- 6 - Xa xôi Thôn Ngựa Già
I
Tháng mười một Tây rồi mà trời còn nồng nực như giữa mùa hè. Quạt máy quay vù vù suốt hai mươi tư giờ không ngừng nghỉ. Trừ khi phải ra ngoài, còn suốt ngày ở trong nhà, đánh cái quần đùi với chiếc may ô cũ, đến bữa khoanh tròn trên nền đá hoa, chan nước canh dầm sấu húp sùm sụp mà người vẫn cứ là nẫu nà bã bượi, bải hoải như không còn gân cốt. Thời tiết không có con tim. Nó không biết thương xót ai cả. Nóng oi quá, có lẽ vì vậy mà con chó Tép nòi Tây Ban Nha tai cụp, lông trắng vá nâu không ngủ được, cả đêm sủa nhăng nhẳng, đến mức ông Khái, chủ nhân, một nhà cách mạng lão thành, ở khu tập thể này mất giấc ngủ trưa như thường lệ, tỉnh dậy, sau khi quát: “Muốn ăn đòn hả?” rồi sau đó tìm hiểu lý do thì mới biết, nó nổi giận chỉ vì một con cóc cụ chắc củng do oi ngột quá từ sân nhẩy vào, ngồi chềnh ềnh trước cửa, ra oai nghiến răng kèn kẹt.
Tiếng cóc cụ kêu chắc đã thấu trời. Nên trưa ấy đang vật vã trở mình, bỗng thấy như có luồng khí lạnh thổi vào hai ống chân. Và mảnh chiếu ở dưới nhơm nhớm như chườm một hơi nước đá. Trên gác hai có tiếng đập chăn thùm thụp rồi tiếp đó vẳng xuống một giọng phụ nữ ngọt ngào và thánh thót: “Trời sắp mưa rồi, bác nào có quần áo phơi thì tỉnh dậy cất hộ em đi mới nào!”.
Con chim đẹp có tiếng hót hay. Người đàn bà trên gác chắc xinh đẹp nên giọng của chị có sức quyến rũ đến mức tất cả đàn ông ở dãy nhà tập thể nọ bất giác đều thức tỉnh. Họ tưởng người phụ nữ gọi riêng mình. Ngoài trời đã thấy ngọn gió thổi nhè nhẹ, đung đưa cành phi lao và lát sau trên mảnh sân chung cư lát xi măng đó đây đã loang loang những mảng sẫm bụi mưa. Quanh gốc cây mỡ già lún phún cỏ xanh, từ một cái bếp dầu hình tròn, một ngọn khói đang đùn lên quằn quại hình cái lò xo. Và lần lên tiếng này, người phụ nữ ở trên gác hai của dãy nhà, một đơn nguyên có đến chín căn hộ liền tường, ngó hẳn ra ngoài khuôn cửa nên người ta có thể nhìn rõ một gương mặt xinh xắn với những đường nét duyên dáng cùng những lọn tóc, mái tóc quăn tự nhiên ở hai bên thái dương chị: “Coi người trên này với con chuột làm một rồi, bác Chí ơi!”.
Tỉnh giấc, tôi vội cầm cái quạt nan chạy ra sân. Trong khi đó, như đã phục sẵn để chờ thời cơ, ông Chí, bạn vong niên của tôi, một ông già sở hữu một thân thể săn chắc, da bánh mật, gân guốc, đã nhanh nhẹn bê ra sân một cái bếp dầu hình vuông, đặt xuống và ngửa mặt lên tầng gác trên, cất tiếng bằng một giọng rất vang trầm:
- Chào cô giáo Loan! Cô yên tâm đi! Cái bếp dầu tròn đùn khói kia chỉ là vật đối chứng với cái bếp dầu không bấc, không khói, tiết kiệm tối đa nhiên liệu tôi mới mang từ Triển lãm Kỹ thuật - Công nghệ thành phố về, biểu diễn cho bà con biết thôi, hà!
Nói đoạn, ông ngồi xuống, hai đầu gối thúc hai ống quần xanh rêu căng cứng như hai cồ đá, và rút từ trong túi ra một bao diêm. Que diêm xòe lửa. Mấy cái lỗ trên nắp bếp thông với bầu dầu bắt lửa hập hờ nhận một hơi gió rồi hiện ra một vòng lửa tròn đều nhoang nhoáng xanh lơ dập dờn như có như không. Tịnh không một sợi khói. Cũng không một thoảng mùi hôi của dầu. Bếp dầu không khói vì không có bấc, vì nhiên liệu được đốt hết. Đơn giản vậy mà cũng tài tình làm sao! Mặt ông Chí ngẩng dậy hừng lên một niềm vui thật thơ trẻ.
Bếp dầu không bấc, không khói, một sáng chế của ông Chí. Sáng chế này của ông đã đoạt giải vàng trong cuộc thi phát minh, sáng chế kỹ thuật dân dụng hàng năm của thành phố. Và bây giờ, ở trên cái sân chung cư, có đến hơn chục người đã thức giấc trưa, xúm đến, trầm trồ xuýt xoa thú vị như đang thưởng thức một tiết mục ảo thuật. Chà, cái nhà ông Chí này, óc lão cấu tạo bằng chất liệu gì mà lão cứ liên tùng tục nảy sinh các sáng chế phát minh vậy, lão định theo gót Êđisơn cha đẻ của cái bóng đèn điện, nhà phát minh thiên tài, tác giả của hơn ba ngàn sáng kiến công nghệ chắc!
Ông Chí luôn là nỗi bất ngờ với mọi người. Tuy nhiên vào lúc này, tôi nhận ra, trong khi hào hứng giới thiệu với mọi người về cấu tạo tính năng của cái bếp dầu cải tiến của ông, một nửa phần tâm não ông vẫn hướng lên gác trên, căn buồng của cô giáo Loan, ở đó, trên sợi dây phơi giăng theo hàng hiên đang lất phất bay một tấm khăn voan màu hổng. Ông Chí rất muốn nhìn thấy mặt cô để khoe. Chà! Ai bảo là đàn ông cao tuổi không ham đàn bà đẹp. Nhưng mà cô giáo Loan đang bận soạn bài tiếng Anh với tiêu đề Năm vở bi kịch của William Shakespeare cho học trò ở trong nhà. Ló ra ở tầng gác trên, cạnh nhà cô giáo Loan lúc này chỉ là một người đàn ông cùng tuổi với ông Chí, mang khuôn mặt lưỡi cày, với cặp lông mày lưỡi mác rậm rà phủ che hai con mắt ti hí. Người này là ông Khái, chủ nhân con chó Tép, hàng xóm bên tả nhà cô giáo Loan, giữ chân bí thư chi bộ phường sở tại mấy khóa liền, nổi tiếng về nguyên tắc tính. Ông này lấy ngón tay ấn một bên cánh mũi, xì mạnh như kiểu người bị rỉ mũi làm tắc đường thở, rồi nhìn ông Chí với ánh mắt càu cạu vừa khó chịu vừa ganh ghét. Hừ, cái lão già hâm này lại dở dói ra cái trò gì thế! Rồi ông quay mặt vào trong nhà, gườm mắt, tự nhiên như không cần biết có ai nghe thấy không, quát liền một hơi: “Đổ đĩ non. Muốn sướng cho sướng mà không biết hưởng! Còn nằm ườn thần xác ra ăn vạ ai đấy. Mặc quần áo vào! Dậy đi!”. Người nghe thấy tiếng ông, chắc sẽ đoán chừng là ông quát mắng cô ôsin hai mươi tám tuổi người Hà Tây có cặp mắt lá răm đã đến giúp việc nhà ông gần sáu tháng nay được tiếng là lẳng lơ.
Ông Nguyễn Văn Chí năm nay vừa vào tuổi sáu lăm. Cao một mét bảy mươi hai. Vóc hình cân đối. Da dẻ săn seo. Xương xẩu gồ ghề. Cơ bắp rắn đanh, chân tay mình mẩy nổi cục nổi hòn toàn đầu mấu, va đâu cũng chẳng biết đau. Mặt hình quả trám, ông có đôi lưỡng quyền lộ cốt nhô cao. Đặc điểm dễ nhận là vẻ hồn nhiên cố hữu hiển hiện ở đôi tai vểnh tròn như cái lá mít tuổi thơ và cái trán tóc bò liếm. Thêm cái mũ lá cọ sờn buột vành. Đôi chân mốc mác xỏ trong đôi giày cao cổ da trâu. Và cái xắc cốt giả da đỏ quạch màu quết trầu gắn bên sườn. Thì các họa sĩ chỉ cần thêm vài nét dọc ngang nữa là có thể hoàn thành bức chân dung một con người cổ giả của nửa thế kỷ trước, lúc Cách mạng tháng Tám năm 1945 mới thành công. Cũ kỹ, kham khổ, ham mê lang bạt, ưa thích phiêu lưu và gan góc, thậm chí bạo tợn, toát ra từ ông là những phẩm cách ấy.
Ông Chí sinh năm Ngọ. Khí chất người có tuổi ngựa hiển nhiên là ưa động chứ không thích tĩnh. Lại thêm, xét về mặt phong thủy, quê hương làng Phù Lưu, huyện Mỹ Đoán, tinh Hà Tây của ông, tọa lạc trên thế đất Mậu Ngọ nên tung hoành dọc ngang phỉ chí nam nhi vốn là cốt cách định mệnh, chẳng riêng gì cho ông. Chúng ta là những hạt giống được ngọn gió cách mạng thổi đi mọi phương trời. Đó là một tứ thơ của Nguyễn Đình Thi. Ấy thế, ám quẻ, phụ họa, điểm tô, chắp cánh, kích động tính cách của ông Chí, ngẫm ra cũng không thể không tính đến ảnh hưởng mang tính chi phối của ngọn gió cách mạng? Chưa kể, ngôi làng ông trước cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 long trời lở đất, xoay chuyển cả cục diện thế gian, vốn là một làng nghề chuyên dệt hàng cao cấp, và dân làng ở đây không ít kẻ đã quen thuộc với cuộc sống nơi thương trường, nhiều anh chị đã từng lên xe xuống tầu đem sản phẩm đi bán tận Tân Gia Ba, Sài Gòn. Hiển nhiên vùng quê trú ngụ những con người bán nông bán thương, am hiểu kỹ thuật này đã trở thành nơi yếu địa, thành ra rất dễ hiểu, khi chính quyển cấp huyện thời còn mồ ma thực dân phong kiến đã quyết định đóng nhiệm sở tại đây. Bộ máy quyển lực nơi đây khá hùng hậu. Dưới quyền một quan tri huyện vô cùng mẫn cán và độc ác là cả một máy quan liêu với đầy đủ các ban bệ và hai tiểu đội lính cơ súng ống sẵn sàng và thiện chiến. Vậy mà rốt cuộc chỉ một ngày một đêm, bộ máy áp chế nọ cũng tan tành thành tro bụi. Chẳng một câu chỉ thị, không một tờ truyền đơn kêu gọi, chẳng một phái viên của cấp tỉnh, cấp huyện nào về tuyên truyền thúc giục, trai tráng trong làng, nghe hơi nồi chõ, nhận ra tình thế, cầm đầu là ông Chí và mấy người nữa, tự động kéo nhau đến bao vây huyện đường, chia nhau người cửa tả, kẻ cánh hữu, nghe hiệu lệnh chống cướp của hương ước, vác mã tấu nhất tề xông vào, giải giáp vũ khí của lính cơ, bắt trói tri huyện cùng các viên lục sự, giải lên nộp cho Việt Minh huyện. Rồi sau đó, cuối năm 1946, cũng chẳng có ai kêu cầu bảo ban, ông Chí cùng năm sáu anh trai làng nữa dông ra Hà Nội gia nhập chi đội Vi Dân làm cuộc Nam tiến hỗ trợ đồng bào miền Nam chống quân xâm lược Pháp gây hấn trở lại. Còn bây giờ, thì khắp nơi trên địa cầu, từ Hoa Kỳ, Canada Tây bán cầu đến Anh, Pháp bên châu Âu, Iran, Iraq miền Trung Đông đất khét mùi dầu lửa; còn trong nước thì từ Sài Gòn, tứ giác Long Xuyên đến Đồng Văn, Quản Bạ xa xôi. Nơi nào cũng có cư dân là người làng ông, dân giang hổ tứ chiếng, nổi danh táo tợn.
Vỡ mặt trận Tuy Hòa năm 1947, ông Chí kể, tôi dạt lên Tây Nguyên và ở đó suốt chín năm kháng chiến chống Pháp. Thoạt đầu là cán sự tỉnh đội, chuyên huấn luyện dân quân du kích địa phương, một thời gian dài, sau hạ phóng làm khu trưởng vùng đồng bào Ba Na, xây dựng cơ sở cách mạng, lập làng chiến đấu vừa chống giặc vừa lo sản xuất cứu đói, nuôi dân nuôi bộ đội, thôi thì đủ việc bận rộn, nào khai hoang làm nương rẫy, đào kênh dẫn nước làm thủy lợi, nào dạy đồng bào dùng trâu kéo cày làm ruộng, trồng lúa nước... Năm 1950 bộ đội tiến lên chính quy, vì đã từng là anh thợ kỹ thuật ngành dệt, nên ông Chí được điều động trở lại đơn vị tập trung. Từ đây, ông như con dao pha, chức trách liên tục đổi thay, lúc làm giáo viên trường hậu cần quân khu, khi đóng vai chủ nhiệm quân giới, chủ nhiệm chính trị trung đoàn. Năm 1954, hòa bình lập lại, tập kết ra Bắc, ông được cử đi tham gia cứu đói ở khu Ba. Năm ấy đói đến mức dân nhiều vùng phải hái lá dâm bụt ăn thay cơm. Tiếp đó ông tham gia chiến dịch chống địch dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào công giáo di cư vào Nam. Và kết thúc công việc nọ thì cùng đơn vị chuyển sang làm cải cách ruộng đất ở tỉnh Thanh, trực tiếp đấu tố đánh đổ hơn chục địa chủ. Ít lâu sau, xét lý lịch ông, thấy con người này đã từng sống ở Tây Nguyên, đã quen với cuộc sống nơi núi rừng, tổ chức bèn điều ông lên tỉnh thượng du Lao Cai dưới danh nghĩa cán bộ tăng cường. Ông về phụ trách một xã người Mông. Vận động bà con làm ruộng nước, kết hợp tiễu trừ thổ phỉ. Đào một con mương dài, ngắm bằng mắt, thả cái nia, trôi xuôi là được. Không có mìn phá đá, ông phát huy sáng kiến đốt lửa, nung đá rồi lấy nước lạnh đổ òa xuống, kết quả phá cả một dông đá dài, hình thành con mương thứ hai dẫn nước về phục vụ đời sống bà con. Tỉnh lập chi cục máy kéo khai hoang, thấy ông đã từng là chủ nhiệm quân giới trung đoàn, lại là người lắm sáng kiến, liền đưa ông về phụ trách. Chi cục chỉ có hai cái máy kéo MTZ. Ông phó bí thư tỉnh ủy yêu cầu ông đem một chiếc lên nương Xín Mà Chải - Thôn Ngựa Mới, khai hoang năm hecta bằng cơ giới để bà con dân tộc Mông thấy tận mắt tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, trâu đỏ ăn dầu thắng trâu đen ăn cỏ thế nào. Ông lắc đầu. Đất dốc thế. Cái máy MTZ bốn bánh cao lênh khênh là chiếc va ly hay sao mà xách đi được. Phản đối nghị quyết của tỉnh ủy, bị quy là thuần túy chuyên môn, không phục vụ chính trị, rốt cuộc ông đành phải đích thân lái chiếc MTZ đi Lao Mà Chải với cái bi kịch hiển nhiên là máy MTZ bốn bánh đổ kềnh. Và ông bị kết tội là cố tình gây sự cố, phải nhận kỷ luật lưu đảng một năm. Đúng lúc ấy Mỹ mở rộng địa bàn chiến tranh phá hoại ném mấy quả bom xuống cầu Nhò của tỉnh. Có một quả bom nổ chậm. Người ta cử ông tới phụ trách. Chỉ cuốc xẻng, dây tời bằng mây song, ông móc được quả bom nọ lên, lăn ịch nó xuống suối, gài bộc phá cho nó nổ, giải phóng được con đường, án kỷ luật ông được xóa. Miền Nam giải phóng. Lại là cái khí chất xông pha, ưa động, thích phiêu lưu đây đó, nghe được trong hơi gió lớn của cách mạng lời nhắn nhe của cuộc sống, ký ức Tây nguyên trong ông sống lại bừng bừng giục giã! Ôi Tây Nguyên đất đỏ ròng ròng mênh mang, mặt trời lên xuống chạm đất chân trời, nắng mưa hòa quyện, cây cỏ tốt tươi như chính lệnh. Về với Tây Nguyên, ở nơi đó người chiến binh là ông lại được thỏa sức dọc ngang, bận bịu và say sưa ngày đêm với các chiến công, với đủ các công việc, nào dạy dân cày trâu, làm ruộng nước khai hoang, nào đào mương dẫn nước làm thủy lợi... Ôi chao! Những trang tiểu sử cá nhân phong phú đến mức dư thừa chất liệu cho một tòa lâu đài văn học, gây thèm khát cho các tay viết văn muốn có được một cuốn tiểu thuyết trường thiên phiêu lưu ký!
Cách mạng là một cuộc phiêu tán lớn nhất của lịch sử, thế là ông đã trải nghiệm đã dấn thân. Và hiển nhiên là bây giờ trở về sau cuộc trường chinh dài dẵng mấy chục năm trường, khi tuổi đã cao, lưng đã khòng khòng, đuôi mắt đã nứt kẽ, đầu bạc từ chân tóc, thì sống trong an lạc nghỉ ngơi là điểu chẳng ai có thể trách cứ và lương tâm ông hoàn toàn có thể yên ổn. Tôi đã nghĩ vậy trong sự so chiếu với nhiều bậc cao niên đáng kính sống cùng trong tổ dân cư. Nhưng tôi biết là mình đã lầm. Ông Chí cùng hai cô con gái dọn đến căn hộ tập thể, bên phải nhà cô giáo Loan được ít lâu thì tôi được quen biết ông và ngay lập tức tôi biết là mình lầm. Ông Chí rất hiếm khi có mặt ở nhà lâu lâu chừng một tháng. Hỏi hai đứa con gái thì mới được biết, ông liên tục vắng nhà, vì lúc thì đi Lao Cai, Lai Châu khi thì lên Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn. Ông tới các tỉnh miền núi vận động người ta trồng thầu dầu, trồng cây quy-nuya hoa vàng, trồng cây cỏ ngọt. Ông nghiên cứu cách cấy ngọc cho trai, ông làm dự án cải tạo hồ này, vùng du lịch sinh thái kia, ông chế thuốc cai nghiện ma túy rồi ông đem sáng chế phát minh của ông đi. Hóa ra con người này là con người luôn bận rộn, không bao giờ để óc mình ngơi nghỉ, là con người của công việc. Phương châm sống của ông có lẽ chỉ thu tóm lại trong hai chữ: hành động!
Chẳng hạn, gần đây trong quá trình sử dụng tấm lợp phibrôximăng, người ta đã nhận ra tấm lợp này đã sản sinh ra loại bụi amiăng rất độc, vừa gây ô nhiễm môi trường vừa có hại cho sức khỏe của con người. Biết tin đó, chẳng ai bảo, ông tự động mầy mò nghiên cứu phương án xử lý. Và kết quả là ông tạo ra được một sản phẩm mới, tên gọi là tấm lợp chất lượng cao sản xuất từ phế liệu cao su và chất keo nhựa phủ lên tấm lợp phibrôximăng để chống độc. Đúng lúc nghe đài báo, xã Lùng Phìn tỉnh Lào Cai bị lũ ống tàn hại mấy chục nóc nhà dân. Thế là ông đùng đùng gọi tôi sang, bảo: “Ông nhà báo này, ông có rỗi không? Mời ông đi với tôi. Tôi phải lên tỉnh đó phổ biến cho họ quy trình làm tấm lợp chất lượng cao để giúp dân dựng nhà cửa!”. Và khi tôi nói đang mắc một công việc ở tòa soạn thì ông bảo không sao và một thân một mình lên đường. Một tháng sau, ông trở về. Chẳng thấy ông nói gì về cuộc đi, đã lại thấy ông cặm cụi vào việc khác. Còn mấy hôm nay sau khi hoàn thành công trình bếp dầu không bấc thì ông tha ở đâu mấy củ mỡ to như củ nâu về, gọi tôi sang, bảo: “Tôi đi qua bến xe Bảo Nhai, Lào Cai, thấy người ta chất đống cái thứ củ này, củ nào cũng có vết răng nhím gặm ngon lành, liền xin về mấy củ, thử trồng xem, nếu nửa năm thu hoạch được thì tôi sẽ có kế hoạch phát triển nó ở các tỉnh miền núi”. Và ông đào một cái hố tròn sâu bằng cái hố cá nhân tránh máy bay ở góc sân, rồi đổ phân hoải xuống đó, đắp cao lên như cái ụ mối đùn để trổng thử nghiệm.
Nhưng lần này ông Chí đang sửa soạn tiền nong, tư trang lên đường làm cuộc viễn du không ai mời mọc và yêu cầu thì hai cô con gái ông sang tôi. Cái Nga chị cả đang học Khoa Văn Đại học Sư phạm. Và cái Mai đang học lớp 12. Cả hai đều không có nét nào giống bố. Tuyệt không một dấu vết khắc kỷ, tất nhiên, cả đến ngoại hình, trừ cái gò mũi cao là của ông thân sinh, còn đều trắng hồng, xinh xắn, với cặp mắt hai mí đen lay láy trên khuôn mặt tràn đầy ánh sáng trí tuệ và chan chứa tình yêu thương. Lời đồng thanh của cả hai chị em khi gặp tôi là: “Chú nhà báo ơi. Chú can bố cháu hộ chúng cháu với. Chú bảo bố cháu đừng đi nữa, chú ạ”.
- Chú ơi! - Trong khi cô chị xúc ấm pha trà, cô bé em tên Mai thổn thức: “Bây giờ chúng cháu đều đã lớn, nên chúng cháu càng cần bố cháu ở nhà để bảo ban công việc hàng ngày, chú ạ. Mà cháu không hiểu về hưu từ lâu rồi mà tại sao bố cháu lại vất vả thế. Như bác Khái ấy, trông thấy bác ấy sáng sáng thong dong dắt con Tép đi mấy vòng quanh hồ, rồi chơi cầu lông, an nhàn thanh thản, cháu chỉ ước bố cháu được như thế thôi”.
Tiếp lời em, Nga nói, giọng xót xa:
- Chú ạ. Khổ, bố cháu chả thức thời gì cả. Bây giờ người thành phố toàn dùng bếp ga, với bếp từ, có ai còn dùng bếp dầu đâu. Đầy là cái sáng kiến bố cháu được giải khuyến khích cách đây mười năm rồi. Còn các việc khác có ai phân công bố cháu đâu. Có ai người ta cần đến bố cháu đâu. Các công trình của bố cháu có ai người ta để ý đến. Tỉnh người ta có Ủy ban Khoa học Kỹ thuật, người ta coi sáng kiến của bố cháu có ra gì. Đấy, như cái phát minh tấm lợp chất lượng cao, bố cháu tự nguyện bỏ tiền túi ra làm, rồi tự thân đi lên Lào Cai để phổ biến cho họ. Nhưng ở tỉnh họ tiếp đón rất hờ hững. Thế là bố cháu đi bộ ba ngày lên tận cái xã Lùng Phìn đổng bào bị lũ ống, kết cục là bị viêm phổi, nằm viện hai tuần liền đấy. Các việc khác như trồng thầu dầu, cây cỏ ngọt, cây quy-nuya hoa vàng, dự án này khác cũng vậy. Thấy bố cháu quá nhiệt tình, nể quá, bất đắc dĩ họ đành phải tiếp thôi. Rồi vì xã giao thì người ta khen vài câu như lấy lệ. Đến khi bố cháu yêu cầu họ thực hiện sáng kiến thì họ cám ơn, rồi tìm cách thoái thác, hoặc tìm cách khất lần, hẹn khi khác. Bố cháu chả hiểu gì! Cứ tưởng người ta quý trọng mình thật! Thế là hẹn ngày ấy ngày nọ sẽ lên. Rồi trước khi về lại yêu cầu họ cho một cái giấy nhận xét. Hẹp hòi gì mà họ không ban cho mấy câu động viên. Nào là rất đáng quý nhiệt tình người cộng sản của đồng chí. Nào là tinh thần vì dân của bác đúng là phẩm chất truyền thống của anh bộ đội Cụ Hồ. Bố cháu ngây thơ, coi đó là vinh dự. Có biết đâu họ tiễn được bố cháu đi coi như thoát nợ kẻ gàn dở hay quấy rầy. Đấy chú xem, khắp tường nhà bố cháu dán toàn giấy chứng nhận với thư khen của các tỉnh, các huyện mà có biết đâu là mình lẩm cẩm, đang bị người ta giễu cợt. Đấy, hồi này lại tha ở đâu mấy củ mỡ củ từ gì đó, rồi trồng thử, có biết đâu mọi người cười thầm trong bụng, coi mình là người lạc thời hâm dở.
Nhìn tôi chăm chú nghe, Nga tiếp:
- Chú ạ, mỗi lần bố cháu đi là chị em chúng cháu chỉ lo bố chúng cháu ốm thôi. Mà bố cháu có khỏe đâu. Mấy năm trước đã mổ đục thủy tinh thể cả hai mắt. Răng đã rụng gần hết, toàn răng giả. Lại viêm xoang mãn tính. Còn u xơ tiền liệt tuyến, đêm đi tiểu cả chục lần. Gần đây lại ho. Bác sĩ hẹn chụp cắt lớp động mạch vành. Thế mà có chịu đi đâu. Chúng cháu lo lắm. Mẹ cháu mất cách đây hơn chục năm vì bệnh tim, chú ạ.
Nỗi lo đã dâng lên tới cực điểm. Cô gái cả nhìn tôi, không giấu nổi nỗi lo sợ qua giọng nói vô cùng thống thiết:
- Chú ơi, cả đời bố cháu trèo đèo lội suối cơ cực cay đắng đã đủ rồi. Cháu tự hỏi tại sao bây giờ bố cháu không được quyền nghỉ ngơi. Nói thật với chú, bên ngoại, tức họ hàng bên mẹ cháu để lại cho chúng cháu một gia sản đủ để bố cháu và hai chúng cháu sống không đến nỗi nào. Thế thì bố cháu bị Trời hành à?
Ngừng một lát, Nga hạ giọng, rơm rớm nước mắt nhìn tồi:
- Chú à. Vào học năm thứ ba Khoa Văn Đại học Sư phạm, cháu bắt đầu học các tác phẩm kinh điển của văn học thế giới. Chắc chú đã biết tác phẩm Đôn Kihôtê, Nhà quý tộc tài ba xứ Mantra của văn hào Miguel De Cervantes Tây Ban Nha. Nhà quý tộc đã ngoại ngũ tuần này này đọc nhiều sách kiếm hiệp quá nên mắc chứng hoang tưởng, đang yên lành, tự dưng sắm ngựa, mang khiên, mộc giáo rỉ ra đi đóng vai kỵ sĩ đánh nhau với cối xay gió, với đàn lợn vì tưởng nó là bọn tướng khổng lồ, là đội quân của lũ phù thủy, hành động rất gàn dở lố lăng, làm trò cười cho thiên hạ mà tưởng là mình đang thực hiện sứ mệnh thanh trừ mọi xấu xa, tàn bạo, bất công, phù nguy cứu khổ, phò chính trừ tà. Bố cháu bị người ta lừa mà không biết hay là bố cháu tự huyễn hoặc mình như nhà quý tộc nọ? Cháu xin lỗi vì cháu đã quá lời về bố cháu. Nhưng quả thật là chúng cháu đã bao năm nay khổ tâm về bố cháu rồi. Chú giúp nói với bố cháu đi!
Hai cô con gái, cùng một nỗi lo âu và thương cảm cha, cùng một lời khẩn nài, vả chăng sống cạnh ông Chí ít lâu tôi cũng có điều băn khoăn về ông, nên cuối cùng không thể không trò chuyện, nghĩa là lựa lời góp ý khuyên can ông. Tất nhiên là không dám nói là ông ngây thơ, ông bị lừa, cũng chẳng dám lấy gương ông Khái lão thành cách mạng láng giềng sống ung dung, nhàn nhã cho ông soi. Tôi chỉ nói về tuổi tác về sức khỏe, về cái bất khả kháng của tuổi già. Gần cả buổi, ông chỉ nghe, và đợi tôi nói xong, sửa soạn ra về, mới vỗ vai tôi, cười khề khề:
- Cám ơn cậu đã có lời góp ý. Nhưng cậu hãy nhìn tôi đây này. Vừa nói ông vừa sắn tay áo, gập cánh tay trái lại, rồi vỗ bèn bẹt vào con chuột nổi gồ ở phần bắp trên và hất hàm: Tớ với cậu thử vật tay xem ai thắng nào? - Đoạn, hai con mắt đo đỏ, nứt kẽ của ông nháy liền mấy cái - Này! Đây còn sức cưa cẩm mỹ nhân cùng tổ dân phố đấy, biết ai không? Ha ha ha... Amai xiam xa nắc. Kau đắc amai xà nắc. Tiếng Ba Na đấy. Đố cậu biết tớ định nói gì?
Thấy tôi đứng dậy, ông liền ấn tôi ngồi xuống. Và bây giờ mới là câu trả lời của ông:
- Ông nhà báo trẻ này. Chắc ông không biết bài hát này? Chúng ta bước lên đường khi thời cơ đó đến. Mặc đường trơn. Mặc đường xa gió lạnh. Ta cứ đi! Ta cứ đi! Quyết mang chiến công về. Anh em ta ơi! Chúng ta là bộ binh trợ chiến. Mùa đông này ta quyết đánh giặc tan! Tôi nhớ một hôm hát xong bài đó thì Đội cải cách đưa tên địa chủ Đặng Ngọc Chén ra để bà con nông dân đấu tố. Thằng cha vô cùng ngoan cố. Nói câu nào nó cãi lem lẻm câu đó. Đồng chí đội trưởng uất quá, hô: Treo nó lên, đốt chân! Chính tôi xung phong xông ra trói nghiến thằng cha lại rồi leo lên cành đa, kéo dây, treo nó lên đấy. Tôi đâu có phải là anh hèn.
Cái yết hầu khẽ nhún một cái, ông nhìn tôi, đầy vẻ tự thị:
- Tính tôi ấy à. Đã xung trận là không có lui. Là như nhấp chén rượu đầu. Đã đánh là đánh liên tục! Đánh tung vó ngựa! Đánh bửa trăm thành. Đánh phanh giáp trận! Đánh không cho ngáp! Đánh áp mặt tiền! Đánh liền trăm trận! Đánh như thế mới thỏa, mới sướng, anh nhà báo trẻ ơi!
II
Chẳng có gì cản ngăn được ông Chí cả. Ông là viên đạn đã ra khỏi nòng. Là chim bằng đã cất cánh. Là cỗ máy đã khởi động. Trường hợp này may chăng là có mỹ nhân kế. Nghĩ vậy là đặt ra một giả tưởng cho vui thôi, chứ làm sao mà áp dụng ngay được. Thì đêm ấy, đang ngủ, nghe thấy dưới sân có tiếng ô tô cấp cứu rú còi. Sáng sau, tám giờ thấy ông Khái trong bộ đổ thể thao, áo quần xanh lơ sọc trắng dắt con chó Tép lông trắng vá nâu, tai cụp đi quanh con hồ Thanh Hoa tám vòng như thường lệ đã trở về. Cùng lúc cô giáo Loan cũng đã dắt chiếc xe Spacy đi dạy học như thường lệ. Mà không thấy ông đứng ở góc sân, cạnh cái ụ đất trồng củ mỡ thí nghiệm, tập bài Ngọc trản ngân đài, nôm na là tay nâng chén ngọc mềm dẻo và huyền ảo như vũ điệu nơi cung đình, trong khi cửa nhà ông vẫn đóng im ỉm. Sinh nghi, gõ cửa, không thấy tiếng phản hổi, tôi vội lấy điện thoại gọi cho cô con gái lớn cũng không nhận được lời đáp. Lát sau nhìn xuống sân, thấy con bé Mai tóc tai phờ phạc, dắt chiếc xe đạp đi vào, tay lái ngoặc cái cặp lồng. Tôi vội chạy xuống, hỏi thì con bé thoát một hơi thở lạnh toát, nói không ra hơi: “Bố cháu đi viện tim mạch cấp cứu tối qua rồi ạ!”.
Ông Chí bị nhồi máu cơ tim. Bất ngờ mà cũng là đúng quy luật. Làm sao mà chống lại được bệnh tật khi tuổi già. Vào cuối tuổi sáu mươi, ông mổ phacô thay thuỷ tinh thể bên mắt trái. Năm sau thay nốt mắt phải. Không kể ba cái thứ tật bệnh vặt như viêm xoang, viêm mũi, viêm họng mạn tính rồi thấp khớp, trào ngược dạ dày, trật đĩa đệm đốt sống lưng, không chữa được, không lây, không chết người tái phát mỗi khi trở giời thì bệnh huyết áp cao xuất hiện năm năm mươi tuổi, kéo dài đã gần hai chục năm là kẻ giết người thầm lặng đã kè kè kề bên.
Ông thân sinh ra ông mất năm cụ sáu lăm tuổi vì sốt rét ác tính ở Việt Bắc. Mẹ ông mất vì bệnh tim năm người bảy mươi ba tuổi. Khi mẹ ông mất, anh cả ông buồn rầu than: “Thế là thế hệ bố mẹ đã mãn, giờ đến lượt mình rồi!”. Hai chục năm sau, năm 2001, bảy mươi hai tuổi, ông anh cả một đêm đông ngủ sáng sau thấy nằm im, không cựa động, sờ chân tay đã thấy lạnh ngắt. Các bác sĩ khám nghiệm, kết luận, bị cơn huyết áp cao đột xuất, vỡ động mạch chủ. Cách đây hai năm, chị gái ông nửa đêm bỗng nổi cơn đau ngực dữ dội, người nhà vội đưa đi cấp cứu, nhưng đã quá muộn, vả lại bệnh viện huyện không đủ phương tiện cứu chữa nên đã mất sau khi nhập viện hai ngày. Những thế hệ sinh trước, giống như những hàng cây chắn gió chở che, đã thưa vắng dần. Lần lượt cái chết chạm đến từng người một, ở trước ông, ở sát bên ông.
Trời đất là hý trường, bi kịch là sinh mệnh. Đó là nói về tính quy luật của sự sinh tử phổ quát. Thế còn những tai họa không thể lường. Thế hệ ông gần như ai trong đời mình cũng phải đối mặt với hai thách thức ác nghiệt có thể hủy hoại lập tức tính mệnh mình. Một là nghèo đói. Hai là chiến tranh. Còn bây giờ, đời sống được cải thiện, chiến tranh đã qua, thì lại nổi lên một thách thức kinh khủng khác nữa, đó là bệnh tật. Tuổi già, tật bệnh nảy sinh như cỏ dại trên đất hoang. Và phải nói ngay rằng, đối với bệnh tật và tình trạng sức khỏe của con người, thời đại ông vẫn là một thời đại vô cùng hoang dã. Mọi người sống trong tù mù. Chẳng biết gì về cơ thể của mình và thiếu hẳn sự bảo hiểm cho sinh mệnh mình. Tất nhiên, ông cũng như bao người cùng lứa tuổi đều hiểu và vẫn thường xuyên nhắc nhở mình, rằng thì là có ba điều nên quên đi là hận thù, tuổi tác và bệnh tật, nhưng mình thì có thể quên bệnh tật chứ bệnh tật làm sao nó lại có thể quên mình!
Đêm ấy, đang ngủ, bỗng thức giấc vì thấy ngực trái lâm râm đau, ông bèn thực hiện biện pháp xoa bóp dân gian, tức áp chặt bàn tay phải vào chỗ đau, xoay vòng từ trái sang phải rồi xoáy ngược lại, gần chục lần, không thấy đỡ, nghĩ là mình bị cảm, ông liền uống mấy viên paracetamol, rồi xoa dầu khắp người, không ngờ chẳng thấy hiệu nghiệm như mọi khi, trái lại cơn đau càng tăng, đau như có vòng dây thép đánh đai thít chặt vòng ngực, đau như lấy dao róc xương xẻ thịt, đau thoạt đầu ở vùng ngực trái và sau xương ức, rồi lan đến cổ, đến xương hàm dưới, ra sau lưng, ra vai, dọc mặt trong cánh tay trái và làm liệt cánh tay trái. Không chịu thua, ông liền gượng chống tay đứng dậy, xỏ chân vào dép, nghĩ phải dĩ độc trị độc như hồi còn chiến tranh thiếu thuốc men, cắt cơn sốt rét cách nhật bằng cách chạy nhảy cho nóng người, cắn răng đi mấy đường quyền cước, không ngờ lảo đảo rồi ngã bổ chửng dưới đất. Hai cô con gái nghe động, choàng tỉnh, chạy vào vội đỡ cha dậy và gọi điện thoại tới bệnh viện. Lúc ấy là hai giờ sáng. Tính ra từ lúc bắt đẩu đau mới có bốn giờ đồng hồ. May, trực đêm ấy lại là một bác sĩ giỏi và có trách nhiệm cao. Khám lâm sàng xong, ông được đưa ngay vào phòng chụp cắt lớp vi tính.
Máy chụp thật hiện đại. Mọi thao tác diễn ra trong chừng mười phút. Trong đó bao hàm cả việc tiêm một mũi thuốc cản quang ở cổ tay. Kết quả được nhận gồm sáu tấm phim lớn, mỗi phim có hai mươi ảnh cùng một ảnh màu chụp quả tim vô cùng rõ nét và một văn bản, trong đó sau khi miêu tả tỉ mỉ từng chi tiết, có kết luận như sau: Tắc hoàn toàn đoạn II RCA, tuần hoàn bù chủ yếu từ các nhánh bờ thất phải. Hẹp nặng phần cuối đoạn III RCA. Hẹp từ nhẹ đến trung bình ở các vị trí: lỗ vào LAD, LADI, LCXI, II.
Ông bác sĩ giao cho ông văn bản nọ trố mắt nhìn ông. Anh nhìn tôi cái gì thế? Ông gượng đau hỏi. Người thầy thuốc trả lời: “Bác có một trái tim kỳ lạ. Nếu không nói là kiên cường. Vì trong tình trạng con tim như thế này, với người khác thì đột quỵ từ lâu rồi. Nhưng mà thôi, không thể nấn ná được nữa đâu”. Nhập Viện Tim Mạch, được các bác sĩ giảng giải, ông hiểu ra nhiều điều quan trọng về căn bệnh của mình. Rằng, đại thể là để nuôi dưỡng quả tim, cơ thể con người có ba động mạch vành. Thì riêng động mạch vành phải của ông bị tắc hoàn toàn ở đoạn đầu, tiếp đó là một đoạn nham nhở và một đoạn hẹp tám mươi phần trăm. Chưa kể hai động mạch khác cũng bị tổn thương từ nhẹ đến trung bình. Vấn đề bây giờ là phải khai thông đoạn tắc và mở rộng đoạn hẹp! Để làm việc này có thể dùng thuốc. Có thể dùng biện pháp phẫu thuật, tức mổ phanh ngực, rồi lấy một tĩnh mạch bắc cầu từ động mạch chủ bỏ qua đoạn tắc nối tới đoạn phía dưới. Mổ thì an toàn, chi phí không lớn, nhưng đau. Tuy nhiên, từ 1997, ở đây, các bác sĩ đã áp dụng phương pháp can thiệp qua da, nghĩa là dùng dây dẫn đưa vào từ động mạch quay (tay) hay động mạch chủ, luồn tới, gặp chỗ hẹp thì nong, gặp chỗ tắc thì thông, rồi đặt vào đó một cái ống thép không ri, tiếng Anh gọi là Stent, dịch là giá đỡ.
Cởi hết quần áo, phủ trùm lên người là một tấm vải lớn màu xanh ôliu nặng chịch, ông nằm trên một mặt bàn di động, lúc nâng lên cao, khi hạ xuống thấp, lúc chuyển sang phải, khi dịch sang trái, chân tay bị trói chặt. Một phát tiêm thuốc tê vào tay trái. Tiếp đó, nhói giật một cái, một mũi kim to có lẽ bằng mũi kim đan không chừng, đâm vào động mạch quay bên tay phải ông. Từ đó, một sợi dây dẫn mà ông hình dung như sợi phanh xe đạp được tuồn theo mũi kim nọ, theo động mạch tay luồn lên ngực và ông có cảm giác nghe thấy tiếng nó chạy sồn sột dưới làn da tay và da ngực mình. Ông hiểu nôm na rằng đó là sợi giây thép có tác dụng đục thông chỗ tắc, mở rộng chỗ hẹp, rồi sau đó, theo sợi dây, một cái bóng được tuồn vào, áp lực hơi được bơm tương ứng số cân nặng của bệnh nhân, để ép những cặn bã bám trong mạch máu vào thành mạch, rồi cuối cùng là những cái Stent được luồn vào, đặt đúng chỗ đó, có vai trò tương tự một cái cống, để khai thông, cho dòng máu chảy qua.
- Trường hợp bác khó lắm! Chỗ tắc cặn máu đóng lại như đổ bê tông rồi. Máy đã rú báo động mấy lần vì nóng quá 80 độ, đành phải cho nghỉ đã!
Đứng cạnh ông, một bác sĩ mặc áo xanh chống bức xạ nói trong chia sẻ, trìu mến và lo lắng. Ông nằm im. Và chờ. Chờ cái gì? Chờ máy chạy tiếp. Chờ sự may mắn. chờ nỗi rủi ro. Tức là chờ cái chết. Và ông nghĩ: hóa ra cái chết cũng giản dị thế này thôi ư? Nhưng mà chết lúc này thì trớ trêu quá.
Thời khắc trôi đi từng tích tắc trong bộn ngộn lo lắng bồn chồn. Hôm nay là ngày rằm tháng chín. Hai con gái ông trưa nay nhắn cho ông hay là đã thắp hương cầu xin Đức Phật, các thánh thần và linh hồn tổ tiên ông bà cha mẹ, người thân phù hộ cho ông. Nằm trên bàn can thiệp, ở phòng nong tim, trong trạng thái trương căng từ mỗi tế bào và thần kinh bị ức chế cao độ, ông nhắm nghiền mắt. Trời ơi! Còn nhiều nỗi buồn phiền chưa được giải tỏa. Còn nhiều ao ước chưa hoàn thành. Hãy giúp tôi đi, các vị thánh thần!
- Ai là người nhà bệnh nhân Nguyễn Văn Chí? - Lẩn này là tiếng gọi rạn vỡ của người nhân viên y tế. - Thông rồi. May mắn quá. Trường hợp này hiếm có đấy, bác ạ. Bây giờ cho máy nghỉ. Rồi sẽ rút dây, tháo bóng. - Ông nghe thấy tiếng nói một bác sĩ. Băng ca lập tức được đẩn ra. Nhân viên y tế đưa cho cô con gái cả của ông hóa đơn thanh toán số tiền chi phí. Và hỏi: - Tại sao bố em hoạt động từ trước tháng Tám năm 1945 mà không được phong là lão thành cách mạng? Nếu là lão thành cách mạng thì mới được miễn phí. Những 144 triệu cơ đấy! - Cầm hóa đơn mà con gái ông nước mắt chảy ra ướt đầm hai gò má.
Ngực ông như bấy lâu bị hòn đá trăm cân đè nặng nay được nhấc đi. Như bị một sợi dây thép trói nghiến thít chặt đến nghẹt thở nay được cởi tháo. Mỏi nhừ, mỗi đường gân, thớ thịt, khớp xương như giãn ra, rời rã. Cả khuôn ngực ông xôn xang, rộn rực. Có cảm giác, có một dòng suối máu bấy lâu bị tắc nghẽn, giờ ào ào tuôn chảy. Ào ào tuôn chảy râm ran một nguồn suối máu khắp vòm ngực ông! Ông thiếp đi trong mê man dồn dập những cảnh đời quá khứ tầng tầng lớp lớp hiện về.
Cái gì thế này? A! Con trâu mẹ. Con trâu mẹ lông da trắng hồng, bụng căng nở kềnh càng dềnh dệnh hai cái chân sau. Rồi nó khuệnh khoạng xê dịch hai cái chân trước. Hai cái lỗ mũi của nó hở toang hoác mà sao hơi thở của nó chỉ thấy hí hóp như tắc nghẹt. Kìa nó rống, chỉ một tiếng thôi mà nghe cũng thấy cả cơn đau. Nó đau đẻ và cơn đau xuất hiện từ nửa đêm hôm qua, đến sáng nay thì thấy hai mắt nó đỏ ngầu. Còn bây giờ khi ông đi tới, đặt tay lên vỗ nhè nhẹ vào cái khoáy trên trán thì nó bỗng khuỵu chân trước rồi tiếp đó là hai chân sau. Ình một tiếng đất rung nhè nhẹ. Phía bụng bên trái của nó phình lên. Chắc là nó tức bụng, nên nhoáng cái nó lại chống chân đứng dậy. Khổ! Chống chân dậy mà nó có đứng yên được đâu. Chân nó giậm dịch, đầu nó ngúc ngắc. Rớt dãi từ miệng nó nhểu ra ròng ròng. Miệng nó kêu ẹ ẹ. Nó khiến ông nhớ đến cảnh đàn bà đau đẻ. Đó là lần ông đưa bà vợ đến nhà hộ sinh. Ông trông thấy các bà bầu mặc váy trắng, ộ ệ khó nhọc đi đi lại lại hoặc ngồi ôm bụng nhăn nhó. Có bà vịn cọc màn khóc mếu. Có bà khệ nệ như ôm cái bọc lớn trước bụng cứ réo tên ông chồng ra mà nhiếc móc, trách oán. Con trâu mẹ trắng hồng kia khác chăng là một mình chịu đựng, một mình xoay xở, không biết nhờ cậy ai, chẳng biết oán trách ai. Trời ạ! Trâu mẹ chịu đựng cực hình với cơn đau dai dẳng cùng nỗi bồi hồi mong đợi và âu lo đã suốt cả đêm qua rồi. Cho đến lúc này, kìa, đang nằm bỗng nhiên nó chống hai cái cẳng chân sau dậy và há miệng nó oặc lên một tiếng thật dài vừa thê thảm vừa sung sướng, bụng nó thoắt cái đã nhẹ bẫng và tọt ra từ đuôi nó một bọc thịt cùng một tiếng rơi dội lên từ đất nghe êm êm. Điều gì đã xẩy ra mà tràn ngập cảm giác được cởi thoát thế? Đứa hài nhi đã ra khỏi lòng mẹ. Sự sinh nở sao diệu kỳ và vĩ đại thế! Đã biến thành một thực thể hoàn toàn khác rồi, như chính mình được hưởng phép lạ, trâu mẹ trở lại trạng thái khỏe mạnh, nhẹ tênh, quay đầu lại, cúi xuống đón nhận, săn sóc đứa con yêu bằng cái lưỡi đỏ hỏn với những đường liếm láp thần tình và âu yếm. Chao ôi! Lưỡi mẹ chứa chan bao phép màu huyền diệu. Nhận ở đó cả tình mẹ và sự sống mạnh mẽ, ra khỏi cái màng bọc, nghé con chống chân loạng choạng đứng dậy. Đứng dậy rồi lại khuỵu ngã. Năm lần bảy lượt như thế rồi nó mới đứng dậy được và ngay lập tức nó ngỏng lên rúc vú mẹ uống nguồn sữa đầu tiên.
Chà chà, đẹp sao cái cảnh con nghé con lon ton chạy theo mẹ. Giống này là giống trâu gié, không phải giống trâu ngố. Và thấy chưa, sự sống là hình thái biến động không ngưng nghỉ. Vừa thấy nó còn hăm hở tìm vú mẹ, ngoảnh đi ngoảnh lại đã thấy nó sần sật gặm cỏ bên cạnh chân mẹ. Còn bây giờ thì nó đã ra dáng ra dàng là một chú thiếu niên hai tuổi rưỡi rồi. Bà con hãy ngắm nó đi. Ông Chí nói, tay vỗ lưng con nghé. Con này đầu thanh, mặt nhẹ, lưng phẳng như mặt giường, bàn quản nhỏ, chân chụm móng hến, đứng như cắm bốn chân xuống đất, vững hơn đóng cọc, miệng gầu giai nhai hai gánh cỏ, ăn khỏe làm khỏe. Con này mắt ốc nhồi, tai lá mít, đít lồng bàn. Đã thế lông da nhẵn nhụi, khoang khoáy đều hay. Mình trường, tiền thấp hậu cao, miết cầy khỏe phải biết. Tuy nhiên phải dạy nó thì nó mới biết làm.
Người Ba Na đứng trên bờ ruộng nói cười, chỉ trỏ, nhìn ông Chí đặt cái vai gỗ vào cổ con nghé mới lớn. Ra vực được con nghé, dạy được nó cày thật không dễ! Vì cậu chàng đẹp mã vậy mà ương bướng ra trò. Hôm kia dẫn nó đi, cho nó bơi qua con sông. Tới bờ bên này, nó cứ ì ra, ngâm mình ở dưới nước, không chịu lên bờ. Ông Chí gọi, nó phớt lờ, mặc ông vác cày đứng đợi cả buổi. Hôm nay, quát gọi mãi nó mới chịu nghe, nhưng lên tới bờ thì lăn kềnh ra đất ăn vạ. Nịnh nó một thôi một hồi, đến quàng vai cày vào cổ thì nó dựng dậy, dún chân tế thẳng lên quả đồi mọc đầy cây dại.
Bây giờ thì ông Chí đã đóng được vai cày, dòng được dây mũi nó rồi. Dây mũi nó ông cầm bên tay trái. Tay phải ông cầm cày. Tay máy dây. Tay đẩy cày. Bà con trông tôi cày, nghe tôi giảng giải rồi tập làm theo nhé! Tiếng ông Chí vang vổng giữa trời. Có trồng lúa nước mới chắc ăn, mới không phá rừng. Bà con nhớ chưa? Đây nữa! Cày có hai loại khác nhau. Cày 51 khác cày chìa vôi. Cái vai cày buộc hai sợi dây vào rồi mắc lên vai con trâu. Giục con nghé đi thì tay phải cầm cày, tay trái cầm dây. Lưỡi cày chúc với độ nghiêng vừa phải, khoảng hai mươi nhăm độ. Nhưng nhớ là phải điều chỉnh liên tục. Đất cứng thì hất lên, gặp nơi đất mềm thì dúi xuống. Đến bờ thì giật thừng ra hiệu cho con nghé quay đầu lại. Lúc ấy, kéo cày lui lại phía sau, rồi khi con nghé đã quay xong đầu rồi thì lại đặt mũi cày xuống. Nhớ là đường cày mới cách xa cày cũ chừng nửa gang tay. Còn chão nếu để dài quá thì nặng trâu. Óng dài thì trật vai trâu, óng ngắn thì nghẹn cổ trâu. Hồi ở quê tôi đi cày cho địa chủ suốt vụ không đánh trâu một roi, không quát trâu một tiếng. Chỉ nhắc khéo nó bằng thừng, như khiến ngựa bằng cương ấy, bà con à.
Con nghé chuyển chân, đúng là mình trường, cậy sức cậu chàng miết cày băng băng. Ông Chí nhảy từ bên nọ sang bên kia, như con chim sẻ đồng. Nhưng lúc sau đang lựa đường cày, nghe tiếng cánh chim quạt gió, ngẩng lên nhìn đàn sáo cánh đốm trắng từ rừng xà nu bay qua, ông bỗng thấy hẫng một nhịp. Con nghé đã buột vai cày. Cái vai quan trọng lắm đấy. Phải buộc lại đi! Cạnh ông, một người đàn ông đang đẩy cày làm mẫu theo ông bỗng kêu: “Đồng chí bộ đội Chí ơi! Sao tôi bảo mãi con trâu quay mà nó không quay”. Ông Chí chạy lại. “Để tôi dắt mũi nó xem sao nào. Bướng hả? À, không phải! Con này mới ở miền xuôi lên. Nó chỉ nghe tiếng Kinh, chưa biết tiếng Ba Na như tôi. Để tôi dậy lại nó nhé. Đây! Muốn nó quay bên trái, nói: Dí. Bảo nó quay bên phải, nói: Thá. Nào, làm thử đi. Mạnh dạn lên!”. Ôi Tây Nguyên đất đỏ dòng dòng mênh mang, mặt trời lên xuống chạm đất chân trời, nắng mưa hòa quyện, cây cỏ tốt tươi như chính lệnh. Tây Nguyên, ở nơi này người chiến binh là ông đang được thỏa sức dọc ngang, bận rộn và say mê ngày đêm với chiến công, với đủ loại công việc, nào dạy dân cày trâu, làm ruộng nước khai hoang, nào đào mương dẫn nước làm thủy lợi...
- Bác Chí! Bác nói mê gì mà lảm nhảm thế?
Ông Chí mở mắt. Người bác sĩ mặc áo xanh cúi xuống.
- Tôi nói mê à?
- Có lúc bác còn khóc. Bác kêu: Tôi bị oan đau quá!
- Thật à? Sao lại thế nhỉ?
Ông Chí nhổm dạy, đưa tay chùi gò má nháng ánh nước. Cả đời ông có lúc nào ông khóc đâu. Ngoại trừ lần vợ ông mất. Cách đây mươi năm, để lại cho ông hai đứa con gái. Nga lúc đó mười hai tuổi, còn Mai mới lên bảy.
III
Cám ơn bệnh tật. Ấm thêm nhân tình. Người hàng xóm đến thăm ông Chí đầu tiên sau khi ông ở bệnh viện về là cô giáo Loan. Người phụ nữ tuổi ngót năm mươi có khuôn mặt tròn trịa, mái tóc đen nhánh rẽ ngôi giữa còn trẻ hơn tuổi, đoan trang một vẻ đẹp cổ điển. Cô có cặp mắt phượng và làn môi đỏ. Với cái khăn voan màu hồng quấn hờ nơi cổ và những búp tóc to uốn điện, trông cô thật duyên dáng và trẻ trung. Nhìn cô, có lần ông Chí nghĩ: Nếu thêm cái khăn vành vàng vương giả trên đầu thì cam đoan, cô sẽ là một mệnh phụ phu nhân hoặc một phụ nữ khuê các xuất thân nơi quyền quý.
Vừa thấy cô đánh tiếng ở ngoài cửa, ông Chí đang nằm trên chiếc giường cá nhân kê áp bức vách dán la kiệt những thư khen, bằng chứng nhận của các cấp các ngành, liền nhổm dậy, xỏ vội chân vào đôi dép tông, lệt xệt chạy ra.
- Kìa bác Chí! Còn đang yếu, bác đi bít tất chân vào!
Nga từ trong buồng chạy ra đon đả, con chào cô ạ, rồi bưng bộ ấm chén đi vào bếp. Cô giáo Loan đặt cái túi xách tay và bọc cam sành lên cái đôn sứ. Ông Chí luýnh quýnh sờ soạng tìm đôi bít tất, rồi co đôi chân gầy lên giường.
- Bác đưa đôi tất cho em nào. Kiểu này là chưa bao giờ xỏ chân vào bít tất chắc?
Nga quay lại:
- Cô nói đúng đấy ạ. Bố cháu có mấy khi chịu đi giầy. Áo len áo dạ cháu mua cho cũng chẳng mấy khi chịu mặc. Lúc nào cũng chỉ cái áo bông, bên trong là cái trấn thủ thôi ạ.
- Con gái lại nói xấu bố rồi!
Ông Chí cười. Cô giáo Loan cầm đôi tất. Rất khéo, những ngón tay nho nhỏ trắng muốt thoáng cái đã lộn ngược được lòng đôi bít tất ra, để cổ chúng nổi một vòng tròn xoe.
- Đây, bác xỏ vào đây, rồi kéo ngược lên, như vậy gót chân mới vào sát gót bít tất được.
- Cô khéo quá! Con phải bắt chước cô mới được!
Nga nói. Ông Chí làm theo. Quả nhiên, đôi tất lồng vào chân khít rịt. Gót lọt đúng chỗ của gót. Mu chân vào đúng chỗ của mu tất. Chuyện nho nhỏ mà cảm động. Cũng như sau đó, khi ông xỏ chân vào đôi giày da không có đót, liền đưa ngón tay thay thế, thì cô liền giật tay ông ra. Bảo ông rút chân ra, cô lấy từ trong túi ra một chiếc khăn tay, gấp nhỏ lại, lót vào gót giày rồi bảo ông xỏ chân vào. Đơn giản vậy mà thần tình. Vì cái khăn tay gấp đã thay chiếc đót, khi rút nó lên, tự khắc gót chân ông đã lọt hẳn vào trong lòng giày.
- Nghe giọng bác nói em thấy là mười phần đã được bảy tám rồi đấy.
- Tôi từ nhỏ đến lớn chưa bao giờ phải đi nằm viện. Trời cho tôi cái thân thể mình đồng da sắt. Còn ông bác sĩ ở Viện Tim mạch thì bảo tôi có quả tim kiên cường kỳ lạ.
- Trời cho bác cả cái giọng rất ấm rất vang nữa.
- Bố em hát được đấy, cô ạ.
Nga đặt bộ chén mới pha trà, chen vào. Ông Chí cười nhìn cô con gái cả - Bây giờ mới thấy con gái khen bố một câu đấy. Rồi quay sang cô giáo:
- Không hiểu sao đến vùng đồng bào nào tôi học tiếng cũng nhanh lắm. Đấy, tiếng Mông tôi học chỉ có ba tháng là nói được chuyện với bà con, không cần phiên dịch.
- Bố cháu còn nói được chuyện tâm tình với các cô gái Mông cơ, cô ạ.
- Con gái khen hay chê bố đấy. Còn tiếng Ba Na đến nay tôi còn nhớ. Tôi thử nói cô nghe nhé. Thê này: Rắc là được, là tốt. Mao mao là có. Bô mao là không. Sang là nhà. Đắc là nước. Mí là mẹ. A ma là bố. Nào hiu là chơi. Nằm cô pai là uống rượu. Họa sài là ăn cơm. Băng bu i là ăn cháo. A mai là cô em. Xiam xà nắc là đẹp lắm. Giắc xà ưn là tốt lắm.
Nhìn cô giáo trìu mến, ông tiếp:
- Còn bây giờ tôi nói cả câu cô nghe nhé/ Ơh mờ nui luôn sang nao ê lananây mao prăng tụ tưn mớ? Nghĩa là: Người làng à, đi đường này có Tây không? Tủa coi ư ự ư: Không có. Căn ê pa ten: Tôi đói bụng. Ơpray căn bay: Cho tôi ăn với. Pray can năme: Cho tôi uống nước. Căn ca kudi dăng: Tôi xin chào tất cả. Di dăng mau prăng mớ: Tất cả có khỏe không? Hoa êcom sai bô mào dam: Ăn cơm không có canh. Đi mờ tăm bôman mơmê: Đi ngủ không có con gái. Ô, tôi còn một câu nói nữa hay lắm. Cơ mà...
- Cơ mà sao?
- Tôi sẽ nói cho cô Loan nghe. Nhưng mà chưa phải lúc này.
- Tại sao lại thế?
- Bí mật mà. Cho tôi khất nợ nhé, cô giáo!
Cô giáo Loan cười lặng lẽ, đưa tay tẽ mấy sợi tóc giữa đường ngôi rẽ, ngước nhìn lên cao, cặp mắt phượng thoáng một ánh xanh mơ màng. Và ông Chí thoáng một ngây đờ. Lần đầu tiên ông thấy cô gần gụi như thế và cũng lần đầu tiên ông nhận ra mắt cô anh ánh sắc xanh của khoảng trời mùa thu.
- Bây giờ với bác trước mắt là cần nhanh chóng trở lại đời sống thường ngày, bác Chí ạ.
Cô Loan nói. Ông Chí gật đầu:
- Bác sĩ cũng dặn tôi thế. Từ nay tôi phải kiêng ăn lục phủ ngũ tạng động vật, hạn chế lòng đỏ trứng, thịt, nhất là thịt mỡ. Rượu, thuốc lào thuốc lá may tôi đã bỏ được mươi năm nay rồi. Và mỗi ngày đi bộ từ ba mươi phút đến một giờ.
- Thế thì bác nên tham gia Câu lạc bộ sức khỏe ngoài trời với bọn em đi! Với lại đây, em tặng bác cuốn sách có mấy vở bi kịch của nhà viết kịch vĩ đại nước Anh Shakespeare để bác đọc cho đỡ buồn. Cũng là cách tập luyện hoạt động của trí não. Em quen một ông bạn, cũng bị bệnh như bác. Mỗi ngày ngoài việc ông tập vẩy tay theo bài Dịch cân kinh, ông lại làm một bài thơ cốt là để rèn tập trí óc.
Nga đặt chiếc ấm đang rót thêm trà vào chén cô giáo, hai con mắt đen láy sáng trưng, như vồ lấy cuốn sách cô giáo vừa rút từ trong túi xách tay ra, đặt xuống cạnh bàn:
- Thích quá! Khi nào bố cháu đọc xong cháu phải tranh thủ đọc ngay mới được. Cô ơi, may cho cháu quá, chúng cháu vừa học xong tác phẩm Đôn Kihôtê, Nhà quý tộc tài ba xứ Mantra của Cervantes, giờ sắp học đến Shakespeare rồi. Còn về hoạt động của Câu lạc bộ sức khỏe ngoài trời của phường thì cô hướng dẫn bố cháu với nhé. Bố cháu lúc nào cũng nghiên với cứu, rồi đi! Đi cả đời rồi chưa chán! Bố cháu chẳng biết thể thao thể dục, bóng đá, cầu lông, bóng bàn gì đâu. Đấy, cùng tuổi mà bố cháu có được như bác Khái lão thành bí thư chi bộ, ngày nào cũng đi bộ dưỡng sinh với con chó Tép, rồi chơi cẩu lông rất thành thạo đâu. Trông bác ấy mặc áo phông trắng, mặc quần soóc, đi giày adidas, trẻ như thanh niên ấy, cô nhỉ.
Thiêng quá, vừa nhắc đến tên đã thấy ông Khái ló mặt vào, tay xách một cân đường và một hộp sữa Ông Thọ. Thoáng nhìn thấy cô giáo Loan, cùng bọc cam, cuốn sách làm quà, gương mặt lưỡi cày của ông liền sa sầm nặng trịch. Hất chiếc lưỡi trai mũ lên, ông nhìn ông Chí hất hàm rất trịch thượng:
- Thế nào, đã bình phục chưa? Trông già xọp hẳn đi đấy. Tôi thay mặt chi ủy đến thăm đồng chí. Nhân tiện nhắc đồng chí. Vừa rồi là lần thứ hai đồng chí vắng mặt cuộc họp chi bộ thường kỳ; đó là khuyết điểm lớn đấy. Đồng ý là đồng chí có nhờ cháu Nga báo cáo. Nhưng đi đâu thì cũng phải nhớ ngày đảng nhật mà về họp chứ. Tôi báo trước để đồng chí liệu, không lúc bị xử lí lại kêu là không nhắc nhở, giáo dục.
III
Không quá rộng để gây một cảm giác choáng ngợp. Cũng không quá chật hẹp khiến ta khó chịu như đang gặp cảnh ao tù. Vừa đủ tầm nhìn, con hồ trong vắt, những khi lặng gió, láng như tấm gương soi. Ở trung tâm một thành phố lớn mà có được một con hồ như thế này thì thật là tặng phẩm trời cho. Con hồ tạo ra bầu không khí mát lành, kể cả những ngày hè nóng nôi. Quanh hồ, những hoa viên nho nhỏ nối với nhau bằng các lối đi lát bê tông, có bóng liễu rủ và những cây mỡ, cây phượng đang còn non tơ, in bóng xuống mặt hồ, cho ta cái cảm giác về một ảo ảnh tươi đẹp nơi dương thế!
Buổi sáng cuối thu bên hồ là một hoạt cảnh vừa tấp nập vừa êm đềm. Tấp nập vì ở một góc hồ nọ là nơi các chị các bà phụ nữ áo lụa trắng như bầy thiên nga đang uyển chuyển trong các động tác tay chân khi đưa ra, khi thu vào chờn vờn như thực như hư của bài tập Thái cực quyển. Còn êm đềm là ngọn gió thu thổi vi vút, tương hợp với tâm cảm con người một sớm mai trở dậy, tâm hồn đang ở trong trạng thái thật thanh thản, thư nhàn. Sáng mát trong như sáng năm xưa/ Gió thổi mùa thu hương cốm mới.
Hiển nhiên là lúc này, ông Khái cùng con chó nòi Tây Ban Nha như mọi sáng đẹp trời đang rong ruổi trên con đường lát bê tông chạy vòng quanh con hồ. Nói rong ruổi là vì cả con chó và ông Khái cùng một tâm trạng hí hởn và tất tưởi lúc nào cũng ở trong trạng thái rảo bước. Tất nhiên, yêu cầu của bài tập đi bộ dưỡng sinh là không thể nhẩn nha! Mà là rảo bước! Ba mươi bước một phút và nhất là thả lỏng các khớp xương cùng là cơ bắp người, trong khi thở ra thì lưỡi để lên chân răng trên, và khi hít vào thì ngược lại, để mạch nhâm nối với mạch đốc, theo đúng lời bác sĩ dặn. Rảo bước trong một cung đường chung với ông có cả trăm người, trẻ có, già có, nam có, nữ có, khỏe mạnh có, ốm yếu có. Có các chị mập quá, họ phải đi theo kiểu vung tay vung chân văng mình cho tiêu hao bớt năng lượng tích tụ. Có tốp trai trẻ lấy sự chạy để phô diễn sức mạnh và thỏa chí vật trâu. Nhưng cũng có các cụ già chống gậy lò dò từng bước. Có đôi bạn già dắt tay nhau như trẻ nhỏ dung dăng dung dẻ, vừa đi vừa thủ thỉ chuyện trò. Cảm động hơn có cặp nam nữ, chồng liệt nửa người bên phải, một tay quàng vai vợ, một tay vung vẩy, tập tễnh từng bước chân ngỏng ngảnh trong tiếng khích lệ của người vợ. Trong vòng tròn chuyển động vĩnh cửu như đèn kéo quân ấy, ông Khái có bộ mặt thật tự đắc.
Thường khi, sau tám vòng đi bộ, ông Khái cùng con Tép sẽ trở lại cái vuông sân lát xi măng cạnh cái bồn hoa tròn lớn nhất của khu công viên bên này hồ. Nơi đây là bãi tập Thái cực quyền của hơn hai chục các cô các chị trong Câu lạc bộ sức khỏe ngoài trời, một phân nhánh dưới sự chỉ đạo của ông bí thư, con người sốt sắng với công việc chung. Sau gần một giờ đổng hồ đi bộ, con Tép lúc đó sẽ được tháo xích, đi vệ sinh ở khu trồng bạch đàn và vui chơi đùa giỡn với đám chó trong khu tập thể sáng sáng theo chủ ra đây chơi nhởn, lúc này ở đây có đủ các loài: to lớn cao kều oai dũng là béc giê Đức, nhỏ con dáng hươu nai nhanh nhẹn thì là phốc Australia. Còn chủ nhân của nó, ông Khái, lão thành cách mạng trong bộ quần soóc áo phông trắng bong, viền đường chỉ xanh đỏ, nhãn hiệu Pháp, giầy adidas, như một trang công tử, sau lưng đeo cái bao da đựng chiếc vợt cầu lông, thong thả vẫy tay theo bài Dịch cân kinh, gốc gác từ xứ Tây Tạng huyền bí truyền sang.
Ông Khái được tiếng là người công dân, người đảng viên mẫu mực về mọi phương diện, kể cả lĩnh vực rèn luyện sức khỏe. Nếu ông Chí sinh ra trên đất Phù Lưu thừa hưởng khí tượng dòng dõi tổ tiên vốn dân can trường quả cảm ngỗ ngược nổi tiếng thì ông Khái cũng chẳng kém. Quê ông là miền trung gió Lào cát trắng, nơi cư ngụ của đám dân lưu đày biệt xứ của các triều phong kiến Đàng ngoài, nhưng cũng là nơi phát tích của các phong trào yêu nước cách mạng, tính từ đầu thế kỷ trước. Khí khái, trung trực, được công luận khen là đạo mạo, sống có nguyên tắc. Nhưng nếu nói nhỏ với nhau thì những người thóc mách sẵn sàng bảo ông là kẻ khôn ngoan, tùy cơ thủ lợi và khi cần thì tàn bạo bất chấp. Tuổi bằng ông Chí. Thấp bé hơn ông Chí gần chục phân. Nhưng cũng như ông Chí và nhiều ông già khác ở độ tuổi này, ông Khái không hề thua kém ai về lòng ham muốn, thậm chí còn mạnh mẽ bạo liệt hơn trong quan hệ với đàn bà. Bề ngoài thì ông rất đàng hoàng m?