- 5 - Người khổ nhất trần gian
Nội bay đi Pr. rồi. Anh được cử giữ chức vị tương tự như là tùy viên, tham tán gì đó trong một phái bộ của nước ta ở châu Âu. Chức vụ, như có người nói, ra nước ngoài, chưa là vấn để gì. Vào lúc nước nhà đang gặp hồi khó khăn, đồng lương tằn tiện chưa đủ sống, mà được ra nước ngoài công tác, thì dẫu có là nhân viên quèn, cũng vẫn cứ là có thu nhập cao hơn, có mức sống cao gấp bội anh ở nhà đi. Mà nhân viên quèn ít bị ràng buộc buôn bán thủ lợi có khi còn thuận tiện hơn, chưa biết chừng!
Ấy là Lân nghe vợ mình nói vậy. Chứ Lân đã có bao giờ được ra khỏi lũy tre xanh làng nước mình mà biết. Lần chỉ suy toán trên phương diện lý thuyết thôi. Về phương diện lý thuyết thì rõ ràng là: Người Việt ở nước ngoài giống như thửa ruộng ngửa mặt hưởng hạt mưa trời, nghĩa là chẳng mất công sức gì như chính dân nước sở tại, mà lại được hưởng trọn những thành quả của nền kinh tế, khoa học, kỹ thuật tiên tiến của nước đó, vậy nên có mức sống cao và giàu có là lẽ dĩ nhiên. Khối anh nghèo rớt mồng tơi ra nước ngoài mới chỉ vài năm, về đã lên ngôi triệu phú, tỉ phú, vênh vang cái mặt, động nói là bỉ bai cái nghèo khó, ngu dốt của dân nước mình đó thôi. Thoắt cái đổi đời như vậy nên nói có chuyện tranh giành nhau để xuất ngoại, chứ đi để chuốc lấy cái nghèo cái khổ thì có khi phải tổ chức bổ đầu, cắt phiên!
Lân, bạn hàng xóm của Nội, cách sống, cách nghĩ hơi hàn lâm, kinh viện, lại đã vào tuổi năm mươi tri thiên mệnh, hiểu rằng mỗi người có số phận riêng, nên thoát được thói mê chấp suy tị, chỉ thấy hẫng buồn khi biết thế là mình sắp thiếu mất ông bạn tốt bụng kề cận rồi.
- Số trời cho tôi được ở cạnh ông, âu cũng là một sự bù đắp cho tôi, ông Nội ạ.
Lân thường nói vậy. Nói thật lòng đấy. Vì với một ông giáo tỉnh lẻ, kiêm một nhà văn nghiệp dư cấp phường cả đời chưa hề biết đến mây trời xứ sở người, thì Nội là một bách khoa toàn thư, là cả hoàn vũ mênh mông; ở gần Nội, Lân có thể học hỏi, bổ túc thêm bao điều mới lạ, bao điều bổ ích. Là con người sách vở và duy cảm, Lân không biết dối trá, quý Nội ở điểm đó, cũng là thành thật.
Thành ra, chiều ấy thình lình ghé cửa sổ nghe Nội báo tin: ba ngày nữa mình bay đi Pr. Và từ đó đến mai là ngày xa biệt nhau rồi mà Lân vẫn chưa tìm được một kẽ hở thời gian nào để sang trò chuyện với Nội, thực tình Lân rất áy náy. Suốt từ tinh mơ cho tới nửa đêm, ngày nào cũng như ngày nào, Nội tối mặt đón khách vào, tiễn khách ra. Nhác thấy bóng Lân là lập tức nhún vai, ngả hai cánh tay, tỏ ý phân trần, mong thông cảm.
Rảnh rỗi đôi chút là vợ Nội. Ba mươi hai tuổi, chị trẻ hơn chồng gần hai chục tuổi. Người phụ nữ này là cái bóng mờ nhạt cạnh chồng. Nhan sắc trung bình, chị đoan trang, hiền lành như nghề giáo dạy cấp tiểu học của chị.
- Khổ thân nhà em quá! Chị sang nhà vợ chồng Lân, than thở - Rặt các ông ở ngành ngoại giao mà vô ý vô tứ quá. Có hôm, đang dở bữa cơm, cũng phải để đấy để tiếp khách. Nửa đêm cũng gọi cửa. Hết đổi tiền lại gửi tiền, gửi hàng, mách mối, đặt quan hệ, nhờ vả. Tiêu chuẩn hành lý, tiền ngoại được mang đi là bao nhiêu, họ biết thừa cả rồi, vậy mà cứ ép. Ép rồi hứa hẹn, rồi dỗ dành. Nhà em thì thiết gì bổng lộc hả, anh chị? Thật cực chẳng đã mà phải đi thôi! Có ai hiểu điểu đó cho mình?
Không hề hay biết rằng nghe mấy lời trần tình cuối cùng của mình, vợ Lân nhếch mép quay đi ra ý giễu cợt, vợ Nội lấy khăn tay chấm đuôi mắt, rồi sụt sịt, tiếp:
- Đấy, năm giờ sáng mai đã phải ra sân bay rồi, vợ chổng con cái đã dặn dò nhau được gì đâu, mà bây giờ lại sấp ngửa lên chào ông già. Khổ, không khéo sáng tới nơi là ốm lăn ra cho mà xem. Nhà em sức vóc nào có ra gì, cấp cứu như cơm bữa, bệnh tật đầy người, anh chị còn lạ!
Vợ chổng Lân từ lâu đã hiểu từ ông già vợ Nội dùng là để chỉ người thủ trưởng của Nội, một cán bộ cao cấp của Nhà nước. Một ông già bẩy mươi, nhưng sức lực còn cương cường. Một người Nội hết sức kính mộ, thậm chí tôn thờ và gắn bó như cha con, hơn cả ruột thịt.
Nghe vợ Nội thổ lộ, Lân thở dài, buồn nao lòng. Nào ai hay sự tình của kẻ trong cuộc? Chồng đi công tác nước ngoài, nghĩ rằng đó là cơ hội đổi đời phải mừng húm, chứ đầu lại xót xa, ai oán thế!
Khi dọn đến căn buồng 202 ở tầng 2 ngôi nhà B12 ở khu tập thể T.C, thấy mình có người hàng xóm là Nội, Lân thật sự mừng lắm. Tiếp xúc vài lần, anh nhận ra ngay Nội là người có hiểu biết, đôn hậu và rất khiêm nhường.
Hai người cùng sinh năm Bính Tý, nhưng số phận thì hoàn toàn trái ngược nhau. Ngoài năm mươi, kẻ thì gần như cả đời chỉ ru rú ở một xó trường trong một tỉnh lỵ hẻo lánh; phía Nam, chân chưa đặt tới thành phố Vinh, còn phía Bắc, chưa hề được biết thế nào là cái bãi biển Trà Cổ đẹp nhất đất nước. Một thì đã từng xẻ ngang xẻ dọc bầu trời, châu lục nào cũng đã đặt chân tới, còn các nước văn minh tiêu biểu như Nga, Anh, Pháp, Mỹ, Nhật hoặc các con rồng chầu Á thì qua lại như đi chợ, thuộc vanh vách tên từng đường phố ở các thành phố lớn. Một thì có lúc đã phải bán cả những cuốn sách quý đi để lấy tiền đong gạo, có thời cả tuần chỉ ăn bí đỏ và lá dâm bụt, chậm lương đứt bữa là chuyện bình thường. Một thì đã sống thừa mứa chứa chan giữa bao la của ngon vật lạ, giờ dửng dưng hoàn toàn với cao lương mỹ vị, nghĩ đến tiệc tùng, chiêu đãi là phát chán nên phải tìm cách thoái thác.
Nội có thể nói cả giờ cho Lân nghe về bảo tàng Hermitage, tả lại cái rét của mùa đông Nga tài tình đến mức Lân cảm nhận được cả chiều sâu xúc cảm cái giá lạnh chết người trong truyện ngắn Chiếc áo choàng nổi tiếng của văn hào Gôgôn. Nội kể về các cửa hàng bán sôn ở Pari, vẻ đẹp tráng lệ hai bờ sông Sen, lễ tiết huy hoàng độc đáo của những hội hè Môngôlia, kiểu ăn Triều Tiên, tháp truyền hình Tôkyô, phong cảnh và kiến trúc đặc sắc cùng quy mô vĩ đại của những Thiên An Môn, Cố cung, Di Hòa viên. Nội nói về bát mì Tứ Xuyên đại bố cay xé lưỡi say sưa khiến Lân mê mẩn, tắc lưỡi thèm muốn chẳng kém khi chỉ cho Lân xem cả bộ bốn mươi hai cuốn Toàn tập Quỳnh Dao bằng tiếng Tàu, mà Nội có, nhưng một chữ bẻ đôi cũng không hay. Nội làm Lân kinh ngạc về sự giàu có của Hoa Kỳ, miền California tràn ngập nắng vàng và khung cảnh khoáng đạt của những trang trại miền Texas. Nhờ Nội, Lân hiểu biết thêm bao điều thú vị về tập quán trong đời sống, lễ nghi và ứng xử của xứ người. Lăm vông diễn ra lúc đèn tắt, nhưng mà anh động chạm sàm sỡ vào cơ thể cô gái là ăn tát ngay. Còn ở Mỹ, vợ không đồng ý làm tình, chồng cứ cưỡng ép, vợ có thể gọi điện thoại số 911 để cảnh sát tới điều anh chồng đi liền. Và ở xứ kia, nếu anh là thượng khách, anh có thể được hưởng ân huệ là tắm chung bồn với lệnh ái của ngài nguyên thủ quốc gia.
- Ông cứ ra sân bay quốc tế, bước lên một chiếc máy bay của Pháp, của Nga là ông ngửi thấy mùi vị lạ rồi. Sang trọng, quý phái, thanh khiết vô cùng! Bọn tôi gọi gọn nó là mùi Tây. Cái gì ở họ cũng khác ta. Trong ôtô, trong buồng ngủ, trong toa lét cũng vậy. Có điều là cái gì cũng đắt, nếu theo cách tính của ta. Ví dụ, một đêm ngủ ở khách sạn năm sao của họ xoàng ra cũng là hai trăm đô.
- Tức là...
Vợ Lân lập bập. Vợ Nội nhanh nhảu, vẻ thành thạo:
- Giá một đô là mười nghìn tiền ta, thì tức là hai triệu đồng.
- Úi giời! Bằng móc ruột! Ngủ gì thì cũng vật mình hai ba cái rồi thiếp đi như chết, biết gì nữa mà những bạc triệu. Bằng tiền cả cái tivi, bằng tiền lương cả năm của tôi!
Nội cười hiền hậu, độ lượng:
- Tất nhiên buồng ngủ của họ còn nhiều tiện nghi thú vị khác. Ví dụ, tivi của họ bắt được tất cả các đài trên thế giới: VOA, BBC, NHK, tách cái là có liền. Nhưng thú thật, mình quen rồi mà cũng thấy xót ruột. Đấy, vừa rồi sang Nhật họ mời mình, một bữa ăn Triều Tiên, một trăm năm mươi đô.
Vợ Lân giẫy nẩy:
- Ăn thế thì sạt nghiệp. Mà cũng là thịt, là cá, là thích khẩu chứ gì! Thật không đâu ăn vừa ngon vừa rẻ như ở nước mình.
- Rẻ hay đắt, chị Lân ạ, phải so với đồng lương, thu nhập ở nước sở tại ấy. Đây này, em tính...
Cắt ngang lời giải thích ra điều hiểu biết của vợ mình, Nội nhỏ nhẻ:
- Nói chung có một nhận xét thế này. Ở những nước nông nghiệp lạc hậu, sức mua kém, thu nhập kém, giá cả thường rẻ. Tất nhiên nó còn vấn đề chất lượng. Ví dụ, vừa rồi qua Đan Mạch. Ở sân bay, ông già khát nước, tôi đi mua kem. Một que kem các bạn có biết bao nhiêu không? Năm đô la. Đắt, nhưng ngon, bổ, vô trùng tuyệt đối, nghĩa là cũng xứng đồng tiền bát gạo!
Nội nhỏ nhẹ, mạch lạc. Bao giờ cũng thế. Không bao giờ to tiếng bẳn gắt! Lúc nào cũng điềm đạm, ôn hòa. Tính nết ấy thật nhất quán với vóc dáng, diện mạo, ngoại hình - một ngoại hình trông đã thấy sự an nhàn, thong thả. Người hơi đẫy, nhưng không chảy xệ, hơi thấp, nhưng dáng đi vẫn nhanh nhẹn, thông thoáng. Mặt hơi tròn, má đầy phúng phính, nhưng môi đỏ và mắt sáng rờ rỡ, khiến khuôn mặt vãn nhẹ nhõm, tươi vui, phúc hậu, nghiêm cẩn mà vẫn chan hòa. Dáng vẻ sang trọng nhưng không quan dạng, xa cách cũng còn vì nết ăn ở với hàng xóm thật tận tình, chu đáo. Ai nhờ vả gì cũng hết lòng giúp đỡ. Từ việc gửi hộ một lá thư ra nước ngoài đến việc giúp đỡ để xin việc làm. Đi công tác xa về, dẫu là trong nước, cũng có quà; trẻ em thì mấy cái kẹo, người lớn thì hộp dao cạo, cái cặp sách, chiếc cà vạt. Riêng với Lân, Nội hay tặng bút, với lời chúc thân tình: Để nhà văn viết những tác phẩm tiếng vang vượt biên giới, làm vẻ vang cho dân tộc!
Giữa đám người bình dân hàng ngày còn phải sấp mặt xuống lo cho đủ ba bữa ăn thì cái cuộc sống quá ư sung túc của Nội thật là một tòa lâu đài chỉ có trong mơ. Với những kẻ đầu óc bị quan bế do chưa hề thấy được cái gì ngoài quê hương bản quán mình, thì cuộc đời bay nhảy đây đó của Nội là cái ước ao sở cầu vạn kiếp của họ.
Nội cảm nhận được sự cách bức ấy, nên trong đối xử chu đáo với mọi người, ngầm ẩn cả vẻ ý tứ, cẩn trọng. Rất ít khi anh lộ ý khoe khoang. Ăn mặc, tiêu pha, trang bị nội thất trong nhà, hơn người là cái chắc, nhưng luôn luôn được kiềm thúc đến tối đa, để chỉ mình hơn người chút ít, để khỏi mang tiếng là thực hành khổ nhục kế, cũng để người đời khỏi tủi phận và phát sinh lòng ghen ghét!
Nhưng, làm sao người ta lại có thể vô tư khi mình thì quá khổ mà người khác lại cứ nhơn nhơn sung sướng được! Vợ Lân là như thế. Từ hôm được tin Nội được cử sang Pr. công tác một nhiệm kỳ những năm năm, mặt y cứ lầm lầm và hễ có dịp là y xổ ra, toàn những tức tối, đố kỵ âm ỉ sẵn ở trong lòng.
- Khôn ngoan thế! Đánh rắm xịt, sắp đi mới cho hàng xóm biết! Sợ người ta tranh mất phần, hả? Hay là sợ người ta tố cáo? Mà sao ăn mòn cả bát đĩa thiên hạ còn chưa biết chán nhỉ? Hóa ra lòng dạ anh quái nào cũng là cái vại thủng. Mấy cũng chẳng vừa. Thôi, phen này thì quá lên tiên. Của cải ăn mãn đời, sang đời con đời cháu cũng không hết! Hóa ra nước chảy chỗ trũng thật, số gì mà đỏ như vang thế không biết!
Vợ Lân đay đả liên tục hàng thôi hàng hồi. Chỉ một mình y nói. Một mình y nói, nhưng lúc ấy phải có mặt Lân. Lân mà bịt tai giả điếc thì y nói càng hăng. Lân là chất xúc tác của y. Sự có mặt của Lân như trêu ngươi y. Y phải nói. Nói tới lúc Lân phải đồng tình với y thì thôi. Mà cũng chưa chắc đã thôi.
Nhưng, làm sao Lân lại có thể đồng tình với thói ghen tị, tính hẹp hòi, sự thiển cận của vợ mình được? Nhìn nhận cái gì cũng phải có tầm khái quát, tổng quan và bao dung rộng lượng. Mà chắc gì kẻ mà ta tưởng là đang sung sướng lại sung sướng thật? Chắc gì mình ăn chưa đủ no, mặc chưa đủ ấm, lại là khổ sở thật? Nội sang Pr. là phải. Giá có cho mình đi mình củng chịu. Tiếng tăm không biết. Hiểu biết cũng không. Việc đại sự đâu có thể chăng chớ. Ấy thế, khổ quá dễ trở nên dị mọ, bất công đấy!
Tuy vậy, Lân vừa mới chỉ định mở miệng giãi bày mấy ý tưởng đó thì vợ anh đã xìa môi xì một hơi dài:
- Thế mà cũng đòi biết! Không biết thì dựa cột mà nghe nhớ!
Lân chạm tự ái, đỏ rửng mặt:
- Thì cô cũng chỉ là anh nghe hơi nồi chõ, suy đoán lung tung. Cô biết gì hơn tôi nào? Nào, nói đi! Vì sao ông ấy được cử đi công tác ở nước ngoài lần này nào?
- Tôi đố ông đấy!
- Thì vợ anh ấy chẳng đã nói là cực chẳng đã là gì! Vợ chồng họ có thiết gì đâu. Chẳng qua trên cho ông ấy đi để kết hợp chữa bệnh. Ông ấy bị suy tim, béo thế là béo nước, béo bệnh. Nằm trong nhà mà không mở cửa sổ là không thở được. Có hôm nằm trong màn cũng còn thiếu không khí để thở kia. Vợ ông ấy nói hôm rồi đấy. Mà mình cũng chứng kiến gần đây ông ấy đi bệnh viện liên tục đấy thôi.
Vợ Lân nhếch môi, mắt kéo một vệt sắc lẻm:
- Tim với chả phổi! Nói trẻ con nó cũng không nghe được. Ông không suy tim, nhưng ông thấp khớp, chân ông sưng đầu gối ông voi, đi không nổi. Vai ông đau, giơ tay viết bảng không xong. Sao người ta không cho ông đi để kết hợp?
Lân cười gằn:
- Cô này nói lạ. Đấy có phải việc của mình đâu. Nhưng thôi được rồi. Vậy, vì lý do gì mà ông ấy được đi cô cứ nói đi!
Vợ Lân nghiến răng ken két, mắt long sòng sọc:
- Vì lý do gì à? Vì kiếp trước, ông bà cha mẹ ông ấy ăn ở phúc đức. Vì bây giờ ông bà ấy ngày rằm mồng một chăm chỉ dâng hương đền chùa, gầy trồng quả phúc cho con cháu và cho mình. Thế nào, ông nghe đã tỉnh ra chưa? Vì gì nữa? Thật chỉ muốn đốp ngay vào cái mặt con mẹ hoẹt, đạo đức giả. Cực chẳng đã, khổ thân anh ấy. Ông có biết khổ nghĩa là thế nào không? Nghĩa là từ tháng sau, bà ấy cứ ngồi không mà hưởng mỗi tháng một trăm đô. Một trăm đô là một triệu. Một triệu là thế nào ông có biết không? Là gấp năm lần lương của ông giáo khổ kiêm văn sĩ quèn của ông. Đó là chưa kể khoản lương sướng, thu nhập thêm của ông ấy ở bên kia!
Dừng lại, thở hồng hộc, mắt đỏ dọc, cứ như bấy lâu chịu oan ức, giờ mới được tỏ bày, vợ Lân tiếp, giọng càng gay gắt: - Thế nào, ông đã nghe thủng chưa? Vì gì nữa? Vì ông ấy cúc cung tận tụy với ông già nên được ông già ban tài phát lộc cho. Còn ông? Cả đời ông có chịu bám víu vào ai không? Ông hốc xịt cũng là đáng kiếp thôi, hiểu chưa!!!
Khiếp quá thôi! Có đúng là cảnh cú khó vọ mừng, cú có vọ tức không? Ai người ta giành giật cái gì của mình mà căm tức người ta, mà muốn đâm vào mặt người ta? Chuyện người dưng can hệ gì đến mình mà bỗng dưng vợ chồng lại sinh sự với nhau? Rõ khéo! Nhưng mà thôi, cũng chẳng nên chấp cái nồng nã ghen ăn tức ở của người đàn bà nông cạn làm gì!
Lân nghĩ vậy nhưng hồi sau lại ngẩn ra: không hiểu sao vợ mình lại tinh quái thế? Ai rỉ tai mách bảo y mà y biết, lại nói được rằng cái việc được đi Pr. là tài lộc ông già thủ trưởng của Nội ban phát cho Nội? Xem mặt y, cái cách nói của y thì y còn nắm được nhiều bí mật của sự việc lắm. Hay việc đời vốn có cái bí nhiệm của nó thật? Ấy thế, dân mình chẳng hạn, là cả một sự khó hiểu. Hôm trước kêu túng lắm, khéo phải bán cả quần áo đi để đong gạo, hôm sau được chia đất đã móc túi ra hai trăm triệu, gọi thợ đến xây ngay cái nhà ba tầng. Tuần trước mất xe đạp còn ngửa tay xin cơ quan trợ cấp ba chục ngàn, tuần sau đã tậu cái Dream II, bóng loáng mười triệu đồng.
Cuộc sống có cái phần không lộ ra của nó. Nhưng, như thế không có nghĩa là đằng sau các sự việc đều là xấu xa, tồi tệ cả. Vợ Lân sao lại cứ hướng sự tìm tòi vào cái xấu, cái tồi, cái tăm tối? Y tức tối, y uất căm vì đời y khổ quá, thiệt thòi quá ư? Bốn mươi ba tuổi, cán bộ hơn hai chục năm, lương không đủ nuôi thân. Nhà cửa thật không bằng cái bếp của người ta. Hay là y đã bị thói đạo đức giả lừa dối quá nhiều rồi nên y quyết không tin vào ai nữa và y có quyền phanh phui, tố cáo?
- Kết hợp chữa bệnh! Lướt qua mặt chổng một ánh lườm thương hại, vợ Lân lại cất giọng cay cú - Còn lâu nhé. Của trời hàng vạn, ngắn tay đừng có hòng với tới. Thân cận với ông già không phải chỉ có mình ông Nội. Không nịnh nọt, hầu hạ giỏi, không khôn ngoan, đáo để có mà được quả to thế!
Lân tặc lưỡi, xuê xoa:
- Ôi, trong phúc có họa, trong họa có phúc, đã biết thế nào!
- Rõ là luận điệu của anh hèn. Ngờ nghệch lắm, ông ơi.
- Thì cứ chờ xem. Quả to hay quả nhỏ? Quả thật hay quả giả!
Vợ Lân bĩu mỏ, bỏ đi, mặt lộ vẻ khinh nhờn, không thèm chấp anh chồng gàn, nhưng Lân biết y vẫn ngấm ngầm tức tối.
Quả nhiên, chiều ngày thứ năm kể từ ngày Nội bay đi Pr. Lân vừa ở trường về, đang thay quần áo, bỗng nghe thấy tiếng vợ mình rít chói tai, nhưng hết sức đắc chí, ở gian buồng ngoài.
- Kìa, bố thằng Luyện, con An ra hành lang mà xem quả thật hay quả giả!
Ngoài hành lang, cái Ngọc Oanh, con gái út của Nội, bằng tuổi cái An, con gái Lân, đang ngồi vắt vẻo trên chiếc Honda Cub mới tinh, như vừa ở trong hộp bước ra. Xung quanh cái Ngọc Oanh có ba bốn đứa bạn. Cái Ngọc Oanh khoe với bạn nó rằng bố nó sang tới nơi là gửi ngay quà về cho gia đình. Ngoài chiếc xe máy còn chiếc xe đạp mini Nhật và một lô đồ hàng vặt nữa.
Chính Lân cũng bị bất ngờ!
Nhưng, ngay tối hôm ấy, Lân có cảm tưởng anh lấy lại được thăng bằng. Vợ Nội sang nhà Lân, có gì như thúc bách lại nhuốm vẻ lo lắng khác thường.
- Nhà tôi mới gửi thư tay về, hỏi thăm sức khỏe anh chị. Khổ! Đúng là xẩy nhà ra thất nghiệp. Bên ấy rét quá. Vừa sang được một hôm nhà tôi đã phải đi nằm viện.
Lân sửng sốt:
- Chắc anh bị rét đột ngột, lại bị tim nó hành!
Vợ Lân vênh mặt vừa xưng xỉa vừa đắc chí ngẩm:
- Thế thì sang làm thèm vào!
Vợ Nội rưng rưng:
- Có nói thì anh chị cũng chẳng tin đâu. Của cải là cái gì hả, anh chị? Của tám vạn nghìn tư, chết cũng hai tay buông xuôi thôi.
Động lòng trắc ẩn trước lời nói bức bối của vợ Nội, Lân vội hạ giọng đỡ lời:
- Nghe anh ấy nói mới thấy con người ta cũng như cây cỏ, ở đâu hợp thung thổ đấy, sống ở nước người chả sung sướng gì thật. Anh ấy kể thật tội. Hồi ở bên Nga mùa đông, thèm rau quá, anh ấy phải nuôi năm củ hành trong năm lọ nước, đặt ở bậu cửa sổ, vài ngày hành mọc được tí lá nào là xén tí lá ấy nấu ăn.
Được người chia sẻ, vợ Nội đưa tay quệt đuôi mắt, giọng nghèn nghẹn:
- Đấy, có từng trải mới thương nhau. Ở nước ngoài, cứ tưởng lên xe xuống ngựa, hội hè khoản đãi liên tục là sung sướng. Lấy nhau hơn chục năm tính ra vợ chồng chỉ ở bên nhau mỗi năm được một hai tháng. Mà toàn là những lúc ốm đau mới được về. Còn khỏe thì hết Âu châu lại Mỹ La tinh. Trong nước thì bắc, nam xuôi ngược đủ miền theo ông già. Lần này mà nhà tôi không đi Pr. thì lại phải cắp cặp theo ông già vào Tây Nguyên ba tháng liền đấy, anh chị ạ.
Vợ Lần chống tay lên đầu gối đứng dậy, lạnh tanh:
- Mình không ưng, ai bắt bò mình.
Lần biết vợ được dịp xả cơn bực bội, vội dàn hòa:
- Nói thế chứ, đã ở trong cuộc thì cũng có cái khó của nó. Mình phụ thuộc vào người ta mà.
Vợ Nội khịt mũi, nao núng:
- Đúng thế đấy! Từ lúc đầu còn xanh, tuổi còn trẻ đã đi theo ông già rồi. Cả đời lặn lội với ông già, bây giờ không nhẽ gặp khó lại rẫy ra. Nhiều lúc em cứ nói với nhà em: ngẫm ra, cứ như anh Lân, chằng phải phụ thuộc vào ai, mà sướng!
Ngẫm ra, cứ như Lân mà sướng! Ngẫm ra, cứ như cái đời anh giáo khổ, anh nhà văn quèn, chưa biết thế nào là mùi Tây, ngoài miếng cơm rau dưa tương cà ra, chưa hề được nếm bơ sữa xứ người, hóa ra lại sướng! Vợ Lân, dù lôi ngay lời vợ Nội ra để mai mỉa, gọi vợ Nội là con mẹ hoẹt, đạo đức giả, thì Lân cũng thấy vợ Nội có lý.
Cái khổ, cái sướng ở đời người ta, nói ra cũng thật là vô cùng. Thế nào là khổ, thế nào là sướng? Chắc gì kẻ đang ở nhà lầu, đi xe hơi, ăn toàn thịt cá, đặc sản, đã là sướng hơn người ở nhà cấp bốn, kẽo kẹt cái xe đạp tàng, cơm rau dưa hai bữa ngày mà tâm hồn thanh thoát, quan hệ trên dưới trong ngoài êm thuận? Hoặc giả như Lân đây, thiếu thốn về vật chất thì rõ rồi, nhưng người ta đâu chỉ sống với miếng cơm manh áo, chiếc xe, căn buồng!
Lân sướng. Dứt khoát là Lân sướng, Lân hài lòng với cuộc sống của mình: Lân tự do. Lân chẳng phải phụ thuộc vào ai, ngoài lương tri mình. Lân là thế nào, Lân cứ việc thể hiện mình như thế ấy lên trang viết. Văn nghiệp của Lân là một cơn tùy hứng. Nó không nằm trong kế hoạch của tổ chức nào hết. Nó cũng chẳng bị một điều lệnh nào bó buộc. Nó không đồng nhất với cái gì. Nó chỉ là nó, nó phụng sự cái đẹp. Thậm chí nó cũng chẳng phụ thuộc vào nhà xuất bản, ông tổng biên tập, chị biên tập viên. Khổng Tử nói mấy ngàn năm rồi đấy; sự việc ở đời ngổn ngang, xếp sắp lại cho nó một hình thức văn, chỉ có bậc thánh triết mới làm được! Nhà văn dẫu loại xoàng cũng có cái kiêu hãnh của bậc chí thánh, của người sáng tạo; loại người chỉ có thể mời được, không dụ được, không bỏ được, không khinh được. Riêng Lân, Lân còn sướng hơn đồng nghiệp là Lân không vị cả đồng tiền. Lân không cần tiền. Không phải vì Lân giàu có, thừa thãi. Mà là vì Lân sống kham khổ, tằn tiện quen rồi. Ngày hai bữa cơm rau, năm hai bộ quẩn áo, với vài mét vuông để ở và làm việc, thế là đủ! Do đó thích thì Lân viết, mà chán thì Lân gác bút. Sướng nữa là cái nghề này nó sòng phẳng lắm. Đó, chuyện đời nó bánh đúc bày sàng, xếp sắp lại thành bài văn là cái tài của anh. Tài cao thì có tác phẩm hay, xuất bản được nhiều, nhuận bút lớn. Lộn sòng, cơ hội, thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào, thì cũng ba bẩy hăm mốt ngày là lộ toẹt. Cũng như tình yêu, cái dốt cái giả trong nghề này, không giấu được.
Tất nhiên, nhuận bút bây giờ chẳng đáng là bao. Cuốn tiểu thuyết dày ba trăm trang, in một nghìn bản, đắt khách bán hết, nhà xuất bản cũng chỉ trả cho tác giả già nửa triệu bạc. Già nửa triệu bạc là năm mươi đôla, chưa đủ bữa ăn kiểu Triều Tiên của Nội. Chất xám, sự sáng tạo như vậy được trả quá rẻ mạt. Nhưng như thế lại có cái hay là yên ổn phần lương tâm. Rằng mình hưởng ít hơn cái phần mình làm ra, mình chẳng ăn lẹm phần của ai hết. Cổ nhân có cầu: Bang hữu đạo bần thả tiện xỉ dã. Có nghĩa là: nước có đạo mà nghèo và hèn là điểm xỉ nhục. Như vậy, hiểu theo lối phản chứng thì lúc này đây, phú quý là điều xấu xa.
Lân suy nghĩ cổ giả như thế đấy. Biết làm sao được! Bởi vì, suy cho cùng nghề văn là nghề rất cổ. Xưa nay vẫn là vậy thôi, nhà văn là cái anh dù có giao du đây đó, bặt thiệp từng trải, cuối cùng cũng là cái kẻ ru rú ở xó nhà, chìm trong cõi tâm linh trong suốt và mây mù của bản thể mình, cái bản thể mang vóc hình vũ trụ, xới lật tâm can, với cái ảo giác chập chờn của sự săn đuổi. Chao ôi, được sáng tạo, được bày tỏ mình, được thực hiện chức năng của kẻ sĩ là cất tiếng nói, mà lại trong trạng thái chiêm bao ảo giác thì còn gì sung sướng hơn!
Lân sung sướng vì Lân thấy Nội như thế mà chắc gì đã là kẻ sung sướng hơn Lân! Thiên nhân tương dữ. Người và tự nhiên là một mối. Ở đâu quen đấy, người Bắc vào Nam ở, nhớ cái mưa phùn miền Bắc còn ngây ngất cả hồn kia. Trong khi đó ở đây, chiều hè, nhảy ùm xuống hồ vùng vẫy một hồi, rồi lên, đánh cái quần cộc, rồi lùa cả miếng cơm chan canh rau luộc thả mấy cái lá me rôn rốt chua, thêm mấy hạt mì chính, mà rung đùi thú vị. Hỏi trần gian còn có gì sướng hơn?
Nội khổ ngay cả khi đầy đủ. Nội khổ hơn Lân còn là vì Nội nhất nhất phải tùy thuộc vào yêu cầu của ông già. Ông già là một danh đại từ thành kính những người giúp việc đặt cho các nhà lãnh đạo cao niên ở các ngành các giới trên trung ương. Ông già lãnh nhiều trách nhiệm quan trọng, lại đã có tuổi, nên phải có nhiều người giúp việc. Lái xe, cần vụ, bảo vệ là một nhẽ. Đông nhất là các trợ lý, thư ký. Nội là một trong số đó. Nội gắn bó với ông già như hình với bóng. Ông già đi liên tục. Trong nước. Nước ngoài. Đi với ông già tất nhiên là lên xe xuống ngựa, cơm bưng nước rót, quà cáp biếu xén không ít, hơn đứt anh nhà văn quèn đi cơ sở. Nhưng, ở đời có gì được là được cả đâu. Việc của ông già là việc quốc kế dân sinh, động chạm tới sinh mệnh, quyền lợi hàng triệu người, nên phải nghiêm cẩn, lơ mơ tài tử chăng chớ là không được, nên bận rộn vất vả lắm!
Bận rộn có cái thú là nó vận động những năng lượng dự trữ để phát tiết anh hoa. Nhưng Lân cũng đâu có rỗi. Cũng lắm khi rối như canh hẹ, như kẻ mê sảng. Tuy vậy, bận rộn của Lân là bận rộn của sự thôi thúc tự nguyện từ bên trong, nó do lề luật của lương tâm quyết định. Nó khác với cái bận rộn của cái người bị sai khiến, bị phụ thuộc, của gã công bộc, anh đầy tớ.
Nhưng, lý sự như trên dẫu thế nào thì cũng là lối biện luận chủ quan, nói lấy được và áp đặt ý tưởng của mình cho người khác, chứ còn Nội? Người ta chỉ khổ khi người ta cảm được là mình khổ thôi. Vậy Nội, anh bạn hàng xóm của Lân có khổ không?
Thật tình là khi được tổ chức giới thiệu đến nhận chân thư ký giúp việc ông già, Nội cũng thấy lo lo ngài ngại. Lúc ấy Nội còn rất trẻ. Mới hai mươi nhăm. Mà công việc của ông già lại là việc trọng đại. Anh nhận chỉ là vì thấy ông già hiền hậu và chân thật. “Giúp tớ nhé!”. Ông già nói. Nói thật với cậu, tớ văn hóa kém lắm. Có được đi học ở nhà trường đâu. Học trong nhà tù đế quốc do các đổng chí dạy thôi.
Hóa ra công việc cũng suôn sẻ. Ở ngoài, cứ tưởng công việc quan trọng quá cao siêu và cẩn mật. Làm rồi thì thấy cũng bình thường. Thì có gì mà không làm được với một anh cán bộ có bằng trung học phổ thông lại qua trường tuyên giáo trung ương. Ghi chép biên bản các cuộc họp của ông già. Viết diễn văn cho ông già. Diễn văn thì đã có mẫu xã luận báo Nhân dân rồi. Quan trọng là liên hệ với thực tế ngành và phải đánh máy chữ to, cách dòng rộng và rõ ràng. Vì mắt ông già kém, đọc hay vấp. Ngoài ra, Nội giúp ông già các việc vặt: trả lời thư khiếu nại, bố trí lịch công tác, gọi xe ô tô và giúp ông già giải quyết những việc nhỏ mọn, vặt vãnh trong gia đình, chẳng hạn, mua hộ con gái rượu ông già một chai rượu ngoại ở cửa hàng Quốc tế để nó mừng sinh nhật bạn!
Ông già bận tối mặt, không còn một khe hở thời gian nào để mắt tới gia đình. Cái chốt cửa hỏng. Cái bóng đèn cháy. Bà vợ thì quê mùa. Lũ con thì lười biếng, ỷ thế bố. Cơ quan phải lo hộ, tức là Nội phải lo.
- Chúng nó lồng hổng quá. Xưa, mình bằng chúng nó phải đi kéo xe tay kiếm sống ở thành phố rồi. Một lần, ông già phàn nàn. Biết làm sao được! Họp hành tối mặt! Đến thân mình cũng phải người khác lo cho nữa là con cái. May mà ông già còn khỏe. Khỏe lắm! “Giá bắt mình kéo cái xe tay cũng còn hơn bắt mình đọc tài liệu!”. Ông già nói vậy rồi cười, răng đen nhờ, chằn chặn. Cơm ăn bữa nào cũng đủ ba bát đầy. Đặt mình là ngủ. Ngủ là ngáy váng nhà. Không biết nói sai. Thật thà như đếm. Có hôm phải họp liên tục mấy cuộc họp, ông già ngủ gật, đầu đập bàn sưng vếu, đứng dậy, xin lỗi mọi người: “Hồi đi làm cách mạng theo các đồng chí lãnh đạo, tôi vẫn giơ lưng chịu đòn nhà tù hộ các đồng chí, nhưng chẳng bao giờ nghĩ cách mạng xong lại họp hành nhiều như thế!”. Ông già ngủ gật, lơ đãng và thông thường họp xong Nội lại phải đọc bản tóm tắt để ông già nắm lại.
Ông già lúc trẻ không được đi học thật. Chữ ông già to xều. Viết được một trang chữ là cả một cuộc vật lộn. Báo, tạp chí, bản tin mật chất đống trên bàn, ở cơ quan, ở nhà, xểnh cái là lũ con lấy đi bán cho hàng giấy vụn. Cậu xem đi, rồi có gì hay thì nói lại cho tớ nghe. Ông già nói rồi lắc đầu với vẻ bất đắc dĩ và tự nhạo mình.
Rõ ràng là ông già rất thiếu năng lực quán xuyến công việc lớn đang đảm nhiệm. Nhưng, cũng rất rõ ràng là ông già rất tự tin vào vị thế của mình, một vị thế không ai thay thế được. Bầu cử lần nào ông già cũng trúng cử với số phiếu tuyệt đối. Cuộc họp tổng kết nào, người ta củng nì nèo mời ông già đến, có khi chỉ là dự khai mạc, thậm chí ăn với anh em một bữa cơm. Có lẽ là vì ông già có một trang tiểu sử rất đáng tự hào. Mười sáu tuổi, bần nông mất đất, ra thành phố, kéo xe tay. Một bận đang kéo xe đi qua nhà giam Hỏa Lò bỗng thấy một bóng đen từ bức tường vây bao quanh nơi giam cầm nhảy xuống và leo lên xe. Ông già cứ thế chạy đại ra ngoại ô. Không ngờ đó là một đồng chí lãnh đạo cao cấp của đoàn thể. Ông già gia nhập cách mạng bằng một nghĩa cử. Và nổi tiếng vì đức kiên trung, không hé răng một lời khai trước đòn tra hiểm độc của đế quốc. Chẳng những thế còn giơ lưng hứng chịu đòn đánh của quân thù thay cho đồng chí mình.
Nhưng, cuộc sống là biến hóa! Ai thì cũng thế thôi, chứ chẳng phải là với riêng ông già trong cái cơ chế tôn sùng các giá trị đạo đức và xu thế độc quyền càng lúc càng thịnh hành. Giờ đây, sau hơn hai chục năm đứng đầu một cơ quan lớn của quốc gia, ông già nghiễm nhiên trở thành một kẻ độc tôn, một bề trên tối thượng, một đấng bậc có quyền hành vạn năng. Một cái gật đầu của ông già quan hệ đến số phận của hàng trăm con người. Một chữ ký của ông già có ảnh hưởng đến một phần tài sản của hàng chục đơn vị. Một điều bất như ý của ông già có thể làm thân bại danh liệt một kẻ đang vênh vang đắc thế. Và ngược lại. “Thằng nào làm cái việc ấy? Láo! Gọi nó lên đây cho tao!”. Đó là câu nói cửa miệng gần đây của ông già, một người trước đây được tiếng là chát phác giản dị, thật thà. Tội nghiệp, quyền lực gây ảo tưởng cho chính ông già. Nhưng, không sao hết, với Nội cái kiểu ăn nói tùy tiện, suồng sã, gia trưởng ấy, thậm chí nhiều khi cũng tục tĩu nữa, lại là đặc trưng hết sức đáng yêu của một người cha tận tụy với đàn con, của một nhà lãnh đạo xuất thân từ tầng lớp bình dân.
Cảm mến, kính mộ ông già trong Nội lớn lên, tạo nên một trường thôi miên anh từ lúc nào anh cũng không hề biết. Tình yêu thái quá nào thì cũng có tính chất tôn giáo mê muội. Nội trở thành một tín đồ, một môn đệ sùng kính ông già với thoạt đầu là tình yêu mến sơ khởi bắt nguồn từ sự kính trọng, và mến phục những trang tiểu sử đầu đời của ông
Nội đã quá si mê ông già. Ông già đã trở thành thánh sống, là kẻ tập trung tất cả sự tốt lành của thế gian. Với Nội, cả những nhược điểm của ông già như thất học, và gần đây là những thói xấu mới nhiễm phải như quyết đoán và thô lỗ cũng bị biến dị trở thành giai thoại đáng yêu của một thần tượng đang được phụng thờ.
Mẹ Nội mất. Anh được ông già cho xe riêng đưa về chịu tang mẹ. Nhưng anh chỉ kịp nhìn mặt mẹ, hờ mấy câu, rập đầu chịu tội bất hiếu, rồi lại vội lên xe trở về cơ quan, không kịp đưa mẹ ra đồng. Hôm ấy cơ quan mở đại hội, ông già cần anh góp một tay để có đủ số phiếu bầu đi dự đại hội cấp trên. Xa ông già một ngày là Nội nhớ. Cái chân lý: Sợ giặc còn hơn sợ chúa, yêu thân còn hơn yêu thầy, hóa ra sai toét trong trường hợp này; tình thủ trưởng nhân viên, tình đồng chí hóa ra cũng có thể biến thành tình cha con đến mức có thể xả thân, tận lực cho nhau là vậy!
Vợ Nội kể:
- Lần ấy nhà tôi đi với ông già chỉ đạo công việc gì đấy ở Tây Nguyên liền hai tháng trời mới về. Tôi nhớ đó là dịp cuối tháng mười một, trời đã trở lạnh. Một chiều nổi gió, anh ấy bước lên cầu thang, vào tới nhà, chẳng nói năng được câu nào, đã đi thẳng vào buồng ngủ, nằm vật ra và ngất lịm đi. Tôi vội đưa anh ấy vào bệnh viện cấp cứu. Anh nằm li bì hai mươi ngày liền mới tỉnh. Các bác sĩ khám nghiệm kết luận: “Tim anh bị tổn thương nặng, cần phải nghỉ ngơi hoặc chuyển sang làm việc nhẹ”. Tôi lo lắng, bảo anh: “Thôi, ra viện anh xin ông già cho chuyển sang công việc tĩnh tại văn phòng đi!”. Không ngờ, anh vặc lại ngay tôi: “Cô chẳng hiểu gì cả. Tôi coi ông già còn hơn cha đẻ tôi kia!”. Tôi im, nghĩ: có lẽ tôi đã quá lo lắng vì mỗi lần vào thăm anh lại thấy anh thêm xác xơ, ảo não. Nhưng, một ngày kia, thăm anh tôi kinh ngạc thấy anh tươi tỉnh, hổng hào như vừa được uống một thứ thẩn dược, trở nên khỏe mạnh hoàn toàn. Lại còn đang vừa huýt sáo vừa xếp quần áo, tư trang vào va li. “Ông già vừa gọi điện cho anh”. Anh nói, mắt long lanh như hai ngọn đèn. Thì ra, anh chỉ chờ có vậy! Tôi chép miệng, buồn rầu: “Gần tháng trời anh đau ốm lệt bệt, ông già có ngó ngàng gì đến. Nay, anh vừa nhúc nhắc...”.
Anh quắc mắt cắt ngang lời tôi: “Ông già bận trăm công nghìn việc. Mình phải tự lo cho mình chứ!”. Tôi lảng chuyện: “Ông già nói gì với anh?”. Anh hào hứng: “Ông già nói: Nội đấy à. Về ngay nhé, có việc cần cậu đấy”. “Trời!”. Tôi kêu. “Việc gì thì cũng phải tính đến sức khỏe của anh chứ. Chả lẽ anh không biết là anh vẫn đang nằm viện điều trị bệnh tim à?”. Anh phất tay lắc đầu: “Anh khỏe rồi. Với lại, việc cần kíp thì ông già mới gọi chứ!”. Tôi vội cầu cứu các bác sĩ. Các bác sĩ ngăn anh, bảo anh rằng, cứ liệu đấy, quỵ một lần nữa là suy tim, là thành đồ phế thải, là hết đường cứu chữa đấy. Mặc, anh cứ sùng sục đòi về. Lúc này thời tiết đã chuyển sang mùa mưa dầm gió bấc. Mặc, với anh, ông già tượng trưng cho sự thiêng liêng tối thượng.
Vợ Nội ngừng, nước mắt chan chan. Chị không ngờ ba ngày sau, Nội trở về nhà trong trạng thái sức khỏe hết sức nguy ngập. Chị kể tiếp:
- Hai người bạn phải xốc nách anh mới đưa anh lên gác hai. Đẩy cửa đi vào, anh bước chuệnh choạng. Cái Ngọc Oanh sáu tuổi nhao ra định ôm bố. Anh một tay ôm ngực trái, một tay đẩy con ra. Rồi anh nhoài xuống giường, nhăn mặt vặn người ngửa mặt lên, miệng hí hóp thở như con cá bị quẳng lên bờ. Ngực trái anh sưng phồng! Trời!
Nội suy tim. Một tháng liền, anh ở giữa biên giới của cái sống và cái chết. Vợ Nội khóc mếu, than vãn: Sao ông già nỡ nhẫn tâm như thế với anh? Nhẫn tâm hay vô tâm chẳng cần quan tâm đến ai hết, ngoài mình? Bởi vì, ông già gọi anh về có phải vì một công việc cần kíp, hệ trọng có liên quan đến quốc kế dân sinh, lợi quyền của dân chúng đâu! Ông già cần anh về để giao phó cho anh nhiệm vụ chủ trì đám cưới cô con gái út của mình. Cô con gái út của ông già, năm nay đã hăm chín tuổi vừa xấu người vừa xấu nết, đã từng gây tai họa cho hai gã con trai. Một gã sinh viên từ tỉnh lẻ lên học, nuôi ý định lấy cô làm vợ, những mong dựa thế bố vợ để cải hóa cái lý lịch ba đời có nợ máu với cách mạng của mình. Một gã xích lô nghĩ rằng, ông bố cô cùng cảnh ngựa người, chắc vui vẻ chấp nhận cuộc tình, sẽ tha hồ đào mỏ một khi là rể ông già.
Kết quả cả hai gã đều đưa ra mặt trận chết ngóm cho đáng đời. Giờ cô này lại đang có chửa với một ông giáo già bấy lâu được thuê làm gia sư kèm cặp cô học tiếng Nga. Rắc rối thế! Lỡ dở rồi, tổ chức đành yêu cầu phải làm cái đám cưới này thật linh đình để át lời đàm tiếu có hại cho uy tín ông già.
Thế là cái đám cưới chạy danh giá, có mục đích bịt mồm thiên hạ được giao phó cho một kẻ giúp việc hết sức mẫn cán. Lên một kế hoạch tổng thể, đặt ra mọi tình huống, vạch ra tiến trình từng công việc cụ thể, săn sóc từng chi tiết đầu việc, việc gì Nội cũng phải lo toan đầu cuối, không bỏ qua bất cứ một tình tiết nhỏ mọn nào: kể từ màu sắc phông màn, họa tiết trang trí đến phòng hợp cẩn của chú rể, cô dâu. chính tay Nội ghi tên khách mời lên từng tấm thiếp. Lại đích thân Nội đạp xe đưa tận tay những khách mời quan trọng. Kẹo bánh phải đặt trực tiếp với giám đốc xí nghiệp bánh kẹo, nhưng Nội vẫn phải kiểm tra tận phân xưởng. Thuốc lá lấy tận nơi sản xuất để tránh hàng rởm. Rồi cũng chính Nội phải đi mời, đón nghệ nhân nấu ăn về trông nom việc bếp núc của các tiệc mặn hơn ba trăm người ăn nóng.
Chẳng còn nghĩ gì đến bản thân, Nội lo ngày lo đêm cho cái đám cưới nọ, vất vả nhưng bừng bừng hãnh diện và chỉ sợ phụ lòng tin của ông già. Một đêm mưa tầm tã, xe ô tô đi mượn bát đĩa, ấm chén sa lầy ở giữa đường. Trên xe chỉ có người lái xe và Nội. Nội nhảy xuống, gồng sức đẩy. Mưa xối ướt đầm. Bùn văng, trát đầy người. Rét run, hai hàm răng va nhau lập cập. Rồi lạnh ớn và ngực phồng lên, đau nhói nhói, đau dội lên, nhức nhối đến nghẹt thở. Nội chỉ lo không hoàn thành được nhiệm vụ, không xứng với niềm tin ông già đã trao gửi cho anh. Xưa nay anh vẫn sống theo nếp đó. Mà chả riêng gì anh. Tất cả những người giúp việc ông già đều như vậy. Ông già là cha, là thủ lĩnh, là ân nhân, là quyền uy tuyệt đối. Mọi người là con, là nô bộc, là kẻ chịu ơn chỉ biết có phục dịch tận tình và tuân phục vô điều kiện. Tình cảm và nghĩa vụ hòa quyện, không cần lý giải. Việc chung, việc riêng của ông già không phân biệt. Và đã thành thói quen, ông già cũng tự coi mình là biểu trưng của toàn bộ cộng đồng. Ông già lo cho mọi người thì mọi người có nghĩa vụ thực hiện những yêu cầu có quan hệ đến ông già. Vợ, con ông già muốn có một chiếc xe Mifa, thích xem một vở kịch, mùa hè này cần nghỉ ở bãi biển nào... cũng như một cái chốt cửa hỏng, một chiếc bóng đèn cháy ở nhà ông già, đó chính là việc của cơ quan và mọi người. Còn lúc này, dồn hết toàn lực đẩy chiếc xe ra khỏi hố bùn là việc tất nhiên Nội phải làm, có gì mà phải nghĩ ngợi. Hơn một giờ sau, nhờ mấy người nữa xúm vào đẩy, chiếc xe mới nhích lên được tí. Lúc này, người Nội đã mất hết cảm giác. Anh dựa vào thành xe, mắt nhắm nghiền, thào thào thở. Rét quá! Rét từ trong tim rét ra! Nói cách khác, khí lạnh đã nhập vào tận tim, phổi Nội. Nên khi chiếc xe nhờ phép lạ của chúa bỗng gia tăng năng lượng, vọt được lên bờ hố bùn, thì anh mất chỗ dựa, như một cây chuối ải, rụi ngay xuống hố bùn.
Nội chưa trở thành đồ phế thải hoàn toàn vì một may mắn bất ngờ, anh mới ngoài bốn mươi. Nhưng, anh đã phải nằm viện gần một năm trời và từ đó tim anh, sau cơn tai biến, chính thức bước vào vòng suy yếu. Bác sĩ ghi trong giấy ra viện của anh như sau: Phải kiểm tra tim mạch thường xuyên. Dứt khoát phải chuyển sang chế độ làm việc nhẹ và tĩnh!
Nội chẳng quan tâm tới lời dặn của bác sĩ. Ở viện ra, về đến nhà, việc đầu tiên là anh bảo vợ dắt hộ xe đạp ra cửa để anh đi. Anh lên chào ông già đây. Anh nhớ ông già quá! Ngăn không được, biết vậy, vợ Nội chỉ thở dài. Tận tối mịt hôm đó, Nội mới trở về, mặt mệt mỏi thoáng vẻ bần thần. Thì ra ông già đang bận họp. Anh chờ từ hai giờ đến hết năm giờ. Tan họp, anh hí hởn nhẩy đến đón ông già thì ông già xua tay ra hiệu còn phải đi ăn với khách, rồi lên xe ô tô đi ngay. Nội lại ngồi chờ. Sốt ruột vì bảy giờ tối tiệc chưa tan, anh đạp xe đến khách sạn thì được biết ông già đã đi xem cải lương ở rạp Hồng Hà. Trực ở cửa rạp hát tới hơn mười giờ, tan vở diễn anh mới chụp được tay ông già, nước mắt nhỏ ròng ròng: “Ông ơi, con nhớ ông quá, ông ơi...”. Vợ Nội ứa lệ, quay đi, nghĩ thầm: Thật quá con chiên với đức cha. Nội không hay biết ý nghĩ của vợ, chớp chớp mắt, nén một hơi thở dài: “Em ạ, anh chỉ hơi buồn là ông già bận quá. Khổ, anh ốm, chẳng còn có ai như anh săn sóc và giúp đỡ ông già!”.
Dẫu thế nào thì sức khỏe của Nội cũng sa sút lắm rồi. Và ông già đã bước vào thời kỳ lão suy với các khuyết tật không thể cưỡng lại được. Tính tình nóng lạnh khác thường, bệnh tật phát sinh, hay mệt mỏi và trí nhớ kém sút, đó là những dấu hiệu rõ nhất ở tuổi bảy mươi lăm ở ông già. Đặc biệt là giảm sút trí nhớ.
Phải, ông già rất ít nhớ. Điều đáng buồn là trong khi Nội ngay cả trong mơ cũng có hình bóng ông già và giống như con chiên của Chúa, anh nghĩ Chúa chẳng quên ai, đặc biệt là anh, kẻ đã cúc cung tận tụy một đời, thì ông già gần như quên hẳn anh.
Một hôm, Nội đến cơ quan sớm, đang mở cặp tài liệu thì ông già đi từ cửa vào. Anh vồn vã cất tiếng chào ông già sau bao nhiêu ngày xa cách. Ông già dừng lại, hấp háy cặp mắt đỏ ké nhìn anh như nhìn một kẻ xa lạ, rồi hất hàm: “Đồng chí đến có việc gì thế?”. Nội đánh rơi cặp tài liệu, sửng sốt: “Ơ kìa, em là Nội đây mà, thủ trưởng!”. Ông già ngơ ngơ, như lần mò trong mây mù hư vô, rồi nhíu mày: “Nội, Nội nào nhỉ?”. Nội lạnh toát người, xô lại ông già, thảng thốt: “Em là Nội, Nội vẫn đi theo, giúp việc thủ trưởng gần hai chục năm nay đây mà!”. Vô ích. Trong óc ông già Nội là một con số không to tướng, ông phẩy tay và đi vào buồng trong, vẻ mặt vừa ngơ ngẩn vừa bực bội: “Nhưng mà đồng chí đến gặp ai và để làm gì chứ?”.
Vợ Nội nói:
- Có những lúc ông già chẳng còn nhớ gì nữa. Chả cứ nhà tôi. Đang nói chuyện này có khi nhảy sang chuyện khác lúc nào không hay. Thật là thế đấy. Ví dụ như không có chuyện sau đây thì có lẽ chẳng còn cơ hội nào nhà tôi được ông già để ý tới.
Lần ấy, đi công tác ở Tây Bắc về, ông già bỗng phát một cái mụn ở bắp chân trái. Thoạt đầu nó giống như một nốt phá lở thôi. Nhưng bôi đủ thuốc Tây y mà nốt mụn vẫn có chiều hướng cương to, nên văn phòng cơ quan lo lắm. Dạo này ông già hay đau yếu thất thường. Còn nhớ, có lần ông già bị táo bón một tuần, mấy anh bảo vệ sức khỏe lo cuống cuồng truy tìm nguyên nhân mãi mới tìm ra thủ phạm là cái đơn thuốc bắc nhiều vị nóng, và lương y kê đơn ấy bị Ban bảo vệ sức khỏe vặn vẹo một trận đến khốn khổ! Còn lúc này nhà tôi đã chuyển sang làm việc tại văn phòng, nhưng vẫn thương nhớ ông già lắm. Tình cảm cũng là một thói quen. Quan hệ cũng vậy. Chả dễ mà cắt bỏ được. Nhất là khi đã trở thành nỗi si mê, mờ muội. Nhất là lúc này đây ông già ở vào tình trạng cô đơn, sau khi vợ mất và lũ con cái triệt để lợi dụng thế lực của ông già đã thành gia thất, bộc lộ trọn vẹn thói ích kỷ, cố hữu của chúng. Trước cái mụn khó chữa của ông già, chả phải việc của mình, cũng chả vì ông già hoặc tổ chức nhờ cậy, nhà tôi cứ tự động vất vả lặn lội hết nơi này nơi khác, hết ông thầy thuốc bắc này đến bà thầy thuốc nam kia. Cuối cùng tìm đến anh bạn giỏi Đông y, lấy được thứ thuốc gia truyền nổi tiếng về cho ông già. Thuốc là một nắm lá có tên là Bạch xà. Sắc lá ấy lên uống, còn bã thì đắp vào nốt mụn. Cũng là một cách chữa trị phổ biến. Nhà tôi thực hiện đúng chỉ dẫn của anh bạn. Không ngờ, làm ơn mà nên tội! Được một ngày, nốt mụn của ông già không những không xẹp, lại phá ra thành nốt lở loét to hơn. Hai ngày sau nữa, bắp chân ông già sưng tấy. Rồi ông già lên cơn sốt nóng rừng rực, và tiếp đó chuyển sang sốt rét rung bần bật. Sau cùng cả người ông già bỗng như được bơm thổi, trương phình lên, rồi ở cổ tay, khoeo chân xuất hiện các vết nứt nẻ, rỉ nước vàng. Ông già mê man bất tỉnh. Văn phòng vội đưa vào bệnh viện Việt Xô cấp cứu. Bệnh viện Tây y hiện đại nhất nước bó tay. Lại chuyển sang bệnh viện Đông y lớn nhất Hà Nội. Cũng lại thúc thủ. Vì chẳng hiểu bệnh gì. Hết nước rồi, ông già nằm thoi thóp chờ chết. Bộ phận bảo vệ ông già vội vã truy cứu nguyên nhân. Chẳng phải lâu la, rắc rối gì, họ tìm được ngay thủ phạm là nắm lá Bạch xà. Nhà tôi bị bắt liền. Thẩm vấn suốt một tuần. Tôi vật vã kêu khóc. Nhà tôi một mực trước sau bày tỏ lòng trung thành với ông già. Nhưng tình ngay lý gian và chính anh cũng đau đớn. Trời ơi, nếu ông già có mệnh hệ nào thì oan này bằng oan Thị Kính, Thị Lộ! Nhưng hỡi ôi, anh làm gì còn có cơ hội và thời gian để bày tỏ niềm ân hận xót xa của một tôi trung. May cho nhà tôi, số ông già chưa tận. Một tuần nhà tôi bị giam cầm nữa trôi qua, người ông già xẹp dần sau một ngày ông già đi tiểu như tháo cống. Được một tuần nữa thì các vết nứt liền da và nốt mụn tẹt đi, săn se một lớp da non. Ông già qua cơn nguy biến và khỏe lên gấp bội. Ông cười hà hà: Có thể cưới cho tớ một cô mười tám tuổi nữa! Ha!Thật là một thứ thuốc tiên!
Vợ Nội vuốt nước mắt:
- Ông già khỏe mạnh. Nhà tôi ra khỏi nhà giam, kiệt lực phải đi nằm bệnh viện. Tôi lên gặp ông già trần tình mọi việc và xin ông già cứu giúp. Ông già nghe xong, gật đầu: “Cậu ấy ốm nặng hả? Thế thì để tổ chức xếp sắp cho đi nước ngoài kết hợp chữa bệnh! Ông già đền ơn cứu mệnh mình hay gia ân cho tôi tớ, tôi chẳng cần biết, chỉ biết đó là thời cơ thuận lợi nhất để nhà tôi khỏi khổ nhục vì phải làm việc với ông già. Còn trù trừ gì nữa. Tôi sợ những vụ như vụ lá Bạch xà lắm rồi!”.
*
Lân thở dài não nuột. Sự đời nó nhiều tầng cấp là thế. Ngọn nguồn nông sâu thế nào, ai dám nói là hiểu được tường tận. Người mà ta vẫn hằng kính trọng, hóa ra cũng có thể tàn nhẫn, vô tâm, thậm chí ích kỷ đến bỉ ổi. Nhìn bề ngoài, cứ tưởng đời Nội là sung sướng, mãn nguyện lắm. Có biết đâu nghe thì sang trọng mà căn bản Nội cũng chi là một kẻ phụ thuộc, mang đầy đủ mùi vị chua cay nhục nhã của kiếp người mất quyền tự chủ. Mà như thế thì hẳn Nội là một con người khổ nhất trần gian rồi. Chuyện bình thường mà động tới tâm thể sâu xa thế!
Nhìn mặt Lân rưng rưng xúc động, vợ Lân nhếch mép, ngủng nghỉnh:
- Đầu bạc rồi mà còn cả tin thế, hả ông?
Thấy Lân im lặng, vợ Lân sì một hơi dài:
- Lá cây Bạch xà làm thuốc với lại bị bắt giam oan ức! Rõ khéo bịa chuyện để che mắt thiên hạ chưa.
- Oan ức, bịa chuyện để che mắt thiên hạ? Gì mà ghê thế?
- Chứ còn gì. Thiên hạ, hỏi có ai đem cái sung sướng ra khoe với ông không?
Lân tảng lờ, chặc lưỡi:
- Ừ thì giả thử đúng như thế thì cũng là người ta lấy của cải của thiên hạ cho người thiên hạ, chứ sao!
- Ông nói thế mà cũng nghe được à!
Không ngờ vợ Lân nắm bắt được cái thần của câu Lân nói, đứng phắt dậy, quắc mắt, vặc lại. Lân chớ chẩn một hồi, chỉ biết vợ phản bác chứ không hiểu vợ nói gì, rồi im.
Cho đến một hôm Lân đi dạy về, vừa bước vào nhà, chưa kịp bỏ mũ, vợ Lân đang đãi gạo, quay lại, bỏ rá gạo chìm trong chậu nước, cất tiếng the thé, vừa hể hả vừa cay cú:
- Kìa! Sao không về nhanh mà xem người ta khổ nhục thế nào! Đúng là con mẹ hoẹt dùng khổ nhục kế!
Lân đưa mắt ra cửa, nhận ra căn buồng nhà Nội đã khóa trái và dán chéo hai băng giấy trắng đánh dấu niêm phong. Vợ Lân đứng dậy, liếc qua mặt chồng buông một câu cụt lủn:
- Bay rồi.
- Bay đi đâu?
Nghe câu hỏi mơ màng của chồng, người phụ nữ như chồm lên, xoe xóe:
- Ông mê ngủ à? Chưa tỉnh à? Cả mấy mẹ con bay sang Tây theo chồng chứ đi đâu. Tám giờ ra ô tô, bảy giờ mới sang chào. Thật là vợ chồng được cả đôi! Rõ là dãi dài hơn người chưa! Cháy nhà ra mặt chuột chưa? Đúng là của ruộng đắp bờ. Ông già đâu có phải là kẻ tàn nhẫn độc ác như người ta vu vạ. Ông già ăn ở tình nghĩa lắm chứ! Mà vợ chồng ông bạn ông đâu có mê muội, ngu si! Thế gian anh nọ lợi dụng anh kia cả, chẳng có ai ngu ngơ như ông đâu. Một lúc mấy suất xuất ngoại ngon ơ! Bổng lộc lớn thế dễ ai mà có được!
Ngừng lại mấy giây, vợ Lân xếch quần ngồi xuống, nhấc rá gạo trong chậu nước, xoay tròn và hất hàm, nhìn Lân:
- Thế nào, bây giờ ai khổ ai sướng ông đã biết chưa?
- Biết rồi, biết rồi...
Lân đáp khe khẽ. Tưởng Lân đã nao núng, vợ Lân đắc chí trề môi:
- Ông Nội mà còn khổ thì còn ai sung sướng ở cõi đời này nữa!
Lân quay đi. Ừ, thì cứ cho là Nội bịa tạc ra chuyện lá cây Bạch xà và việc bị bắt giam oan ức như vợ Lân nghĩ thì điều đó cũng có thể chứng tỏ là Nội đã thấm thía cái khổ nhục của kẻ giúp việc phụ thuộc rồi. Hoặc giả, Nội không thấy cái nhục cái khổ, Nội cho rằng mình khôn ngoan, biết lợi dụng cơ hội để dành lấy sự sung sướng cho mình và vợ con. Thử hỏi rằng có đáng gọi là khôn ngoan và sung sướng không khi bổng lộc được nhận như ban ơn bố thí vậy! Và câu chuyện ai khổ ai sướng tưởng đã rõ ràng rồi mà sao vợ Lân cứ như là cố tình không hiểu. Hay đàn bà là thế, vợ Lân là thế, họ chỉ quan tâm đến cái thực lợi giản đơn, và do vậy tinh quái đến mức nhận ra cái thói đời vô cùng xấu xa là con người sống chỉ với một mục đích duy nhất là kiếm chác lợi lộc từ người khác cho bản thân mình! Khiếp quá thôi, nếu con người sống chỉ là để lợi dụng nhau!
Bất giác, Lần thấy buồn hơn bao giờ hết. Buồn vì cái cuộc đời còn biết bao nhiêu là oái oăm, bí ẩn đến quái đản này!
10/2005-3/1/2011