà nội trợ, ngồi nghe mà tâm trí để hết vào chuyện chợ búa, giá cả hoặc đường kim đan len... và chỉ là một đề tài cỏn con như việc cấm để chó thả rông, hoặc việc xích mích giữa hai hộ trong việc tranh nhau hứng nước máy, ông cũng tràng giang đại hải, cao đàm khoát luận cả nửa tiếng đồng hổ. Gặp phải cuộc họp có anh thích đùa dai, nó vờ vịt phản đối ông, hăng tiết lên, ông lại tiếp tục hùng hồn một cách không đúng chỗ, không biết là mình đang làm trò cười cho thiên hạ.
Quán tính suy cho cùng cũng là một sức mạnh tối tăm. Tính ái kỷ lại là sức mạnh truyền thống của những kẻ quen hoạt động trong phong trào. Và chỉ cần quá đà một chút là họ đã trở thành một kẻ dị dạng, một ca bệnh lý tâm thần, một bức tranh biếm họa tự vẽ mà không biết.
Khổ thân ông Tương Bằng, người bạn cao niên sống cùng một căn buồng với tôi. Ông Tương Bằng ơi! Lý thuyết nhân sinh đang phổ biến quan niệm rằng: đời người nên chia làm ba giai đoạn. Từ lên một đến tuổi hăm nhăm là thời kỳ tích lũy dục vọng. Từ hăm nhăm đến ngũ tuần là giai đoạn sục sôi thực thi dục vọng. Còn sau khi đã qua tuổi tri thiên mệnh rồi thì dứt khoát là phải bước vào thời đoạn giải tỏa dục vọng, tĩnh tâm dần dần, trở lại với vô vi. Cổ xưa thiếu gì gương sống. Đạo làm người quan trọng nhất là ở chỗ biết mình là ai và đang sống ở thời điểm nào. Ra sân khấu lúc nào và khi nào thì rút vào hậu trường là cả một nghệ thuật lớn. Nhầm lẫn lớn nhất một đời người là nhẩm lẫn về thời gian. Tài cán dẫu có được thiên phú thì cũng chỉ là hữu hạn trong vòng trời đất khôn cùng mà thôi. Ham hố cũng chẳng được. Mê muội càng không nên.
Ông Tương Bằng sắp vào tuổi cổ lai hy rồi sao không hiểu điều sơ giản ấy! cho rằng lý thuyết nhân sinh ấy là cổ giả, phản động thì cũng phải tính đến một thực tế sờ sờ là: ông còn đâu sức lực nữa mà theo đòi dục vọng. Mỗi ngày ông hao kiệt thêm một tý. Cái cơ thể đếm được hai trăm linh sáu cái xương lớn bé của ông, ít nhất cũng có đến hai căn bệnh có thể gây đột tử tức thời: trái tim sau hơn chục năm giải phẫu sửa chữa đã đến lúc ọp ẹp, và căn bệnh huyết áp cao là tử thần sẵn sàng kết thúc đời ông vào bất cứ lúc nào. Chưa kể, những căn bệnh mãn tính tiềm tàng ở ông, như đau dạ dày, phì đại tuyến tiền liệt và đái tháo đường...
Nghĩ vậy nên càng lúc tôi càng hoang mang trước những chứng nghiệm suy đoán nghe ra không phải không có lý của Giang. Nhất là gần đây, có lúc thấy ông đang nói, bỗng ngắc lại, ứ nghẹn hàng giờ. Đó là theo Giang nói, lưỡi ông bất thần bị rụt lại do gốc bệnh có ở tâm thần. Mỗi bữa ăn, ông mắc nghẹn đến vài lần. Nhiều hôm trở trời, thấy ông nằm liệt hoặc ngồi thừ lừ ôm cái mặt bỗng dưng ứ huyết trở nên húp híp như phù nề - cơn dở chứng của con tim đau yếu, nghĩ đến lời cảnh báo của Giang, tôi không khỏi kinh hoàng và xót xa!
Bác Tương Bằng ơi!
Một đời người mấy ai được như bác đầu. Mấy ai mới hăm mốt tuổi đầu mà đã đảm nhiệm nổi chức trách chủ nhiệm tỉnh bộ Việt Minh một tỉnh lớn ở đồng bằng Khu Ba. Hăm hai tuổi là Bí thư tỉnh ủy, chỉ huy cuộc kháng Pháp suốt một rẻo biên giới Lao Cai - Hà Giang. Rồi lẫm liệt trong vai tướng soái, đứng đầu bộ tư lệnh tiễu phỉ, đập tan âm mưu gây phản loạn của hai tên đế quốc đầu sỏ Pháp - Mỹ cùng lũ chúa đất thổ ty. Suốt mười năm trai trẻ đứng vững trên cương vị chủ tịch tỉnh trong tuyến đầu chống Mỹ ở một địa bàn trọng yếu sát nách thủ đô đâu phải là ai cũng có thể đảm trách được! Cũng có được mấy người như bác vào tuổi trung niên đã hoàn thành trọng trách nhiệm vụ đối ngoại của một đoàn thể lớn là tổ chức công đoàn. Đi công tác nước ngoài liên tục như con thoi trên khung dệt. Trước đối phương gian ngoan, xảo quyệt thì tỉnh táo, sắc bén và vững vàng; trước cám dỗ và sa sẩy không một lời ong tiếng ve; gương trung thành, liêm chính vằng vặc như gương treo giữa trời. Huân chương, huy chương đeo phải đầy ngực. Công tích đáng hạng danh nhân đất nước. Giờ đây, dẫu có một tuổi già vô dụng như mèo già vuốt cùn răng rụng thì cũng chẳng có gì mà phải ngượng ngùng tủi hổ cả. Bác có thể cứ an nhiên sống đúng với tuổi tác, không việc gì phải gắng gượng lên gân lên cốt, để mất đi cái tự nhiên, vốn là điều quý giá của đời người!
Chao ôi! Tôi biết, dẫu có vang lên bên tai ông Tương Bằng cả ngàn lần những lời vừa nói trên thì cũng vô ích thôi! Làm sao mà có thể ngăn cản nổi cái đà xung trận, nhập cuộc của ông; ghê gớm thay, nó cũng đã trở thành một sức mạnh không cưỡng lại của tự nhiên rồi.
Thế đấy, ông thợ mộc làm việc ở xí nghiệp, sáu mươi tuổi về hưu, vẫn cứ là cầm cưa đục được đi! Cũng vậy thôi, ông thợ điện, thợ xây và cả ông nhà văn nhà thơ nữa. Ai cấm họ hành nghề khi vào tuổi hưu trí. Oái oăm thay cái lẽ tự nhiên ấy lại thiếu hẳn đi yếu tố tự nhiên ở ông Tương Bằng. Là bởi vì, thợ mộc thì có cưa đục. Nhà văn thì có bút mực. Còn ông Tương Bằng, nhà cách mạng chuyên nghiệp tiếc thay về hưu lại tay trắng, nghĩa là ông chẳng còn có công cụ nào trong tay cả. Không có công cụ trong tay nhưng thói quen ham mê điều hành chỉ huy người khác thì lại là một ám ảnh lâu dài, không dễ gì dứt bỏ được.
Ông Tương Bằng vẫn một nếp sống không thay đổi. Một hôm, sau ba ngày đi vắng, trở về căn buồng của tôi và ông, nhìn thấy chiếc Honda 81 của Giang gửi ở góc nhà, ông liền lừ mắt một cái, rồi nằm lăn ra giường:
- Thật là chó chứ không phải là người nữa!
Đang đọc sách, nghe tiếng ông quát gằn, tôi giật thột mình, quay lại:
- Có chuyện gì đấy, bác?
- Đúng là chó chứ không phải là người!
Vừa hết câu, ông liền vùng dậy, tay nắm cái cọc màn, để khỏi chuệnh choạng, rồi hổn hà hổn hển:
- Tôi nói là nói cái thằng ấy đấy!
- Thằng nào, hở bác?
- Cái thằng đeo kính trắng, trông rất là thư sinh mà chó má, cái thằng hôm rồi nó vừa đến đòi nợ tiền tôi ấy!
Thấy tôi im lặng, vẻ như tảng lờ, không muốn đẩy vào câu chuyện, ông liền tiến về phía tôi, hạ giọng:
- Để tôi kể cho cậu nghe. Cái thằng ấy, hồi tôi làm bí thư tỉnh ủy, nó chỉ là thằng phó bí thư cấp huyện, sau thấy nó có khẩu khiếu, tôi mới đưa nó vào thường vụ tỉnh, cho nó phụ trách tuyên giáo. Cái thằng ấy vừa rồi nghe tôi nói định phát đơn kiện mấy cha tỉnh ủy nọ dính tay vào đồng tiền bát gạo của dân, nó liền trừng mắt hỏi tôi: “Liệu bác có đủ đạn không mà theo đòi vụ kiện?”. Một thằng thường vụ mà ăn nói thế thì có đúng là chó, là lưu manh không, hả cậu? Nhưng mà cậu ơi, thằng cha ấy giờ chết mẹ nó rồi. Chết mẹ nó rồi!
- Chết rồi?
- Thì chết rồi, chứ sao! - Ông Tương Bằng nhệch miệng đầy vẻ khoái trá rồi xìa môi - Tiên sư các anh! Anh nào định từ bỏ lý tưởng thì hãy trông gương thằng này! Thằng này chết vì con đĩ Lộc đấy! Con đĩ Lộc là con đĩ thập thành ở tỉnh tôi, nó có cả tá nhân tình, nhân ngãi. Vừa rồi thằng chồng nó lăn cổ ra chết vì sốc ma tuý. Thế là lập tức thằng cha này sán lăn vào. “Anh sẽ từ bỏ tất cả để làm nô lệ cho em”. Nó tuyên bố thế đấy, cậu xem có tởm lợm không?
Vung cao tay, mặt bừng bừng như hơ lửa, ông Tương Bằng cao giọng, pha chút hả hê:
- Nhưng mà lần này thì ông con giời chết mẹ nó rồi! Chết vì sao, cậu biết không? Cùng với con đĩ này cầm đầu một đường dây buôn bán ma túy xuyên quốc gia. Cả hai đang bị công an theo dõi từ lâu và hôm qua vừa có lệnh khám nhà. Chưa hết, nghe đâu, anh chàng còn dính hát y vê ết nữa mới bỏ mẹ cơ! Ha ha... Tiên sư anh! Anh từ bỏ lý tưởng. Anh đặt lờ con đĩ Lộc lên bàn thờ. Anh chết vì cái lờ của nó thì khốn nạn cái thân dê chó của anh rồi. Ha ha... Nhưng mà kìa, cái loa kim, tại sao lại không kêu?
Đang hào hứng trong phấn khích, như sực nhớ, nhà cách mạng về hưu chợt dừng lời và nhìn lên góc buồng, nơi treo cái loa kim đang nói bỗng tậm tịt, quát to:
- Không được! Phải lên tiếng tố cáo, phê phán, lên án, cảnh tỉnh. Phải dóng lên hồi chuông báo động sự xuống cấp nghiêm trọng của đạo đức! Cậu có đồng ý với tôi không? Đổng ý hả? Bắt tay cậu một cái nào!
Cái bắt tay là nhịp cầu giao lưu thân tình đã được bắc qua quan hệ giữa tôi và ông Tương Bằng. Từ hôm đó, thôi thì chẳng còn thiếu gì chuyện ông kể cho tôi nghe. Một ông bạn đương chức dẫn gái điếm về nhà bị bắt quả tang. Một chiến hữu làm chủ nhiệm hợp tác xã tín dụng bị bắt vì tham ô một tỉ đồng, vào tù, bị bọn đầu gấu lột truồng ra làm nhục. Bạn ông, kẻ trốn chạy ra nước ngoài vì xù nợ bạn bè; người bê tha sống trác trụy với bồ bịch. Đồng chí ông, kẻ bỏ rơi các giá trị tinh thần, quay về với cuộc sống sùng bái đồng tiền. Người phản bội đồng nghiệp, ngang nhiên chà đạp lên luân thường đạo lý. Cả một trang lứa, một lớp người nếu không sa sút về phẩm cách thì đang qua ngày trong trạng thái bàng quan mũ ni che tai, hoặc buồn nản, vô vọng, thây kệ mọi sự! Cuối cùng, chỉ còn lại mình ông tả xung hữu đột, chống chọi với mọi sự suy đồi, giữ trọn đạo lý, kỷ cương lề luật cuộc đời!
Một hôm, ông đi viếng một đám tang về. Thấy ông lử lả, tôi hỏi, ông thều thào đáp:
- Khốn nạn! Bố ngủ với con gái. Bị phát hiện, thắt cổ tự vẫn. Thế đấy! Ra khỏi chức vị một cái là trở thành chó má ngay!
Mùa đông về với ngọn gió lạnh thở dài thê thảm.
Dần dà tôi nhận ra, đã phai nhạt dần vẻ biếm họa trong chân dung ông Tương Bằng. Phần vì ông bỗng trở nên ít nói hẳn đi. Phần vì sức khỏe ông sa sút trông thấy. Không còn những ngày đi xa với công kia việc nọ tự mình bày đặt ra nữa. Ông quẩn quanh ở trong mấy căn nhà ở khu tập thể. Đi lại một lúc một khó khăn. Leo thang gác chỉ mươi bước là dừng chân, thở dốc. Mặt thi thoảng lại đỏ rửng như sung huyết vì cơn kịch phát của áp huyết tăng.
Đêm ấy, ông đi nằm từ lúc chập tối, vì ngực bỗng thấy đau thắt và các khớp gối thì tấy đỏ và rất nhức nhối. Tôi nằm, không ngủ được, phần vì nghe tiếng ông rên, phần vì cơn xung khắc xảy ra hồi chiều với Giang. Chiều, Giang đến lấy chiếc xe Honda 81 gửi từ hôm nàng đi biệt phái vào Thanh. Dắt chiếc xe ra sân, lật yên xe lên Giang bỗng hoảng hốt kêu: “Cái nắp bình xăng đầu mất rồi?” Tôi lật đật chạy ra. Mặt Giang tím tái. Tôi ngu ngơ. Ai lấy cái nắp bình xăng ở xe của Giang? Chả lẽ lại là tôi? Chả lẽ một tên kẻ trộm nào đó đã lọt vào căn buồng của tôi và ông Tương Bằng chỉ là để lấy cắp cái nắp bình xăng? Mắt Giang lừ lừ. Con mắt lạnh như băng, có sức thấu thị siêu phàm, có thể nhìn thấu tới vận số của con người, có thể soi tỏ tới đáy tâm địa con người. “Hơn chục nghìn đồng cái nắp bình xăng đấy, ít của à! Kẻ nào lấy của tôi, trời hại nó!”. Buông một lời rủa độc, Giang quay ngoắt dắt xe đi. Tôi tê điếng cả người.
Nửa đêm, thiếp đi trong chốc lát, tôi bỗng thức giấc.
- Cậu Thược ơi...
Ông Tương Bằng vừa cất tiếng khàn khàn mệt nhọc gọi tôi, sau khi vất vả lắm mới chống tay ngồi dậy được và đang khua chân tìm dép.
- Có chuyện gì thế, bác?
Tôi phắt ngay dậy, nhận ra ngay tiếng ông già nghe là lạ; và đưa mắt, tôi nhận ra, ông hiện lên trong một hình khối u uẩn lờ mờ, tay đang lập cập mở chiếc nắp cặp lồng nhôm rỗng không.
- Tôi thấy... khó ở quá! Nhưng mà... cậu có còn gạo không? Hay là mì ăn liền cũng được!
Chỉ thoát ra được từng ấy câu đứt nối, ông Tương Bằng đã lại nằm vật xuống. Khổ, ông vừa ốm lại vừa đói! Đói! Không! Cảnh ngộ còn bi đát, thảm thương chua chát hơn bội phần. Ông đâu chỉ có già yếu bệnh tật và hoang tưởng. Ông còn nghèo khổ, khánh kiệt nữa. Gia sản ông đã cạn kiệt cùng sức khỏe và năng lực của ông. Ông thất thế lạc loài, cô đơn giữa dòng thác tàn nhẫn của lịch sử xưa nay vốn ghẻ lạnh với các số phận cá nhân khi đã hết vai trò. Cái đinh ốc làm gì còn có giá trị khi rời khỏi cỗ máy. Giờ đây, sau mấy chục năm trường dâng hiến toàn bộ sức lực và tài năng cho lý tưởng, ông chỉ còn lại một thân xác già nua, ốm o, nghèo khổ và đơn độc; ông chỉ là một thứ đồ đã bị loại thải.
- Bác cứ nằm nghỉ đi. Để tôi nấu bát mì cho bác ăn.
Tôi vội vã nhóm bếp dầu, trong nỗi nghẹn ngào bất nhẫn. Và lát sau, ông ngồi dậy, đón bát mì nóng hổi từ tay tôi, khe khẽ rên: Cám ơn cậu. Nhưng mà sao cậu nấu cho tôi nhiều thế? Những hai gói milikét cơ à! Ông đang ở trong cơn sốc tim mạch. Nhưng cảm giác đói ở một cơ thể ham sống, đòi sống đã chế ngự ông gay gắt hơn. Ông đói đã hai ngày. Gạo hết. Tiền không. Giờ, ông khua đũa vào thành bát. Ông và, ông lùa cả búi mì tướng vào miệng. Ông húp sụp soạp. Ông nuốt ừng ực. Rồi sau khi rên to một tiếng mãn nguyện, ông đặt cái bát sạch trơn xuống mép giường và nằm ạch xuống chiếu.
- Bác còn ăn được nữa không?
- Thôi, no lắm rồi. Cám ơn cậu!
Vừa dứt lời, tôi chưa kịp quay đi, thì khủng khiếp quá, ông đã nhoai người ra cạnh giường, oằn lưng, thót bụng, há miệng nôn thốc nôn tháo một hồi.
Tất cả những gì vừa được nuốt vào bụng ông, nghĩa là tất cả số lượng hai gói mì đã được ông ăn, giờ vẫn còn nguyên từng sợi lổn nhổn cùng với thứ nước vàng vàng lợn cợn những hạt máu đỏ tía tung tóe trên nền nhà.
- Cảm ơn! Cảm ơn! Nhưng mà nôn được là đỡ rồi! Tiên sư nó! Có lẽ là bị cảm nhập lý! Hừ, nhưng mà sao lại tức ngực quá. Tức ngực quá. Chẳng lẽ lẩn này là gục thật à? Không! Không thể gục được!
- Thôi, bác đừng nói nữa. Bác nằm nghỉ đi!
- Bác ngủ đi. Sáng mai, tôi sẽ đưa bác đi bệnh viện. Không thể chủ quan được đâu!
Mệt nhọc và kinh sợ, tôi thiếp đi. Và tôi đã giật thót mình khi vùng dậy nhìn sang ông. Mới chỉ qua mấy tiếng đồng hồ, ông Tương Bằng đã biến đổi thành một hình hài hoàn toàn khác lạ. Mặt ông phù thũng, nặng bình bịch. Tóc râu ông khô xác. Rùng mình, tôi nghĩ tới lời phán định cay nghiệt của Giang ngày nào: ông đã tiêu pha đến kiệt cùng thần, khí, sắc, và chút thiên quý cuối cùng của thân xác ông rồi. Nhưng mà kìa, có lẽ là tôi đã nhầm. Ông đâu có chịu gục ngã như ông đã nói. Ông vốn gan góc và bền dai. Hai mắt ông vừa mở. Nghẹo đầu nhìn tôi, ông đang vận dụng nội lực để khơi lại nguồn sinh lực vẫn còn sót lại đâu đó trong mình.
- Cậu Thược đừng lo! Tôi ngấp nghé cái chết nhiều lần rồi. Một lần bị bọn thổ phỉ phục kích ở Xín Chéng Lao Cai bắn vỡ một bên vai. Một lần chết ngất trên mình ngựa giữa đèo Ma Ngán Chải trong lúc truy đuổi tướng phỉ Vàng Lao Phu. Một lần thổ huyết vì sức ép của bom Mỹ. Rồi tim sưng, phế mãn. Rồi tràn dịch màng phổi. Rồi mổ tim. Thế mà cậu có biết không, tôi đã nghiến răng lại mà chịu đựng, phải rồi, nghiến răng lại vì nghĩ: đau đớn là việc của căn bệnh, còn mình thì phải chịu đựng và tập rèn để vượt qua. Và thề rằng, dù chỉ còn một lá phổi, một cánh tay, một cẳng chân, một con mắt... thì cũng vẫn phải sống!
Một cơn co thắt đột ngột chẹn ngang ngực đã khiến ông ngưng lời. Xoa ngực cho ông, tôi ứa nước mắt thương ông. Có cảm giác như đã phần nào nhận ra chân dung ông bên cạnh những ấn tượng không hay về ông, tôi thành thật khuyên ông, rằng sau đợt đau ốm này nên thôi hẳn việc đi lại, nói năng, bực bõ vô bổ đi, rằng ông nên trở lại trạng thái yên hòa, thư nhàn là nền tảng của sức khỏe tuổi già.
- Có phải là mình đi chơi không đâu, Thược!
Cơn đau đã dịu. Ông nhìn tôi rầu rầu, khẽ khàng. Thì ra ông chưa chịu nhận lĩnh sổ hưu, ông còn đi đây đi đó là để đòi người ta phải xác minh lại giá trị của ông ở hai điểm. Một là, ông đã là cách mạng chuyên nghiệp trong Hội Ái hữu thợ dệt, từ trước năm 1945, tiền khởi nghĩa; điểm này quan trọng lắm vì nó có quan hệ đến phụ cấp lương bổng, và khi chết được chôn ở Khu nghĩa trang A. Hai nữa, năm 1953, ông bị án kỷ luật cảnh cáo vì quan hệ với một nữ đồng chí; nay, theo quan điểm mới thì phải xóa án cho ông.
Tôi an ủi ông:
- Thôi, bác ạ. Những cái đó giờ đây còn có gì là quan trọng lắm đâu. Bây giờ, quan trọng là bác về với bác gái, với các anh chị con bác là có đủ niềm vui sống rồi. Lấy cái vui đó, thêm cái tự hào vì cả cuộc đời cống hiến cho cách mạng lấn át cái buồn rầu, cái thiệt thòi lặt vặt đi, bác ạ.
Ông Tương Bằng nằm im. Ông không đủ hơi sức phản bác lại tôi rồi? Hay là nhà cách mạng chuyên nghiệp này, trong giây phút cuối đời đã nhận chân ra giá trị của mình và chấp nhận ý kiến của tôi, một gã trai tuổi chưa bằng con gái ông? Dự đoán trong hoang mang, tôi bỗng chờn chợn, nổi da gà sợ hãi, khi bỗng thấy ông he hé mở hai con mắt đỏ ké với hai hàng mi ướt nhoèn.
- Bác Tương Bằng!
- Cậu Thược...
Hai con mắt ướt nhoèn nhó nháy của ông già lướt đi lướt lại trên mặt tôi khiến tôi bủn rủn cả chân tay. Nhưng tôi chưa kịp ghé xuống đã thấy ông khe khẽ lắc đẩu:
- Cậu Thược à. Có lẽ trong đời tôi lúc này tôi chỉ còn có cậu là người thân thiết gần gụi nhất thôi.
- Bác Tương Bằng!
Tôi kêu to một hơi và nắm chặt tay ông. Ông nghiêng mặt. Từ cặp mắt ướt của ông tọt ra hai giọt nước mắt giá lạnh lăn tuột xuống gối:
- Nhà tôi, bà ấy chết rồi! Còn con gái tôi, nó từ bỏ tôi từ lâu rồi, cậu Thược ơi!
Trong cuộc đời mình, đây là giờ phút tôi bị nỗi ân hận giằng xé đau nhức nhất. Bởi tôi nhận ra, bấy lâu nay, tôi chỉ là một kẻ sống hời hợt, không hề biết chia sẻ, giao tiếp với đồng loại của mình. Tôi không hề biết đến nỗi đau đời khủng khiếp nhay nhức suốt đời ông Tương Bằng, không hề biết rằng mỗi con người là một cuộc đời với bao khổ đau cay đắng mà đồng loại cần phải sẻ chia, giao cảm. Vợ ông, một nữ chiến sĩ cách mạng đã chết rồi. Chết khi chị vừa sinh đứa con gái đầu lòng được một năm và sau đó, nhận quyết định từ ông để con lại cho bà ngoại, vào vùng địch, thực hiện mỹ nhân kế nhằm mê hoặc và tiêu diệt một tên tướng phỉ. Khổ! Khi quyết định giao nhiệm vụ trên cho chị, ông đầu có nghĩ rằng, đứa con gái duy nhất của ông sẽ oán hận ông suốt đời.
- Cậu Thược ơi...
Rưng rưng trong thương cảm, tôi cúi xuống bên ông già. Và nhận ra, những tàn lực cuối cùng đã bừng dậy trong tiếng nói phản tỉnh nức nở, đẫm vẻ hoang mang của ông:
- Cậu Thược ơi! Cả một đời hoạt động cách mạng, tôi không làm điều gì sai trái với lương tâm đạo đức. Vậy mà tôi đã làm hại chính vợ con mình. Nhưng mà cậu có hiểu cho tôi không? Tình thế lúc ấy phải làm vậy. Phải làm vậy, vì chẳng lẽ lại đùn đẩy cái gian khó, hiểm nguy cho người khác. Cậu có thông cảm cho tôi không? Ơ kìa tại sao cậu không nói? Tại sao lại im vắng thế? Cái loa đâu, tại sao nó không kêu? Cậu nối dây loa đi, cậu Thược...
Không thể ngờ, đó lại là những câu nói cuối cùng của ông Tương Bằng. Ông rơi vào cơn hôn mê sâu ngay sau khi nói những lời trên. Tôi vội gọi xe cấp cứu, nhưng vào đến bệnh viện, một tiếng sau thì ông mất. Bệnh án ghi, ông bị đột tử vì nhồi máu cơ tim.
Đám tang ông lèo tèo vài chục bạn bè đồng nghiệp. Càng buồn vì phải nghe một bài điếu văn nhạt nhẽo như được viết theo một khuôn mẫu có sẵn. Mọi cái chết đều cô đơn. Nhà cách mạng chuyên nghiệp này chết trong cô đơn hơn bất cứ ai. Tôi lập bàn thờ ông tại một góc buồng, nơi ông đã cùng tôi chung sống những ngày qua. Thắp tuần hương đầu tiên cho ông, tôi khóc òa, như khóc thương một người cha. Một người cha đã chết như một kẻ bị loại thải, bị lãng quên. Nhưng quan trọng hơn, một người cha trước khi chết đã sống một cuộc sống thật sự. Sống như đã hằng sống, sống với đặc điểm là lòng ham mê lý tưởng và sự quên mình đến khốn khổ.
Gia tài, di vật ông để lại được bàn giao cho người con gái một tuần lễ sau khi ông mất mới trở về thọ tang cha, chỉ là một cái valy cũ nát, vài bộ quần áo rung rúc, mấy tấm ảnh, vài chiếc huân chương, kỷ niệm chương, ba quyển sổ công tác, một cuốn sổ tiết kiệm có số dư một ngàn rưởi đồng, vừa tiền một bát phở. Dưới đáy valy ông còn có một vật lạ mà vừa nhìn thấy, tôi đã nhanh tay chộp lấy và giấu biến đi; đó là cái nắp bình xăng ở chiếc Honda 81 của Giang trị giá hơn chục nghìn đồng. Chúng ta sống với nhiều bi kịch, chứ đâu có nhiều hài kịch như lúc đầu tôi tưởng.
Hà Nội, 12/1990-2011