- 3 - Cố Vinh, người xứ lạ
Cho mình đi, ông Tây ơi!
- Người Phăngki ơi, tung tiền ra đây nào!
- Kẹo! Kẹo ngọt! Đằng này kia mà, ông Tây! Những tiếng réo gọi, hối thúc hoan hỉ hợp thành một vòng tròn âm thanh mỗi lúc một ken dày, chật chội, vây quanh một người đàn ông xứ lạ mới xuất hiện giữa buổi chợ đông đã lập tức nổi trội về sự khác biệt dung mạo, vóc dáng. Mũi ông thò lõ, mắt ông xanh lơ, râu cằm ông giống hình cái chổi đót, vàng hươm màu thuốc lá. Cả thân hình đồ sộ của ông choàng một lớp vải đen thâm, lại kỳ dị thêm vì cái mũ nan trắng rất rộng, trông như cái mũ nấm dại.
Đứng giữa đám người Mông vây bọc, một tay ông giữ cây thánh giá nạm bạc lớn treo lủng lẳng trước ngực, một tay ông liên tiếp lách qua các lớp vải áo choàng vào bên trong ngực. Rồi ông rướn người lên. Vốn đã cao lớn, nay trong động tác rún chân, tung tay, ông hóa thân thành một hình tượng bốc bay thần thánh, khiến đám người vây quanh như bị thôi miên, cùng há hốc miệng, ngước hết cả lên, dõi theo cánh tay tung cao của ông. Họ liên tưởng tới thao tác gieo hạt từ động tác nọ. Điều đó có lẽ là không sai. Khác chăng chỉ ở chỗ hạt ông gieo là những chiếc kẹo bọc giấy bóng xanh xanh đỏ đỏ và những đồng tiền - những đồng hai mươi xu bằng bạc nguyên chất, xinh xẻo, một mặt có hình bà đầm ngồi xòe váy rộng, in chữ số năm phát hành 1927.
Ai mà chẳng thích tiền! Trẻ con thì thích cả tiền lẫn kẹo. Nên thoạt tiên là trẻ con; chúng tách ra khỏi đám đông đang quẩn lại như mê lú trong phiên chợ. Chúng chen huých nhau để giành kẹo, giành tiền. Tiếp theo bọn trẻ nhỏ là cánh đàn ông trẻ. Đám người Mông này đang chơi chim họa mi, đang đánh gót, nhảy lò cò uốn mình nghiêng ngả theo hơi khèn bè, hoặc đang ồn ào mua bán, đổi chác ngựa trâu, đang lơ mơ trong men rượu bắp bên bát thắng cố, khi nhận ra ông Tây nọ tung hê tiền bạc và kẹo ngọt, thì lập tức bỏ lại tất cả mọi việc cùng nỗi ham mê, xông ngay vào cuộc. Lồng chim mi và cây khèn bè ngay tắp lự bị vứt lỏng chỏng trên bãi cỏ rìa chợ.
Lũ đàn bà con gái Mông nhập cuộc muộn hơn. Bản tính e dè cố hữu và kém cỏi về sức lực tranh đua khiến họ lúc đầu chỉ đóng vai như là những khán giả đứng xem các trò chơi vật lộn, tranh cướp trong các kỳ hội làng. Nhưng sau cùng họ thấy cũng chẳng nên bỏ lỡ cơ hội hưởng phúc lộc. Họ liền cúi xuống, ngượng ngùng tìm nhặt những đổng xu, những chiếc kẹo người Tây nọ quá đà tay tung ra tận vòng ngoài. Khổ! Tất cả dân Mông bản địa huyện này đểu nghèo!
Người Tây cao lớn đeo cây thánh giá, mặc áo choàng thâm rộng tiếp tục gieo phúc lộc. Nhưng, kho trời cũng có hạn nữa là. Cuối cùng, vào lúc chợ tàn phiên, người đàn ông xứ lạ nọ tung bổng hai cánh tay lớn lên trời, kêu to bằng tiếng Mông: “Hết rồi!”. Và cả đám người đang mê cuồng trong cuộc giành giật lợi lộc liền tỉnh cơn, cùng cười to một tiếng mãn nguyện và tan đám!
Đám tan mà chưa tan!
Câu hát hết, câu hát lại bắt đầu!
Lũ thiếu niên, những kẻ vụ lợi vô tư nhất của loài người đội mũ vải chom chỏm, mặc áo khoác cộc tay bằng lanh, phết sáp ong cứng, xán ngay đến người xứ lạ mặc áo choàng thâm nọ.
- Mai ông Tây lại phát tiền, cho kẹo nhé!
Nghe lũ trẻ gạ, một nụ cười không âm thanh nở trong đám râu vàng mượt quanh miệng lan lên má, lên mắt người đàn ông nọ, trông thật hiền. Ông đặt bàn tay dầy, trắng hổng, ấm áp lên vai những đứa trẻ vây quanh, cúi xuống, cất lên một thứ tiếng Mông phát âm chuẩn mực cùng ngữ điệu đầy tính hàn lâm:
- Em bé này ở đâu?
- Ở Lao Chải.
- Ờ, ông biết Lao Chải. Còn em? Cũng ở Lao Chải?
- Không! Ở Tả Giàng Phình.
- Tả Giàng Phình. Tôi đã hơn một lần đi qua. Còn anh vác dao quắm kia?
- Tôi ở Mù Cang Chải. Có con dao này đi rừng không sợ con gấu, con hổ.
- Ôi, con dao sáng sắc quá!
Người Tây bất giác giật lui, mắt nhìn ánh dao nọ, đưa tay lên giữ cổ. Tựa như lưỡi dao nọ vừa chạm vào da cổ ngài. Người Mông ở Tả Giàng Phình tiến lên một bước nhỏ, cười khẽ:
- Ông có muốn thuê tôi đi hộ vệ không?
- À, ừ. Tốt. Cào bê hùa cheng? Anh tên là gì?
- Sùng Sử!
- Sùng Sử. Anh đẹp trai lắm. Đẹp mạnh mẽ, đẹp như con gà trống thiến. Dân ca Mông hát thế. Có đúng không?
Người tên Sùng Sử mặt bự, môi dầy đầy vẻ nhục cảm, cười to:
- Không phải. Con gái đẹp mới ví thế. Em đẹp như con gà trống thiến. Xa em hồn anh phảng phất ở vạt áo em. Có câu hát ấy đấy!
- À, tôi nhầm - Người Tây lắp bắp - Tôi nhầm. Hay lắm! Cám ơn anh Sùng Sử. Anh thông minh lắm. Còn tôi, tôi là cố đạo Ravina. Ravina! Nói thử xem!
Lũ thiếu niên Mông ngẩng lên, như những con chim non há mỏ, đọc theo Sùng Sử, dằn mạnh từng âm tiết. Ra-vi-na! Người đàn ông tên Ravina gật đầu:
- Giỏi lắm! Pêtu Mông trang, anh em người Mông ta giỏi lắm! Nhưng từ nay gọi tôi bằng tên Việt. Tên Việt tôi là cố Vinh. Cố Vinh. Cố Vinh! Đọc thử xem nào!
Lẩn này thì cả đám đàn ông, đám đàn bà con gái đứng ở ngoài rặng đào ngoài kia, cùng lũ thiếu niên mấp máy môi, lẩm nhẩm: “Cố Vinh!”.
Cố Vinh! Cố Vinh! Cha Ravina! Cha xứ đạo vùng Sapả! Con đầu của Hội Thánh nước Đại Pháp!
Cố Vinh lừng lững một tầm vóc gấu mẹ, tuy mới ngoài tuổi hai mươi, nhưng gương mặt đã bào giũa hết mọi hôn ám đối nghịch, nổi bật giữa đám thảo dân thiểu số nhỏ con, nâu nhám, mặt mày còn ngơ ngác trong các tín niệm bán khai. Năm ngày một phiên chợ Sapả, chẳng phiên nào cố Vinh quên thực thi hành động phóng tài hóa, nâng mình lên lồng lộng, nên chẳng bao lâu tên tuổi cố cùng hình tượng nghĩa hiệp nọ đã thành một trích đoạn của một thiên huyền sử, lưu truyền theo suốt chiều dài sơn mạch Fansipan hùng vĩ này.
Người Tây đến đất núi này từ cuối thế kỷ trước, sớm nhất là bọn nhà binh. Nhà binh Phăngki từ tỉnh lị Lào Cai nhờ người dẫn đường lên tới đây, bắn mấy tràng súng ra oai, rồi cắm trại, lập đồn. Giữa hoang vu, đồn binh thoạt đầu mới chỉ là một căn nhà cột kèo dui mè đều làm bằng gỗ pơmu với một cái chuồng ngựa dài lợp gianh xám. Đường đi mới chỉ là vệt mòn. Tây đàn ông từ tỉnh lị lên phải ngồi ngựa, thuê người dắt. Phăngki đàn bà yếu hơn phải ngồi kiệu. Ông Thào A Sần, người Lao Chải, thôn gần huyện lị Sapả nhất, đã tám mươi tuổi, kể: “Tôi dắt ngựa cho cả ông công sứ Tây. Tôi khiêng kiệu cho nhiều bà đầm. Nhưng tôi chưa hề thấy mặt ông cố Vinh này”.
Hố pẩu, tức bô lão, tức người gốc, tên là Mã A Thòn cũng ở thôn Lao Chải, nhíu mày: “Tôi nhớ rằng ông Cố này đến xứ Mông ta khi vua Giàng Say ta vừa quy tiên!”.
Mọi người ngồi quanh bếp lửa cùng à to một tiếng, rồi cùng một nhịp kêu dồn: “Phải rổi! Phải rồi!”. Và đăm chiêu nhớ lại. Nhớ lại rằng, Giàng Say người Mông sinh ở Tả Giàng Phình vào năm con khỉ một hôm bị con ngựa trắng đá vào ngực, nằm liệt, thập tử nhất sinh sáu tháng trời liền. Đến ngày đầu tiên của tháng thứ bảy thì nhận được phép lạ, bệnh lui hết, tung chăn ngồi phắt dậy, cất tiếng sang sảng: “Nay trời giáng ta xuống trần làm vua xứ Mông ta. Đầu ta đã mọc chín cái sừng. Lưng ta đã nổi chín cái bướu. Ta bay lên trời được. Ta gọi được mưa, gọi được nắng. Ta hóa phép cho ngô lúa tự mọc. Ta lệnh cho các người từ nay không phải xuống vùng thấp khiêng kiệu, dắt ngựa hay đi phu làm đường, không phải đóng thuế nương thuế ruộng cho ai hết!”.
Dân Mông mười tám xã trong huyện nghe tin Vua ra nườm nượp kéo đến, mang theo đồ mừng, nghe lời phán bảo, sung sướng như đứa trẻ côi cút được trở về sống dưới sự che chở của mẹ cha.
Đồn binh Tây biết tin nọ liền cho lính mang súng xuống Tả Giàng Phình, vừa như mời vừa như ép buộc vua Giàng Say lên đồn. Vua chối không được, đành cùng năm người trai đinh theo lính đồn đi. Quan Pháp đón vua Mông ở cửa đồn, dẫn vào buồng ăn, mở tiệc khoản đãi và trò chuyện rất thân mật. Cuối tiệc, hỏi: “Vua Mông có phép lạ gì bày cho quan xem với”. Giàng Say cao hứng vươn tay múa và hát bằng tiếng Quan:
Lù van van
Ni thin ngố xổ
Ni thin ngố chéng
Hâu lải sui seo sin cù chủ
Pú trồ khu. Pú trồ nan.(1)
Quan đồn vỗ tay khen hay, rồi cho Vua về.
Sau lúc Vua về, mưa đổ liên tục ba ngày đêm không dứt. Suối lớn nước dâng tới tận lưng núi. Đường đi lối lại đều bị nước ngăn. Mưa tạnh được nửa buổi, vua Giàng Say bỗng ôm bụng quằn quại. Nửa đêm đó Vua tắt hơi đằng ngực, mặt tím bầm, lưỡi thè ra như để mọi người thấy đầy là cái chết do ngộ độc thức ăn!
Vua Giàng Say chết được ít lâu thì Cố Vinh có mặt ở xứ này. Cố Vinh không ăn mặc kiểu nhà binh Pháp. Cũng không đeo súng. Cố mặc áo choàng đen như con quạ, cưỡi con ngựa đực màu đỏ lửa. Một mình một ngựa, thoạt đầu Cố Vinh đến các bản Mông quanh đồn binh đóng ở huyện lị Sapả. Ít lâu sau, như vệt dầu loang, ông nhờ ngựa đưa đến các bản Mông xa hơn. Ông tới cả đất Mù Cang Chải, nơi trời không ba ngày nắng, đất không ba thước bằng, suốt ngày sương ủ mịt mờ nương thuốc phiện. Ông để tâm nhiều nhất đến bản Lao Chải, nơi cư trú gần trăm nóc nhà họ Mã người Mông cạnh huyện lị.
Xứ Mông chưa từng gặp một kẻ ngoại tộc nào thực hiện cuộc du hành kiên nhẫn với tinh thần chăm chỉ học hỏi, và có thái độ trân trọng với nền văn hóa cổ truyền của dân bản địa như thế. Chỉ đường là bài hát mở đầu tang lễ. Cố nhập tâm từng câu, rồi còn lân la hỏi cho đến ngọn nguồn từng điển tích. Cố ghi chép phong tục cướp vợ cùng các bài dân ca, các tập quán bất thành văn, lại miêu tả cảnh quan thiên nhiên và nhân văn cùng mùa màng, cách thức canh tác, dệt vải của bộ tộc này. Quên thói quen ăn lúa mì, Cố dùng bữa với thứ bột ngô đồ chiêu nước canh cải. Cố uống chè tuyết, ngủ qua đêm trên tấm da hổ, sống không phân ngôi khách chủ với mọi nhà.
Cố chăm học tiếng Mông lắm. Trong vòng nửa năm Cố đã nói thạo thứ tiếng này, lại còn biết phân biệt thứ thổ ngữ vùng nội địa với ngoại biên, biết nói kiểu tiếng Mông xanh thanh nhẹ hơn tiếng Mông đen. To lớn, nhưng trẻ trung hiền lành. Hành vi ứng xử vẻ ngoài như khom nịnh, nhưng cốt cách rõ đáng bề trên. Nét mặt, nụ cười hoàn toàn trong trẻo, không vương sót tí chút dục năng tục lụy, ham muốn tầm thường, lại thêm có lời nói ai nghe cũng lọt tai: “Ta về quê tổ của ta đây rồi”. Thoạt tiên Cố nói vậy. Rồi Cố nhẩn nha tiếp: “Người Phăngki ta với người Mông là anh em ruột thịt đấy. Này nhé: Cùng ở vùng lạnh. Cùng ăn bằng thìa. Phụ nữ Mông và phụ nữ Phăngki cùng mặc váy như nhau. Vợ chổng như đôi chim cu, đi đâu cũng có nhau. Có đúng tôi và anh là cùng thịt cùng da không?”. Người Mông còn đang ngơ ngác, Cố đã tiếp: “Ngay tiếng nói ta cũng giống nhau lắm. Người Việt nói lúa. Người Mông ta nói Mblê. Người Phăngki nói blê. Có đúng là giống nhau không?”.
Ấy thế, nghe nói thế thì biết thế. Chứ biết gì mà bảo là sai!
Prứ... Prăp prăp...
Prứ prứ... Prăp prăp...
Đó là tiếng ngựa thở và dồn vó trong thôn Lao Chải xúm xít hơn trăm nóc nhà họ Mã thuần Mông. Con tuấn mã đang phì hơi lửa qua hai lỗ mũi và nện móng trong nhà ông Mã A Thòn, hố pẩu, đầu tộc họ Mã, ba gian gỗ rộng thênh.
Nhà ông Thòn đang có đám cúng ma, đang đông nghẹn người.
Buổi trưa. Mấy mảnh ván thông lợp mái được đẩy kênh lên cho ánh mặt trời có lối vào soi tỏ gian giữa âm u đặt bàn thờ ba tầng bát hương đồ sộ. Khói hương phủ mù mịt hơn chục cái bát hương ở mỗi tầng. Bàn thờ dựa vào bức vách rối rít la liệt các bức họa, những hình âm dương, các quẻ hào, bát quái, những chủng tự ngoằn ngoèo bí ẩn, những con vật mang hình thù quái dị vì lắp ghép lộn xộn, khi là mình rồng đẩu chim, khi là mặt người thân rắn. Cùng với chúng là những lá bùa xoắn thừng treo cạnh gậy tầm xích và các cặp chân gà, chân chó khô quắt.
Phủ phục trước nơi thờ cúng uy nghi nọ là chiếc ghế băng phủ tấm chăn dạ đỏ chóe, nhưng qua vẻ trịnh trọng của nó, ta có thể đoán ngay rằng đó là con tuấn mã. Con tuấn mã, con ngựa chiến, chính nó đang thở và nhảy những bước dồn dập như đã thấy ở trên kia.
Trên lưng ngựa lúc này là ông Mã A Thòn, trong vai một ông thầy cúng. Mặt ông choắt choeo, gãy góc, lúc này trông càng khắc kỷ và kín mít. Bộ quần áo thầy cúng vàng lửa có vẽ hình mặt rồng nơi bụng áo, cùng với hai chùm nhạc đồng buộc ở hai cổ tay ông làm ông oai nghiêm hơn ngày thường. Tuy nhiên, ông chỉ thực sự biến hình khi dàn nhạc gồm kèn, trống, nhị ở cạnh bàn thờ bắt đầu cuộc hòa tấu. Thoạt tiên là sự hưởng ứng của hai chùm nhạc đồng ở hai tay ông. Tay ông run rẩy rồi vung cao, trong khi hai chân ông nhớm trên mặt đất bật lên từng nhịp nẩy mỗi lúc một mạnh mẽ. Cảm hứng và trách nhiệm đã làm tan biến vẻ mờ mịt, kín đáo trên mặt ông. Mặt ông ửng lên màu men hồng. Ông đã trở thành kỵ sĩ. Lúc này hai chân ông đạp phình phịch liên hồi trên mặt đất. Và chiếc ghế băng bốn chân đã hóa thành con chiến mã đang lao sầm sập vào trận thư hùng sinh tử.
Trên lưng ngựa, ông thầy cúng Mã A Thòn đang lao xuống cõi âm ti địa ngục. Ông đang xông pha để tìm kiếm linh hồn đứa trẻ nhỏ, cháu đích tôn của ông. Ma ở xứ người chết này là ma ác; nó đã bắt mất linh hồn đứa cháu yêu quý của ông. Đích thị nó là ma ác rồi. Nhưng nó là con ma gì thì ông chưa biết, ông còn đang truy tìm. Nó có thể là con ma suối, con ma rừng. Cũng có thể là con ma trâu hoặc là con ma lợn sề, loài ma ác nhất. Nhưng loại ma ác nào mà chẳng khôn ranh. Thoáng thấy ông là nó thoát xác, biến hình ngay lập tức. Cuộc truy bắt thật gian nan! Ông phải có trí xét đoán phi thường. Phải có con mắt thấu thị và khẩu khí phải linh hoạt, sắc bén vô cùng, vì đã có những lúc tưởng là đã tóm được con ma nọ rồi, mà cuối cùng vì đường lý lẽ không thông suốt, đành phải để nó buột ra khỏi tay mình!
Lúc này ông đơn thương độc mã, một mình một ngựa. May thay, con ngựa này đã bao phen xông pha chiến trận cùng ông nên khôn ngoan và can trường, có thể sánh ngang với ngựa của Hạng Vũ hoặc của Quan Vân Trường. Đường đi thật muôn vàn gian khó. Núi hiểm. Sông sâu. Cầu hẹp, lại lúc đóng lúc mở. Lại chó ngao cả đàn chặn lối và quỷ binh hung ác lũ lĩ ngăn đường. Cũng có lúc ngựa chiến muốn nản chân bon. Thì đã có ông ghé tai khích lệ: “Ngựa khôn, ngựa khỏe của ta. Dũng mãnh lên con. Đích xa ở trước mắt kia rồi!”.
Tuấn mã tức thì lại như mọc cánh. Và ông cao hứng cất tiếng vang vang:
Ngựa khổng lồ! Ngựa khỏe của ta!
Chân nhanh hơn đất
Móng không có vết
Ma phải khiếp vía chạy về nhà nó
Tiến lên kẻo xác người chết thối rữa ra rồi!
Dừng tiếng hát, thoắt cái, ông dựng hai chân, đứng thẳng như cây cọc tiêu trên lưng ngựa. Mắt ông quăng quắc. Môi ông mím chặt. Lỗ mũi kéo vẹt về hai phía, miệng nín thở, mặt ông nở phình. Hai tay ông vung vít bốn phương. Ông đã gặp con ma bắt linh hổn đứa trẻ. Con ma ác này đang huy động quân binh vây bọc ông. Ông đang dùng vũ thuật. Không xong, ông phải giở pháp thuật. Ông quát:
- Bớ ma kia! Hãy trở về nhà đi! Như người trở về với ruộng nương của mình. Bớ ma kia, hãy trả lại linh hồn đứa bé cho ta. Hãy trở về nhà ngươi và cấm có được lang thang đây đó nữa, hỡi ma kia!
Ngồi trên cái ghế rơm vặn tròn hình khúc gỗ, cố đạo Ravina dõi theo trình tự lớp lang buổi cúng, nhập trí từng khúc đoạn, cảnh huống, ghi nhớ từng lời hát, động thái, nét mặt ông thầy cúng. Chưa bao giờ Cố được chứng kiến một hoạt cảnh vừa hào hùng vừa kỳ quái như thế. Ngài mới hai mươi bảy tuổi. Đây là địa phận đầu tiên ngài được phái đến để thực hiện chức năng thiết lập sự đạo và cai quản các linh hồn con dân nước Chúa. Tuổi trẻ gắn liền với tính tò mò. Buổi cúng ma, đối với Cố phần nào đã trở thành một trò diễn và ngài vô cùng sửng sốt khi thấy ông Thòn đang trên mình ngựa tả xung hữu đột, bỗng như thoát khí, uể oải ngồi xuống lưng ngựa, rồi nhoài mình trên chiếc ghế dài phủ tấm chăn đỏ, nhắm nghiền hai mắt, thiêm thiếp đi luôn vào giấc mê.
Nhạc hơi và bộ gõ im tiếng. Một người đàn bà từ sau chiếc bếp lò bên gian trái bước ra, bà cúi xuống nâng đầu ông Thòn dậy. Một người trai trẻ từ gian đối diện cũng đã có mặt ở cạnh đó, nhấc chân ông thầy cúng. Cuối cùng ông chỉ còn là một hình xác được đặt trên chiếc cáng tre, khiêng đi.
Cố Vinh nghĩ: màn kịch đã buông. Trận đấu đã kết thúc. Hồn đứa trẻ đã từ âm ti địa ngục trở về. Ngài liền đứng dậy. Nhưng thấy một đám trai trẻ ùa ra sân, ầm ĩ chỉ trỏ, ngài liền đi theo họ. Mọi người vây quanh một đoạn rãnh ở đầu hồi. Một người đàn ông đặt lưỡi xẻng xuống đoạn rãnh ẩm ướt xanh lè rêu dại, ấn mạnh, rồi lật lên: “Úi!”. Mọi người cùng kêu to. Từ những lỗ hổng trên tảng đất mới lật, hoảng hốt bò ra cả một đám những con mò đen xám. Đó chính là lũ quân ma. chúng định chạy trốn. Nhưng những kẻ trợ thủ của ông thầy cúng đã nhanh nhẹn đưa cả xẻng đất cùng bọn chúng vào lòng cái bếp lò đang đỏ rực ở gian trái. Bọn quân ma đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Đó đây nổi lên những tiếng reo mừng chiến thắng!
Tối hôm đó, Cố Vinh ghi nhật ký:
“Đợi cho ông Mã A Thòn tỉnh dậy, tôi yêu cầu ông cho tôi gặp đứa nhỏ bị ốm. Nằm trong một cái xó tối ẩm thấp, nó vẫn đang sốt li bì. Tay nó lên càng cua. Mu bàn tay phải căng nhức màu mủ vàng lẫn máu. Tôi đã làm dấu và cho nó những viên kẹo và thuốc giảm đau. Tôi nhận ra nó là một đứa bé đã hơn một lần nhận những chiếc kẹo và những đồng tiền tôi tung rải ở các phiên chợ Sapả hồi trước.
Thuốc giảm đau có hiệu nghiệm ngay. Tôi nói với mọi người chứng kiến sự kiện này:
- Đây là thuốc của Chúa. Chúa cũng là một con ma, con ma lành, con ma to nhất, ma đứng trên tất cả các ma lành của người Mông ta!
Ít lâu sau, Cố Vinh bắt tay vào viết công trình khảo cứu mang tên: Địa lý nhân văn và xã hội học về dân tộc Mông. Về buổi cúng ma nọ và các buổi cúng ma chữa bệnh tương tự, ông viết như sau:
“Buổi cúng giống như một vở kịch. Nói một cách khác, diễn tiến buổi cúng là một lễ lên đồng được gán cho một nội dung tri thức rõ rệt và có kịch tính cao. Vì nó gồm cả sự vi hành, sự can thiệp, việc thuyết phục và giao đấu, với kết cục là khỏi bệnh. Nên gọi ông thầy cúng là saman. Trong buổi cúng, saman lên đồng, hiện hữu mà thực chất là hồn lìa khỏi xác đi chu du, nhờ con ngựa dẫn đạo. Phù trợ cho saman tôi được biết thêm, còn có nhiều ma lành khác. Ma cửa, ma bếp lò, ma gỗ giường, ma rầm nhà chính... nghĩa là cả một hệ thống ma lành, cùng saman chống lại các ma ác, loại này có thể kể: ma rừng, ma suối, ma trâu, ma lợn sề... đông vô cùng.
Thầy saman gần thầy phù thủy hơn là thầy tu. Ông có một năng lực kỳ lạ là có thể tùy ý để hồn rời khỏi thân thể, bằng cách vượt lên trên kinh nghiệm cá nhân mình. Ông biết cách run rầy, biết chế ngự và táo tợn. Để trở thành saman ông phải thành tâm, lòng không được mờ ám và phải có sự trợ giúp của thần linh để biến đổi - đó là sự khai mở, không chỉ có tính chất trí tuệ mà còn có cả phần hoạt động của thể chất, sinh lý.
Người Mông có từ nđù, tức Trời. Theo họ, trên trời có bốn vị thần linh. Đó là các vị thần có chức năng phán xét, quyết định cho con người được sống bao nhiêu tuổi và sau khi chết, được trở thành người hay giống vật. Giống vật chỉ chết, chứ không ốm. Chúng chỉ có một chu kỷ bất di bất dịch. Là chó thì mãi mãi là chó! Con người ta là một biệt lệ. Một ông già ở bản Pao Mao Chải sắp chết nói với tôi rằng: “Thế là ta sắp tái sinh”. Ở Mù Cang chải có một chuyện lạ hơn. Một người đàn ông sắp chết còn nợ đầm đìa bà con. Khi lâm chung, ông nói với vợ: “Tôi sẽ trở thành con trâu cày để giúp bà làm trả nợ!”. Sau khi chồng mất, bà vợ nuôi một con trâu. Bà nằm mê thấy con trâu nói: Tôi sẽ làm trâu trả nợ giúp bà đúng năm năm”. Hiện thời con trâu đã làm được ba năm rưỡi. Tôi sẽ theo dõi câu chuyện tâm linh này. Tuy nhiên, trước sau tôi vẫn cho rằng, dân tộc này còn chìm đắm trong tiềm thức. Hôm qua giống hôm nay và ngày mai cũng vậy. Toàn bộ những điều đã thấy, kể cả lễ saman chỉ là thứ mê tín tản mạn. Đó không phải là tôn giáo. Nếu con người cần một đời sống tâm linh được tổ chức chu đáo, có quy củ, thì rõ ràng ở xứ này, người Mông “có một khoảng trống rỗng cần kíp phải lấp đầy”. Khoảng trống rỗng tâm linh này một khi đã được lấp đầy thì tôi tin rằng cả những vụ xưng Vua như vụ Giàng Say lên ngôi năm con khỉ - một căn bệnh trầm kha kinh niên ở các bộ tộc thiểu số sẽ được loại trừ, nỗi lo sợ của nền đô hộ của người Pháp sẽ tiêu tan”.
Vào cuối những năm ba mươi thế kỷ này, sự đạo ở đây đã bước vào thời kỳ vô cùng phồn thịnh. Dòng Thừa sai thuộc địa phận Hưng Hóa của Cố Vinh lúc này đã mở mang nước Chúa tới tận cái ngõ hẻm kiệt cùng xa cách ở hành tinh này, với gần chục ngôi nhà thờ ngày ngày vang ngân tiếng chuông báo giờ lễ lạy.
Ngôi nhà thờ lớn nhất vùng ở thôn Lao Chải dựng xong sau một năm trời công phu kiến thiết. Không kỳ công như ngôi nhà thờ Phát Diệm của Cha Sáu, nhưng trong tương giao với cảnh quan thì sự nguy nga và độc đáo cũng chẳng thua. Tất cả đều bằng gỗ pơmu lão đại đục đẽo bằng rìu, trông thô mộc, chất phác, ngộc nghệch và nghịch dị lạ thường. Tháp chuông nhọn, cao vót lên như một chóp núi kiêu hùng. Tượng ông Thánh Gioan ở trước cửa ngôi nhà thờ cũng là tác phẩm của cây rìu, trông như tượng thờ của dân da đỏ cổ đại. Chân tượng là dòng chữ khắc: Lạy Chúa! Chúa có những lời hằng sống. Lòng trong ngôi nhà thờ tuân thủ nghiêm ngặt kiểu kiến trúc lòng ống máng; từ các hàng ghế quỳ lễ lạy ngước dậy, cái nhìn bị vuốt dài tới một vầng hào quang rờ rỡ, ở đó lung linh hình Đức chúa chịu nạn và trên vòm trần là hình các thánh thần có cánh bay lượn giữa các vì thiên thể vô cùng huyễn hoặc, kỳ quái và thấm đẫm nỗi hoang mang.
Nhà thờ dựng xong thì một đoàn tráng đinh được cử ra tỉnh lị đón quả chuông chở từ Hà Nội lên bằng đường xe lửa. Ròng rã ngày đi đêm nghỉ, ba ngày trời quả chuông hơn tạ mới leo dốc về tới đích. Đưa được quả chuông lên nóc tháp mới thực sự là kỳ công. Dây rừng, mây song bện, con lăn, ròng rọc, bánh đà kết hợp với sức người mới tạo được thực cảnh kỳ diệu: ấy là khi quả chuông đã treo cao dóng hồi đầu tiên, tiếng bạc, tiếng đổng văng vưởi rộn ràng khiến dân Mông trong cả thôn đều kinh hoảng, nhất loạt bỏ việc, sụp mặt xuống, run lẩy bẩy như người tiền sử trước oai linh sấm sét. Thoát ra từ tiếng chuông vừa rang rảng vừa âm u mù mịt là một linh hồn siêu đẳng dang đôi cánh rộng bay lượn, phủ bóng khắp không gian.
Việc thờ phụng, lễ lạt đi vào nền nếp. Mùa hè, đúng năm giờ kém mười lăm sáng thứ năm hàng tuần là lễ cưới. Lễ rửa tội cho trẻ em có ca đoàn phù trợ thì tổ chức vào mười giờ sáng thứ sáu hàng tuần. Hố pẩu Mã A Thòn trở thành trùm trưởng. Lo việc kinh bổn và trật tự trong nhà thờ còn có hai quản giáo, trong đó một là nữ. Ngoài ra còn có một thầy cai và một ông bõ, đểu là người trong thôn. Cùng với việc thu hút cả trăm hộ với toàn thể thành viên trong gia đình thành con chiên do chúa chăn dắt, họ Mã còn cử được hai thiếu niên đi học tràng tập ở tỉnh lị, với viễn cảnh náo nức; chẳng bao lâu nữa, người Mông xứ này sẽ có linh mục người bộ tộc mình!
Giờ đây, trước khi xúc thìa bột ngô ở hai bữa chính trong ngày, người Mông ở đây biết làm dấu thánh. Chiếu tối, chuông rung. Trong ánh đuốc tẩm nhựa pơmu chập chờn, các con chiên người Lao Chải đọc kinh nhật khóa, khung cảnh huyền ẩn rất giống không khí toát ra từ những bức tranh sơn dầu miêu tả những nỗi khó trong cuộc đời của Đức Chúa Giêsu. Ngày ngày, trong các buổi ngắm nguyện, quây quần quanh ông Cố, các tín đồ càng lúc càng đắm mình vào ao ước sửa soạn xây thêm Nhà Nguyện Đức Mẹ bằng đá lấy từ đỉnh núi PhanSiPan về và việc mở rộng nước Chúa tới các bộ tộc Dao Đỏ, Uní, ở những bản làng heo hút trên lưng chừng trời.
Không nói thì ai cũng biết: cảnh quan thịnh vượng của xứ đạo ở một vùng bộ tộc thiểu số thuộc một đất nước nghèo nàn nơi châu Á này, thật là hi hữu và công đầu là thuộc về công sức và tài cán của Cố Vinh, của đức cha Ravina. Ravina, ông Cố Vinh, một tính cách thánh thần, một chuẩn mực đích đáng, một nguyên tắc cao cả, một mãnh lực vô song cho một đại sự!
Cố Vinh, ông cố trẻ tuổi, với những thành tựu này, quả thật đã chẳng phụ công rèn tập, răn dạy của các đấng bề trên. Ông Cố trẻ tuổi thật sự là bản rập theo đúng các khuôn mẫu tạo tác của các thánh tông đồ và Đức Chúa Trời cao cả. Chúa Giêsu, vị tổ khởi đầu của Thiên Chúa giáo, đã đặt chân lên khắp xứ Galilê cổ đại, thì Cố Vinh, con của người, cũng không vắng mặt ở bất cứ một thôn bản xứ này. Chúa Giêsu đã từng hết lòng rao giảng, chữa lành mọi bệnh hoạn, thống khổ, hãm áp, quỷ ám, điên giản, bại xuội cho đám người nghèo khó, tật nguyền, tăm tối ở xứ nọ thì ông cố trẻ tuổi này, mục tử tốt lành của người, cũng ngày ngày nêu gương tận hiến cho đám con chiên của người. Mỗi ngày ở đây ghi nhận không biết bao gắng gỏi của Cố nhằm cởi thoát bao tai ách nặng nề cho đám dân chúng nghèo nàn, ngu độn ở nơi đây. Cố ban thuốc chữa bệnh. Cố phân phát tiền bạc và quà cáp. Tục cưới xin gả bán vốn là nguyên ủy của cảnh trai không vợ, gái không chồng, một hủ tục kinh hoàng của xứ sở, nhờ Cố đã được thay thế bằng phép bí tích hôn phối giản kiệm trong nhà thờ, tạo nên một hấp lực mạnh mẽ với dân chúng. Cái lợi ở đâu thì dân theo về đó. Cố không đọc sách của Lão Tử, nhưng thực hành theo đúng chỉ dẫn của điều dạy nọ. Kẻ nào theo đạo của Cố thì được ngài bênh vực, chở che khi kiện tụng. Phần sưu thuế của những kẻ cùng hội cùng thuyền với Cố cũng được nới giảm do sự can thiệp của ngài với các chức dịch lớn trong huyện, vốn cùng nòi Phăngki như ngài. Xưa nay, lòng tốt bao giờ cũng chỉ là phần eo hẹp chỉ đủ để chi dùng cho nội giới!
Ruổi rong trong cuộc đuổi bắt và giành giật linh hồn người xứ sở này, Cố Vinh dấn thân vào một sự nghiệp cao cả đầy mê hoặc. Cố sống trong một cơn nhập đồng, chỉ khác với thầy saman mà Cố đã miêu tả trong buổi cúng ma nọ, là cơn thăng đồng của Cố có độ dài liên tục. Chưa có kẻ ngoại tộc nào mà treo cao gương hỉ xả cho dân Mông đến thế! Bản nào có đám cúng để giải thoát cho người ốm đau, thì dẫu xa xôi cách trở mấy, Cố cũng lần mò tới. Cố chích mụn nhọt cho ông già bà cả. Cố hút đờm dãi cho trẻ sơ sinh. Cho tiền bạc kẻ nghèo khó, yên ủi người hoạn nạn, Cố là hiện thân của đức vị tha cao cả. Cố là thánh thiêng đẩy phép lạ, hằng ngày ban sức khỏe và phúc lành cho mọi người!
Tuy nhiên, tất cả những điều kể trên dẫu có được truyền tụng, biến hóa và phóng đại theo quy luật tình cảm, trở thành những biểu tượng siêu phàm thì cũng chưa phải là đã phản ánh đúng công tích chủ yếu của đức cha Ravina, người đã tới đất này khi Vua Giàng Say, biểu trưng cho khát vọng muôn đời của bộ tộc Mông, vừa chết. Cố Vinh, người Phăngki, chính thực là cái tố chất khởi xướng một tôn giáo mới và đã thành công mỹ mãn. Ông Cố trẻ tuổi đã đóng trọn vai một nhà truyền giáo vĩ đại, vì đã lập công trạng phi thường: đã di thực một loài thực vật từ một đới khí hậu xa lạ đến và làm cho nó sống tươi tốt ở môi trường này.
Cố Ravina trẻ tuổi xứng đáng hiển thánh ngay từ lúc này. Vì cũng như các thánh nhân xưa nay, ngài gây được ảo giác cho con người và dẫn dắt họ đi theo mình. Du hành trong cõi vô hình, đi tới những miền sâu thẳm của tiềm thức, của người dân sở tại, Cố đã thâu tóm được và hệ thống hóa toàn bộ niềm kinh dị siêu hình của họ. Nhưng hơn tất cả các tiền bối, Cố không làm điều phản bác!
Đổ tất cả các nguyên tố hóa chất vào một chiếc bình, Cố làm công việc của nhà hóa học tài tình, Cố trộn tất cả đám ma lành, ma ác, chức vị saman, các món phù phép, dị đoan tản mạn vừa thiêng liêng vừa xằng xịt của dân Mông, với các niềm kính tín của chính ngài, khuấy đảo, rung lắc, cuối cùng ngài tạo ra được một hợp chất mới mẻ và tảpilù nhưng ngon lành, hợp khẩu vị với các đám dân lần đầu tiên được tiếp xúc với những tín điều xa lạ. Cố đóng vai nhà ảo thuật, Cố biến đi rồi lại tái sinh trong hình hài mới. Vậy là hệ thống tín điều xưa cũ, truyền thống xưa cũ vẫn còn nguyên vẹn. Không suy suyển! Không đảo lộn! Chỉ có thêm vào, vẻ như không đáng kể, một niềm tin cậy mới lạ. Và như vậy, thầy saman vẫn cứ tiếp tục cùng con tuấn mã đi xuống cõi âm phủ đánh nhau với các loài ma ác để giành giật các linh hồn người. Tất cả các tập tục vẫn ngày ngày diễn tiến. Tất cả, tất cả vẫn như xưa, khác chăng bây giờ tất cả đều ở dưới sự chở che an bằng và ban phát của Đức Chúa! Đức Chúa ở trên tất cả. Trên các niềm tin cậy. Chúa còn là hiện thân của niềm khao khát về một kẻ đứng đầu bộ tộc tự chủ - một Vua Mông vĩnh hằng. Chúa là con ma to nhất, con ma đứng đầu, bao trùm tất cả các loại ma! Lời ngài nói khi thăm bệnh, cho thuốc đứa cháu nội hố pẩu Mã A Thòn ngày nào đã không còn là câu buột miệng ngẫu nhiên.
Vậy là được thiên thời, địa lợi, nhân hòa, đạo như lúa trổ bông, như hoa tỏa hương. Đạo soi tỏ mỗi việc làm thiện, ác, len lách vào mỗi ngóc ngách tâm tư, thầm kín, biết được cả lòng tà dâm của kẻ ngó đàn bà mà sinh lòng ham muốn. Đạo được chấp nhận là những quy tắc nghiêm mật để xét xử thân mình.
Hoàn thành việc tập hợp những kẻ cùng căn nghiệp vào một hội đoàn rồi, ông Cố tiếp tục lấy lối sống đạm bạc, minh tĩnh và nghiêm cẩn của mình dể răn dạy con chiên. Ông dạy họ nếu mắt hữu phạm tội thì móc ngay chi thể đó vất đi, vì thà mất một bộ phận, còn hơn để cả thân thể bị ném vào địa ngục. Ông khuyên họ phải biết yêu kẻ ác vì Chúa vẫn ngày ngày sai khiến mặt trời soi cho kẻ ác, vì người thiện vẫn soi cho ma tà, công nghĩa vẫn thường soi cho kẻ bất nhân. Đạo đã lấp đầy khoảng trống hoang sơ bản năng! Tài tình thay!
Ngôn dị hành nan. Cố Vinh hiểu hơn ai hết điều này. Thành ra quá trình truyền dạy lời Chúa cũng là những tháng ngày ngài ra sức trau dồi thứ ngôn ngữ bản địa nọ. Công việc bức bách đã khiến ngài nảy ra sáng kiến sử dụng các mẫu tự Latinh để ghi âm tiếng nói bộ tộc này. Ngài đắm mình trong say mê khoa học sáng tạo thuần túy không vương vấn tí chút vụ lợi, ở việc này cũng như việc ngày càng chăm chỉ sưu tập, ghi chép để hoàn thành tập biên khảo địa lý nhân văn và xã hội học về bộ tộc này. Chẳng bao lâu, với thiên bẩm thông tuệ, lại có nền móng là sự uyên bác do cần cù tích cóp từ ngày còn là chú tập sinh ở chủng viện, ngài đã thành công trong việc chuyển dịch các văn bản về lịch sử hội thánh và những bản kinh lễ từ ngôn ngữ phương Tây sang thứ tiếng Mông chưa có quy tắc ngữ pháp thành văn và đang thiếu rất nhiều từ ngữ cùng là những khái niệm tương đương. Công việc thật là khổ cực, thật là mê man, thật là trọng đại! Ông Cố Vinh với công việc dịch thuật nọ, đã hoàn thành một vĩ nghiệp vĩnh cửu mà lúc đó ngài chỉ thấy được một phần vinh hiển. Hoàn tất công việc này, lúc đó, ngài mới chỉ thấy rằng: ngài đã trao cho đám con chiên nghèo khó một công cụ để hằng ngày họ bồi bổ cho đầy ắp đời sống tâm linh của mình. Ngài mới chỉ thấy ngài đã dự phần vào việc dương triển giáo lý và củng cố đức tin. Trong khi, vì văn tự, chữ nghĩa thực sự là những mắt lưới giăng mắc cùm trói bền chắc hơn mọi dây dợ trên đời, nên thực chất Ngài đã trao cho những kẻ khó mới gia nhập gia đình Đức Chúa nọ một vùng mỏ đầy báu vật và một lạc viên tươi đẹp để di dưỡng tâm hồn họ!
Ôi chao! Thành ra, bây giờ sau biết bao nỗ lực phi thường và thành quả trác tuyệt nọ, Cố Vinh đang sống trong tâm trạng vô cùng mãn nguyện. Ngài thấy lòng thanh thản vô cùng. Nhất là mỗi khi nghe thấy tiếng chuông rền. Gần một chục tháp chuông trong vùng cùng lên tiếng đưa hồn người vào xứ sở kinh nguyện ngày ngày. Lúc ấy, Cố Vinh thấy hồn mình bay lượn ngất ngây. Ngài làm dấu thánh và môi lật bật như một phản ứng bất thẩn.
Thà lình txì, Thà lình tù, Thà lình xèng xì bê mbê oa lê. Nhân danh cha và con và đức thánh thần, a men.
Ngài không đọc kinh bằng tiếng Latinh trong nguyên bản mà ngài đã nhuần thấm từ buổi thiếu niên. Ngài đọc kinh bằng tiếng Mông, theo bản chuyển ngữ thật sát nghĩa và tài tình của chính ngài.
Thà lình txì, Thà lình tù...
Nhân danh cha và con...
Đó là tiếng nói của đạo, của văn hóa chế ngự bản năng hoang sơ. Đó là lời kính mộ thầm thì trên môi Cố Vinh mỗi khi ngài nghe thấy hồi chuông nguyện, chuông gióng giả tiếng vàng, lúc văng đảo rền rã, khi đong đưa êm ả vuốt theo chiều dài trên núi, khi lìm lịm ánh chiều buông, lúc loang loang ánh sáng một ngày mới khai mở.
Ít lâu nay, đã thành thói quen, mỗi khi nghe tiếng chuông vang, Cố Vinh thường ngưng việc suy tưởng, đưa mắt tìm kiếm môn đệ của mình, gã trai Sùng Sử, ngài muốn dò xét thái độ của y với việc đạo. Hơn năm nay theo hầu ngài, trong tư cách là vệ sĩ, là mã phu, là thông dịch viên, là kẻ dẫn đường, thậm chí là cố vấn mách bảo, Sùng Sử người Mù Cang Chải, chính là kẻ đã gặp ngài buổi ngài phóng tài hóa thu nhân tâm phiên chợ ngày nào, kẻ lúc nào cũng kè kè con dao quắm cán dài sáng rợn bên mình. Con dao quắm lưỡi sáng rợn gây ớn lạnh kinh dị da cổ Cố Vinh ngày nào giờ đây vẫn nguyên vẹn ám ảnh đó khi Cố nhìn thấy nó. Con dao quắm sắc có thể chém đứt đôi chồng bạc trắng cùng với sức khỏe và kinh nghiệm đi rừng của Sùng Sử là một bảo đảm an toàn tuyệt đối cho Cố Vinh. Y đã chém xả vai một con gấu ngựa khi con thú này chợt xồ ra uy hiếp tính mệnh Cố Vinh. Cọp beo, lợn rừng, chó sói, Sùng Sử cũng từng chạm mặt; y không biết thua chúng, khi y có thứ vũ khí bạch binh thô sơ nọ ở trong tay. Thông minh, khôi ngô, tuấn tú, cố chấp và giảo hoạt, Sùng Sử kết tinh ở trong y những đặc điểm quan trọng nhất của tuổi trẻ Mông nơi rừng rú. Y am hiểu kỹ lưỡng bộ tộc mình. Những trang ghi chép của Cố Vinh về cảnh quan, phong tục, lịch sử, phẩm hạnh, đời sống tâm linh, tín ngưỡng cùng là sự làm ăn, may mặc, yêu đương, hôn thú, ca hát của bộ tộc này, có sự đóng góp không nhỏ của y. Đó là lý do chính yếu khiến Cố Vinh, trong vai một nhà khoa học, nhiều lúc phải dằn lòng, bỏ qua những điểu bất như ý, để tiếp tục sử dụng y như một kẻ thân tín nhất.
Sùng Sử, gã trai Mông, biểu trưng của một bản năng tự nhiên bất di bất dịch, vô cảm với các giá trị văn hóa ngoại lai, khác mình. Chà! Thì chính y chả đó là một nhân vật Cố Vinh dùng để trắc nghiệm một khía cạnh của tính cách Mông đó sao. Và ở phần kết thúc của trắc nghiệm này, cực chẳng đã, Cố đã phải đưa ra cái kết luận thấm nhiễm tinh thần bi quan của mình: Đạo không tới được, không có ý nghĩa cải hóa gì với những kẻ như Sùng Sử, một dân Mông nguyên bản mãi mãi chỉ là một thành tố của bộ tộc Mông? Là bởi vì, trắc nghiệm đã được thực hiện rất nghiêm túc. Đi cùng Cố Vinh được nửa năm, Sử được Cố đưa về Hà Nội. Ở Hà Nội, Sử được ở nhà lầu, được hưởng ánh điện và tất cả lợi lộc của nền văn minh cơ khí phương Tây. Thăm dò tư tưởng y, Cố Vinh biết rằng Sử hết lòng thần phục nước Đại Pháp. “Nước Pháp có cái máy nói chuyện được với người trời, lại có cái thiên lý kính, thật đáng bố mẹ ta rồi”. Sử nói vậy. Nhưng đó chỉ là cảm giác buổi đầu tiên tiếp xúc của y. Ở Hà Nội một tháng trời, y rầu rĩ tới hai mươi chín ngày rưỡi. Y không nguôi nhớ thương quê núi. “Y rầu rĩ như người nông dân xứ Brơtanhơ trong bài hát nhớ quê”. Cố Vinh nhận xét vậy và nhận ra Sử càng lúc càng lử khử lừ khừ như một kẻ ốm đứng giữa chốn thị thành đô hội. Và không thể tưởng tượng được y vui sướng thế nào khi được tin ngày mai sẽ được trở về quê hương. Y vui như một kẻ hết hạn lưu đày. Xuống tàu lửa ở ga Lào Cai, bỏ mặc Cố Vinh đó, y phăm phăm như ngựa chạy, hơn bốn chục cây số đường bộ, liền một hơi tới bản quê. Y vồ gọn một cô gái chăn bò trên đường, đè cô bé ngay trên nệm cỏ, vừa làm tình với cô vừa gào như điên dại vì phát hiện niềm khoái lạc vô biên ở chốn bản quê. Trả lời câu hỏi khảo sát của Cố Vinh, y đáp. “Chả nghĩ đến Chúa hay bất cứ ai cả. Chỉ nghĩ đến chõ bột ngô và con đàn bà. Chõ bột ngô để ăn. Con đàn bà để đút vào một phát cho nó sướng, thế thôi, há!”. Ôi, Sùng Sử! Một bản thể xung thiên! Sùng Sử mãi mãi chỉ là Sùng Sử! Một người Mông mãi mãi vẫn là dân con của bộ tộc Mông?
Cùng ruổi rong tháng ngày với Cố Vinh, ngoài Sùng Sử, con chiên còn cần phải được sự rèn giũa của chúa, còn có con ngựa đực. Con ngựa đực màu đỏ lửa, mắt xếch xanh dữ tợn, đuôi bờm rườm rà, bốn tuổi, có nước kiệu êm và nước đại nhanh như gió. Con ngựa rừng rực một khối nóng cháy sức lực, có tiếng hí dài lạnh rởn mỗi khi gặp ngựa cái. Con ngựa đỏ không phải là chiếc ghế băng phủ tấm chăn đỏ trong lễ cúng ma của hố pẩu Mã A Thòn được phong danh là con tuấn mã. Tuy vậy con ngựa đực màu đỏ cũng đem lại cho Cố Vinh cái hư giác hạnh phúc và oai hùng của saman trong cuộc chinh phục, giành lại các linh hồn khốn khó.
Bữa nay Cố Vinh và Sùng Sử rời huyện lị Sapả từ lúc tan sương. Họ dự định buổi chiều sẽ tới bản Mù Cang Chải để khảo sát cái chết của một con trâu cày; con vật này là hóa thân của một người đàn ông còn chồng chất nợ nần khi trở về với quê tổ, như đã nói ở trên, trong một trang ghi chép của Cố về đời sống tâm linh của bộ tộc Mông này.
Buổi trưa, đúng với lộ trình, hai thầy trò tới con suối lớn ở đầu bản Lao Chải. Nắng sáng long lanh. Nước suối trong xanh. Hoa trúc đào nở đỏ sậm trên bờ suối xanh mượt cỏ êm. Buộc con ngựa đỏ ở gốc đào, hai người giở bánh trái ăn bữa trưa. Cơm nước xong, Sử vác dao quắm tót lên rừng theo thói quen. Cố Vinh trải tấm da bò mang theo cạnh búi mua dại, nằm nghỉ. Nhạc suối tính tang. Gió mát hiu hiu. Chỉ một thoáng hồn Cố Vinh đã bay bổng lên thiên đường. Cố thấy mình có đôi cánh y như các thiên thần mang gương mặt hài đồng giữa các vầng mây bạc. Ngài nhìn thấy những cánh rừng mênh mông toàn một loại cây thân bạc, quả ngọc, cành vàng. Và ở trung tâm, nơi Thiên Chúa ngự, một tòa lâu đài được tạo bằng chín thiên cầu lồng vào nhau tỏa sáng lung linh, trong khi xung quanh bạt ngàn là những đóa hoa hồng xếp cánh, tức các linh hồn xứng đáng đã được chúa cho gọi về bên người, đang cùng cất tiếng ca. “Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi: Ta cùng chảy kêu dần Thánh Chúa”. Ôi! Cực kỳ hạnh phúc chính là lúc này đây, Cố Vinh trẻ tuổi vội quỳ mọp xuống cạnh một đóa hồng và giữa tiếng hát của bầy nữ đổng trinh, ngài nức nở thành lời: “Con là mục tử tốt lành của Người, con xin thí mạng sống vì các con chiên của Người”.
Giấc mộng huy hoàng của Cố kéo dài chừng hơn nửa giờ. Lát sau, mơ màng trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê, Cố nghe thấy tiếng hai người trai gái vừa như giận dữ vừa như vui vẻ ở ngay bên cạnh nơi ngài nằm. Thấy họ như đang trong cuộc co kéo. Rồi thấy tiếng bụi cây rạp mình và tiếng phụ nữ kêu hấm hức.
Sau cùng tiếng một con ngựa hí thật dài, rơn rởn, làm Cố Vinh ra khỏi giấc mộng vàng. Ngài nghển cổ và nhận ra, đó là tiếng hí hào hứng và bức bối của con ngựa đỏ thân cận của mình mỗi khi nó gặp ngựa cái. Con ngựa đỏ thật là một con đực rất đĩ tính. Lần nào gặp ngựa cái nó cũng nổi những cơn cuồng hứng bất tử. Thế nào thì nó cũng tìm cách đến gần được con cái. Ghìm nó thì nó phát điên phát rỗ. Nó đá lộn. Nó rúc bụi. Nó cắn. Nó hất cả Cố xuống đất. Lần này thì hình như cơn kịch phát đến bất thần và xem ra dữ dội còn gấp bội phần. Ngửa cổ hí hanh hách một hồi dài nữa, nó bắt đầu hếch mông, đá hậu và bật đầu dậy, đòi giật đứt dây cương buộc ở gốc trúc đào phóng đi.
“Cái gì đã xảy ra thế?”. Lần đầu tiên Cố nhận ra những động tác kích ứng nọ của con ngựa đỏ hình như đang bắt đầu lây nhiễm vào cơ thể mình. Sau một giấc mộng đẹp, cơ bắp thư giãn, tâm hồn thanh thản, bỗng dưng trong Cố đó xuất hiện những háo hức là lạ.
Cố Vinh nhổm hẳn dậy.
Con ngựa đỏ vẫn liên tục hất cổ, giựt cương, giậm giật bốn vó, ngoáy đuôi bước tới bước lui với vẻ bức xúc và bứt rứt càng lúc càng tiến tới trạng thái điên khùng. Có một cơn bùng nổ đang giấu mình ở trong nó. Có một nỗi thèm khát cháy bỏng ở trong nó đang đòi được giải tỏa. Cảm nhận điều đó qua bản thân mình hay sao mà Cố bỗng dưng đỏ rửng cả gương mặt. Và cùng lúc ngài bỗng gằm mặt xuống đất vì thấy xấu hổ vô cùng khi thật tự nhiên và bất ngờ, ngài nhìn thấy một hiện tượng cực kỳ quái gở ở nơi bụng dưới con ngựa đỏ. Con ngựa đỏ, tên nô lệ tận tụy và cương cường sức lực của Cố, sau một hồi quấy đảo, rừng rực như một đám cháy, đã đứng im trên bốn vó căng tràn sức bật, và đang lặng lẽ thả ra, thật từ từ nhưng thật rõ rệt, từ bụng dưới của nó, một thỏi thịt gân guốc càng lúc càng dài, càng đỏ bầm và cương tức vô cùng. Khủng khiếp quá! Vì lúc này, như bị kích thúc từ bên trong, không thể gằm mặt xuống đất được nữa, ông Cố trẻ tuổi chập choạng đứng dậy và nhận ra sự thể bây giờ lại còn khiếp đảm hơn. Thỏi thịt thò lõ từ dưới háng con ngựa đực đã thả dài tới mức chấm vào ngọn cỏ. Nó đã là cả một khúc thịt vừa trơn nháy vừa nổi mấu sù sì. Và cơn tức hứng đã khởi phát, nó, cái khúc thịt ấy một khi chạm vào ngọn cỏ là lập tức trở thành một sinh vật độc lập, cứ tự động giật phắt lên, rồi hạ thõng xuống, bần bật, bần bật như đánh nhịp liên hồi.
Quả thật đây là lần đầu tiên Cố Vinh nhìn thấy cái vật giới của con ngựa đực. Ngài không thể tưởng tượng nổi cái vật thể quái quỷ ấy chui lần ở đâu mà bây giờ lộ diện lại to gộc, dài ngoẵng và dữ tợn thế. Nó cứ ngật ngưỡng bật lên, hạ xuống, nó không chịu ở yên. Và nguy hiểm quá, nó hút hồn Cố. Nó gây ra sức dẫn truyền. Cố bỗng thấy hai bắp vế và bụng dưới ngài như dồn máu, chuyển động giần giật và căng tức lạ lùng. Một con vật lâu nay đã bị nhốt kín trong đời sống tuyệt dục, vô hôn, trong mải mê sự đạo, giờ đây đang cựa quậy thức dậy trong ngài.
Vòng hai tay như ôm giữ phần bụng dưới có cơ sắp bung vỡ, Cố bỗng thấy mình xa lạ với chính mình và bơ vơ vì kinh hãi.
“Sùng Sử, người ở đâu?”. Định cất tiếng, Cố vội đưa tay bịt miệng mình. Lưỡi ngài khô ráp, miệng ngài đắng ngắt. Cố đã nhận ra tiếng thở gấp, cùng tiếng gầm ghì của gã vệ sĩ. Tiến lên một bước, Cố nhận ra, đằng sau con ngựa đỏ đang trình diễn một cách khả ố và thô lỗ cái hoạt cảnh bản năng tình dục không được chế ngự; Sùng Sử cũng như con ngựa đực, nhưng ở thế chủ động và đang khai triển hành vi tính giao thú vật của y. Y đã đè rập được một thiếu nữ Mông trên búi cây cỏ hôi. Y hung hãn như thú rừng vồ được mồi. Ngồi được lên bụng thiếu nữ nọ, y giật tung hai vạt áo khép của cô ta. Chính lúc ấy Cố Vinh cũng như mắt Sùng Sử, hai cặp mắt đổng thời nhìn thấy hai bầu vú xổng xểnh như hai cái bánh dầy trắng mịn của cô gái. Riêng Cố Vinh, Cố còn được biết thêm: phụ nữ xứ này không mang xu chiêng và nhìn sâu xuống phía bụng dưới thiếu nữ, Cố Vinh trẻ tuổi biết thêm rằng: họ chỉ có một lớp váy che ngoài.
- Bỏ ra! Bỏ ra, cho tôi tìm ngựa!
Đáp lại lời kêu rên và vùng vẫy của thiếu nữ, Sùng Sử trợn mắt, giơ con dao quắm sáng rợn lên cao, rồi y vứt dao, ập xuống, rú lên sằng sặc:
- Ngựa của em đây! Anh là con ngựa đực của em đây! Ối cha ôi, sướng quá, cha Vinh ơi!
Mặt Cố Vinh tối sầm. Óc ngài mù mịt. Ngài lểu đểu quay trở lại và vội nằm úp sấp xuống tấm da bò để chẹn một sức bứt phá nhức nhối vừa bột phát từ bên trong. Nhưng tiếng hí dồn dập, tức tối của con ngựa đực khiến ngài lại bật dậy, và sau đó ngài vừa quằn quại vừa thống thiết gào tên Đức Chúa Trời.
Que diêm đã bùng cháy thành ngọn lửa thần.
Điều đó thể hiện trước hết ở con ngựa đỏ. Nó không chịu rời chân khỏi vùng đất quanh gốc trúc đào nọ. Nó khịt mũi, hít thở mùi hoan lạc tỏa ra từ bụi cây cỏ hôi. Sau nữa lộ trình sai hẳn dự định. Hai thầy trò chiều đó dừng lại ở thôn Lao Chải, nơi có ngôi nhà thờ tạo tác từ gỗ pơmu lão đại bằng lưỡi rìu. Cố Vinh quên phứt mất mục tiêu chuyến đi là bản Mù Cang Chải và sự kiện con trâu trả nợ chết. Ngài thấy không còn hứng thú. Trong khi đó Sùng Sử coi việc ở lại Lao Chải là sự tất nhiên. Cô gái đi tìm ngựa bị hắn cưỡng ở bụi cỏ hôi, người ở thôn này, không ngờ lại là cả một đống lửa rấm âm ỉ bao nhiêu là khoái lạc.
Để CốVinh ở lại với ông trùm trưởng Mã A Thòn, cơm nước xong là Sùng Sử biến mất. Gần sáng y mới trở về. Trở về y liếm môi liếm mép như vừa ăn xong một bữa tiệc và hai mắt rực sáng. Quái, tình dục bẩn thỉu sao lại có ngọn lửa cháy sáng, bền bỉ thế!
- Cha Vinh à. Gái thôn này đẹp như gà sống thiến cả lượt - Sùng Sử cười - Cha có nhớ buổi nào gặp nhau, cha nói, tôi sửa lại câu ví đó không?
Cố Vinh ngoảnh mặt vào vách. Ngài sợ hai con mắt rừng rực đam mê có sức thôi miên của gã vệ sĩ. Nhưng y không kìm được. Y cứ chồm tới:
- Này cha, cha có nhớ đứa con gái tôi đè ở bờ suối Lao Chải không? Chà, nó là con ngựa cái.
- Cái gì?
- Nó bảo nó thích cha.
- Hớ!
- Chác là nó nhìn thấy... cái gì đó của cha...
- Úa!
Bất ngờ phát một tiếng nấc, Cố Vinh ngóc dậy. Tên vệ sĩ đang hừng hực hồi ức cuộc tính giao kia, mi không biết rằng Cố đang trằn trọc. Cố đang gắng sức để lại hình ảnh cô bé có hai bầu vú trắng mịn nọ ở nguyên vị chỗ bụi cỏ hôi đó hay sao! Cố đang gắng gỏi chế ngự mình. Cố quát:
- Sùng Sử! Anh không nhớ rằng, chỉ cần ngó đàn bà mà động lòng ham muốn cũng đủ là kẻ phạm tội tà dâm rồi đó hay sao?
Chà! Lời răn bảo của Cố lúc này còn có ý nghĩa gì với Sùng Sử! Y đang theo đuổi ý tưởng của mình. Y dấn tới sát cha.
- Cha ơi, có phải cha nói, thánh Pao-lồ dạy: Tình yêu là mối dây liên kết hoàn hảo nhất! Đâu có tình yêu, ở đó có Chúa, ở đó là thiên đàng?
- Phải!
- Cha ơi, có phải có lần cha nói: Ađam và Êva ăn trái cấm xong thì biết là mình đang trần truồng?
- Ta đã nói vậy!
- Còn con. Ngủ với nó ba lần liền con hiểu thế nào là cái khoái thú của đời người, con đã tới thiên đàng!
- Bay đi lời nói dâm bôn!
- Cha ơi, cha giỏi tiếng Mông, cha có biết câu nói cửa miệng này không: Đàn ông sung sướng hơn nhau ở người đàn bà!
- Lạy Chúa! Cha không hiểu!
- Đúng là cha không hiểu gì cả. Cha ơi, còn sướng hơn cả ăn uống kia. Ăn uống chỉ sướng miệng một mình mình. Một mình đàn ông thì không thể có sự sung sướng được! Phải có đàn bà!
Gã trai Mông giơ ba ngón tay. Y diễn tả các công năng của đàn ông đàn bà. Y miêu tả một cách cụ tượng cuộc giao phối. Mắt y lóe sáng. Niềm khoái lạc vô biên tràn trề trong mỗi lời y. Một mình đàn ông thì không thể có sự sung sướng được! Ôi, mệnh đề dân dã hay thánh triết đây, sao mà ghê gớm vậy. Chao ôi! Cố Vinh còn rất trẻ. Cuộc sống phàm tục ngài chưa trải. Cuộc sống ấy bấy lâu nay bị ngài coi như địa ngục. Và dục năng chính là con quỷ dâm loàn trong quan niệm của ngài. Ngài có biết đâu, cuộc sống ấy là thường nhật; cuộc sống ấy giờ đấy hiện ra với ngài lại sát sạt, thiết thân, sục sôi hấp dẫn thế.
Quỳ rập xuống trước tượng chúa, Cố Vinh rền rĩ:
Thà lình xì thà lình tù
Nhân danh cha và con và thánh thần.
Lạy Chúa! Sao con nghe rạo rực trong người quá thế! Xưa kia, đã có đôi lúc trong giấc mơ có quỷ ám, con đã từng biết tiết chế, kìm hãm, nay con thật không hiểu trong con đang quẫy động những cám dỗ đê tiện nhuốc nhơ, hay đang nảy nở những ao ước thần tiên? Con không hiểu trong con có một con quỷ dữ đang hoành hành hay đây là người bạn đòng hành thân thiết của con? Lạy Chúa!
Phàm vật gì nó đã sinh ra mà cố tình làm cho nó bé đi thì trái lại, nó càng to lên. Đã có cái khởi đầu tức thì sẽ có bước tiếp theo. Vùng hoan lạc bị nền giáo dục khép kín và khắc kỷ trở thành hoang hóa mở rộng từng ngày, đưa Cố Vinh trẻ tuổi vào trạng thái thất thần, hơ hoảng.
Nhiều đêm, Cố trằn trọc, quằn quại bên chăn gối. Đi tắm, ngài ngại ngùng phải cởi bỏ quần chùng áo dài. Ngài sợ nhìn thấy đàn bà con gái. Sợ nhìn thấy họ, nhưng lần đẩu tiên, do ám thị từ hành vi bản năng của con ngựa đực lông đỏ, ngài lại muốn gần gụi họ và thấy họ đẹp mẩy mang, hoang dã và rất phồn thực. Chà! Cuộc sống phóng dục ở đây diễn ra thật tự nhiên. Gái tắm truồng nồng nỗng bên suối cả bầy. Trai gái yêu nhau là có thể dâng tặng nhau thân thể mình, và trong ngày hội phóng đãng của bản làng, bất kể ai cũng có thể làm tình với ai. Khốn khổ cho Cố Vinh, ngài nhắm mắt bỏ qua, bịt tai lại không nghe, cũng vô hiệu. Trình diễn trước mặt ngài, trong óc ngài bây giờ liên tục là cảnh tượng trai gái, đàn ông, đàn bà ái ân hành lạc. Tội nghiệp cho Cố, nơi Cố nằm là một sàn gác. Đêm đêm từ đó, chỉ cẩn mở mắt nhìn xuống là Cố có thể tận mắt chứng kiến cuộc chung đụng nam nữ của các cặp vợ chổng. Ôi chao! Cái đời sống thường ngày nó là vậy mà sao Cố không biết tới, sao Cố lại lãng quên? Que diêm đã bùng cháy thành ngọn lửa thần thật rồi “Một mình đàn ông thì không thể có sự sung sướng được, cha có nhớ cái đứa con gái tôi đè ở bờ suối Lao Chải không?”. Những âm thanh đã lọt vào óc cuối cùng ngân lên thành một hồi chuông rền trong Cố!
Cố Vinh nhận ra ngài đã nấn ná ở lại nhà thờ Lao Chải gần tháng trời.
Một bận, trong buổi lễ, Cố phát hiện ra, mình đã đọc lẫn lộn lời kinh. Mồ hôi toát ra đầm đìa đúng lúc ngài nhận ra một ánh mắt vuốt ve mơn trớn; và vì người nọ quỳ ngay ở hàng ghế đầu, nên Cố nhận ra, hai vạt áo của cô ta khép không kín, để hở cả một vùng ngực trắng thăm thẳm niềm liên tưởng.
Cái gì đã có khởi thủy thì sẽ có chung cuộc.
Buồn thay, người đi cải hóa kẻ mông muội lại bị bọn người bị coi là mông muội gieo hoang mê. Trần thế đầy rẫy sự thể và bọn người chưa được giáo hóa, cần được giáo hóa lại đầy rẫy những bài răn dạy không vòng vèo lý thuyết, chỉ trực giác mà hiệu quả tắp lự! Thiên đường hóa ra cũng có nhiều lối để đi lên!
Tan buổi lễ, Cố Vinh chờ cho tất cả con chiên ra về mới ra khỏi nhà thờ. Vòng ra sau tháp chuông, trong bóng râm đổ xuống của tòa nhà lấp lánh ánh trăng, cạnh chỗ xếp các chũa(2) củi cao vót dự trữ chống rét cho cả mùa băng giá sắp tới, Cố dừng chân bước.
- Cha!
Bật lên một tiếng thiếu n