- II -
Khi Maigret trở về sở cảnh sát thì ánh nắng mặt trời đã chiếu vào hành lang cơ quan, nơi tẻ nhạt nhất trên trái đất này. Ánh sáng ở đây như là một khối bụi óng ánh. Trước cửa mỗi phòng làm việc, nhiều người ngồi đợi trên những chiếc ghế dài. Một số mang còng số tám trên cổ tay.
Ông vừa vào phòng của mình để hỏi thêm về việc tìm kiếm ở cảng Valmy thì một người tới chào ông bằng cách đưa tay lên vành mũ của mình.
Những người trong nhiều năm thường ngày được gặp ông đều có thái độ thân mật như vậy. Maigret hỏi người mới đến:
- Thế nào, Tử tước, anh nói sao?' Anh vẫn thường nói những gái điếm thường bị giết hại bằng cách chặt ra từng khúc...
Người được gọi là Tử tước không đỏ mặt... Đã mười lăm năm nay anh ta thường đến Sở Cảnh sát để lấy tin tức để viết bài cho một tờ báo của Paris và khoảng hai chục tờ khác ở các tỉnh.
Anh là người cuối cùng vẫn giữ cách ăn mặc như hồi đầu thế kỷ: một chiếc kính một mắt không bao giờ được dùng đến đeo vào một sợi dây màu đen lủng lẳng trước ngực. Có lẽ vì thế nên người ta gán cho anh cái biệt hiệu ấy.
- Chưa tìm thấy cái đầu ư?
- Theo tôi biết thì chưa.
- Tôi vừa gọi điện cho Judel. Anh ta quả quyết là sẽ không tìm thấy, ông cảnh sát trưởng, nếu có tin gì mới, mong ông đừng quên cho tôi biết sớm.
Anh ta ra ngồi trên ghế dài ngoài hành lang trong khi đó Maigret đến bên bàn giấy của mình. Một mảnh giấy đặt trên tờ giấy thấm và ngay lập tức ông biết rõ nó là giấy gì. Ông chánh án Comeliau yêu cầu ông gọi điện cho ông ta khi ông về văn phòng.
- Ông Chánh án, tôi là cảnh sát trưởng Maigret đây.
- Chào ông Maigret. Ông vừa ở kênh đào về đấy ư?
- Ở Viện Pháp y.
- Bác sĩ Paul có ở đấy không?
- Ông ấy đang mổ phủ tạng của người chết.
- Tôi cho rằng chúng ta không biết căn cước của nạn nhân, đúng không?
- Vì còn thiếu cái đầu. Nếu có may mắn...
- Vì cái đó nên tôi muốn gặp ông. Trong một vụ việc bình thường, biết rõ căn cước của nạn nhân, người ta sẽ biết mình đi đến đâu. Ông vẫn nghe tôi nói đấy chứ? Ngược lại, trong vụ này, chúng ta không có một ý niệm gì mà cái đó ngày mai, ngày kia hoặc sau đây một tiếng đồng hồ có thể thành một vấn đề lớn. Mọi sự ngạc nhiên, kể cả những sự khó chịu nữa, đều có thể xảy ra. Chúng ta phải rất cảnh giác.
Comeliau nhấn mạnh từng chữ và tự mình nghe lấy. Tất cả những điều ông ta nói, những việc ông ta làm đều "đặc biệt" quan trọng cả.
Các quan toà đều không muốn nắm chắc sự việc trong khi cảnh sát còn đang điều tra. Comeliau lại muốn đứng ra điều khiển mọi việc ngay từ đầu. Có phải do ông ta sợ trách nhiệm không? Người anh rể của ông là một nhà chính trị, là một trong số ít dân biểu đang mong được ngồi ghế bộ trưởng. Comeliau thường nói ra miệng:
- Vì anh ấy nên hoàn cảnh của tôi rất tế nhị so với các quan toà khác.
Muốn thoát khỏi ông ta, Maigret đành phải hứa sẽ báo tin cho ông mỗi khi có tin tức gì mới kể cả việc báo tin về nhà riêng của ông. Ông đọc lướt công văn giấy tờ mới được đưa đến và giao việc cho một số thanh tra.
- Hôm nay là thứ ba, đúng không?
- Đúng, thưa sếp.
Nếu bác sĩ Paul không nhầm thì xác người đã ở dưới nước bốn mươi tám tiếng đồng hồ. Như vậy án mạng xảy ra vào chủ nhật, có thể là chiều tối hoặc đêm chủ nhật, vì người ta không thể ném những gói bọc vào ban ngày, nơi cách xa Sở cảnh sát chỉ có năm sáu trăm mét được.
- Bà đấy ư, bà Maigret?- Ông nói vui với vợ trên điện thoại. Tôi không về ăn trưa đâu. Hôm nay bà chuẩn bị món gì?
- Thịt cừu nấu với giá đỗ.
Ông không tiếc vì như vậy sẽ rất nặng trong một ngày như hôm nay.
Ông gọi cho Judel.
- Có gì mới không?
- Victor đang dùng bữa trên thuyền. Lúc này đã có toàn bộ tử thi, trừ cái đầu. Anh ấy hỏi có tiếp tục tìm kiếm nữa không?
- Tìm kiếm tiếp.
- Những người của tôi đã làm việc, nhưng chưa có gì là chính xác cả. Một cuộc cãi vã đã nổ ra trong một quán rượu ở phố Recollets. Không phải quán của ông Popaul, mà là quán ở gần ngoại ô Saint-Martin. Một bà gác cổng báo chồng bà ta mất tích, nhưng đã cách đây một tháng và đặc điểm nhân dạng thì khác hẳn.
- Chiều nay tôi sẽ tới chỗ các anh.
Trước khi đến quảng trường Dauphine, ông đẩy cảnh cửa văn phòng các thanh tra cảnh sát.
- Lapointe, chúng ta đi thôi.
Thực ra thì không cần chàng trai đi theo để cùng ngồi ăn trong quán ăn quen thuộc này. Maigret nghĩ điều này trong khi đi trên bờ kênh yên tĩnh. Ông mỉm cười khi nghĩ đến câu hỏi về vấn đề này mà người ta đã đưa ra với mình. Người đó là bác sĩ Pardon, bạn ông, ở phố Popincourt, nơi ông có thói quen cùng với vợ đến dùng bữa tháng một lần. Một hôm ông bác sĩ ấy hỏi:
- Maigret, ông có thể cho tôi biết tại sao cảnh sát vận thường phục đi đâu cũng phải có hai người?
Cái đó làm ông đặc biệt chú ý vì trước nay ông không hề nghĩ đến. Trong mỗi cuộc điều tra, bản thân ông cũng thường mang một trong số các viên thanh tra của mình đi theo.
Ông gãi đầu.
- Tôi cho rằng lý do đầu tiên là các đường phố Paris trước đây không mấy an toàn, phải có hai người cùng đi trong các phố vắng, nhất là về ban đêm.
- Cái đó có giá trị trong một số trường hợp như bắt giữ, khám xét những nơi nguy hiểm.
- Còn lý do thứ hai là trong các cuộc thẩm vấn ở Sở Cảnh sát. Nếu chỉ có một người thì bị cáo sau này có thể chối cãi. Trước toà án có hai người xác nhận thì dễ thuyết phục các quan toà hơn.
Cái đó là đúng nhưng vẫn chưa đủ.
- Xét trong thực tế, đây là một sự cần thiết. Trong một cuộc săn đuổi chẳng hạn, thường thì cần một người canh chừng đối tượng, một người đi gọi điện thoại.
Ông Pardon cãi lại:
- Ông đưa ra nhiều lý do nhưng tôi thấy không lý do nào thoả đáng cả.
Maigret trả lời:
- Nếu vậy thì tôi nói về bản thân mình. Tôi phải mang theo một viên thanh tra đi cùng vì nếu chỉ có một mình thì tôi sẽ có những lo ngại.
Ông không nói lại chuyện này với Lapointe vì không nên tỏ ra bi quan trước mặt những người trẻ tuổi đầy nhiệt tình công tác. Bữa ăn rất dễ chịu. Có nhiều cảnh sát trưởng và thanh tra tới dùng bữa, một số ăn trong phòng riêng.
- Sếp có cho rằng cái đầu đã bị ném xuống kênh đào và người ta sẽ tìm ra nó không?
Maigret lắc đầu. Thực ra thì ông chưa nghĩ đến điều này. Câu trả lời của ông vẫn là chủ quan, nhưng ông vẫn cho rằng nếu Victor tiếp tục tìm kiếm thì sẽ chỉ tốn công vô ích mà thôi.
- Chúng ta phải làm gì bây giờ?
Ông không biết. Có lẽ thủ phạm đã cho cái đầu vào trong va li và gửi nó ở nhà ga phía tây, hoặc là phía bắc vì chúng cách đây không xa lắm. Cũng có thể chiếc va li đó đã được gửi đi một thành phố nào đó bằng xe tải. Trên phố Terrage ông vẫn thấy những chiếc xe tải mang dòng chữ Công ty Vận tải Zenith- Roulers và Langlois trên cánh cửa đậu ở đó.
Vụ án thú vị nhưng không mấy hấp dẫn. Từ ngày ra làm việc, mỗi đường phố của Paris đều thân thiết với ông, nhưng ông chưa đến những dòng kênh lần nào.
Họ đang dùng cà phê thì ông có điện thoại. Đó là Judel.
“ Thưa sếp, liệu tôi có làm phiền ông không? Tôi chưa dám nói mình đã có một mục tiêu. Blancpain, nhân viên của tôi, được giao cho nhiệm vụ canh gác ở khu vực thuyền của thợ lặn, báo cáo cách đây một tiếng đồng hồ, anh ta đã chú ý đến một người đạp xe ba bánh. Hình như sáng hôm nay anh ấy cũng đã nhìn thấy người này. Nửa tiếng đồng hồ sau người này đã xuất hiện trở lại, và sau đó rất nhiều lần. Mọi người khác đứng sát bờ kênh, còn người này thì đứng rất xa. Một người vận chuyển hàng hoá bằng xe ba bánh thường làm việc liên tục, người này lại không như vậy.
- Blancpain có tìm cách đến gần anh ta không?
- Người nhân viên của tôi đã đến gần anh ta. Khi còn cách một vài mét thì người này tỏ ra sợ hãi cho xe phóng vào phố Recollets. Blancpain không có xe hơi nên không đuổi theo được.
Cả hai đều yên lặng. Thật là mơ hồ. Không thể coi đây là điểm xuất phát được.
- Blancpain có nhận được mặt anh ta không?
- Có. Đây là một thanh niên khoảng mười tám hai mươi tuổi, trông có vẻ người nông thôn vì da sạm nắng. Tóc hung, dài, mặc một chiếc áo khoác bằng da, bên trong có một chiếc áo len cổ lọ. Blancpain không kịp đọc tên cửa hàng trên xe ba bánh, mà chỉ nhó có một chữ gì đó tận cùng bằng vần "aiZ". Chúng tôi đang cho kiểm tra lại các cửa hàng có dùng xe ba bánh để vận chuyển hàng hoá.
- Victor có ý kiến gì không?
- Anh ấy nói mình ở trên cạn hoặc ở dưới nước cũng được miễn là được trả tiền công, nhưng anh ta cho rằng làm tiếp chỉ mất thời gian thôi.
- Ở những khu đất trống cũng không thấy được gì ư?
- Cho đến lúc này thì không.
- Tôi hy vọng là sớm có bản báo cáo của bác sĩ pháp y để có được một vài chi tiết về người chết.
Vào lúc hai giờ ba mươi phút thì Maigret đã có báo cáo ấy trên máy điện thoại. Ông Paul nói:
- Ông ghi nhé.
Người cảnh sát trưởng lấy ra một tập giấy.
- Đây mới chỉ là những kết luận bước đầu, nhưng chúng cũng rất gần với thực tế. Đây là những đặc điểm của con người ông cần tìm, tuy mới lắp ghép lại được và còn thiếu cái đầu. Anh ta không cao lớn lắm; khoảng một mét sáu mươi bảy. Cổ to và ngắn, và tôi cho rằng miệng anh ta rộng với cái hàm rất khoẻ. Tóc sẫm, và có thể có những sợi trắng ở hai bên thái dương, nhưng không nhiều lắm. Cân nặng bảy mươi tư ki-lô. Có vẻ là một con người phục phịch, vuông vức hơn là tròn trĩnh, gân guốc hơn là béo phị. Gan mật chỉ ra đây là một người nghiện rượu, nhưng không phải là một kẻ say sưa be bét. Loại người dùng một cốc rượu vang trắng sau mỗi tiếng đồng hồ, hoặc nửa tiếng đồng hồ, trong ngày. Trong dạ dày hãy còn một ít vang trắng.
- Có thức ăn không?
- Có. May mắn đây là loại khó tiêu. Bữa ăn cuối cùng của anh ta có thịt lợn quay và giá đỗ.
- Ăn trước khi chết bao lâu?
- Tôi cho rằng hai tiếng hoặc hai tiếng rưỡi đồng hồ. Tôi đã lấy những chất trong móng chân, móng tay của anh ta và gửi đến phòng xét nghiệm. Moers sẽ cho ông những kết quả phân tích.
- Còn những vết sẹo thì sao?
- Không có gì khác với ý kiến của tôi sáng hôm nay. Đã mổ ruột thừa cách đây chừng năm hoặc sáu năm do một nhà phẫu thuật lành nghề, tôi cho là như vậy. Những vết đạn chì có cách đây hai chục năm hoặc lâu hơn nữa.
- Người này chừng bao nhiêu tuổi?
- Năm mươi đến năm mươi nhăm.
- Có thể người ấy bị trúng đạn chì khi còn là trẻ con ư?
- Đây cũng là ý kiến của tôi. Sức khoẻ tốt, trừ gan bắt đầu bị xơ. Tim, phổi tốt. Phổi trái có vết sơ nhiễm lao, nhưng không quan trọng, thường xảy ra đối với trẻ con, mắc chứng bệnh này mà cha mẹ không biết. Ông Maigret, nếu ông muốn biết nhiều hơn thì ông mang cái đầu của anh ta đến cho tôi.
- Người ta không tìm thấy nó.
- Nếu vậy thì không bao giờ người ta tìm thấy nữa.
Maigret cũng cảm thấy như vậy. Những người theo đạo ở sở cảnh sát cho rằng đây là một tiền đề. Trường hợp này cũng thấy đối với những gái bán dâm hạ đẳng. Người ta đã cố gắng giải thích, nhưng mỗi người vẫn giữ ý kiến của mình.
Ông tới văn phòng của các thanh tra.
- Nếu ai hỏi các anh nói tôi lên phòng thí nghiệm.
Tới nơi ông thấy Moers đang cúi xuống các ống nghiệm.
- Anh đang làm việc trên cái tử thi "của tôi", đúng không? - Maigret hỏi.
- Tôi đang phân tích những mẫu vật do bác sĩ Paul vừa gửi đến.
- Anh đã có kết quả chưa?
Những nhà chuyên môn khác làm việc trong một căn phòng rộng hơn. Ở đấy có những ma-nơ-canh để nghiên cứu xem như nhát dao được đâm vào người trong tư thế nào.
- Tôi có cảm giác rằng - Moers lẩm bẩm - người của ông nấp kín trong một nhà thờ, ít khi đi ra ngoài.
- Tại sao?
- Tôi nghiên cứu các ngón tay ngón chân cùng những chất bám vào móng. Tôi cho rằng người này đã dùng tất len màu xanh nước biển và đi giày vải. Có thể nói người này chuyên đi giày vải.
- Nếu đúng như vậy thì bác sĩ Paul có thể xác nhận, vì chuyên đi giày vải nhiều năm thì bàn chân có thể bị biến dạng. Tôi thường nhắc bà vợ tôi...
Không nói hết câu, Maigret gọi điện thoại cho bác sĩ Paul ở nhà riêng vì lúc này ông đã rời cơ quan để về rồi.
- Tôi là Maigret đây. Xin hỏi bác sĩ một câu về nhận xét của Moers. Ông có cho rằng người ấy của chúng ta thường đi giày vải chứ không phải là giày da không?
- Chuyển giúp tôi những lời ngợi khen tới Moers. Tôi đã định nói với ông điều này nhưng sợ rằng sẽ đưa ông đi chệch mục tiêu. Tôi có ý kiến này khi quan sát hai bàn chân của anh ta. Tôi cho rằng đây là người phục vụ trong quán cà phê. Cũng như những người phục vụ trong các khách sạn, các nhân viên cảnh sát giao thông... vì đứng nhiều nên bàn chân họ thường bị bẹt ra.
- Ông nói móng tay móng chân anh ta ít khi được cắt.
- Đúng thế. Những người phục vụ khách sạn móng tay thường cắt ngắn.
- Cả những người phục vụ trong quán cà phê cũng vậy.
- Moers có tìm thêm được gì nữa không?
- Lúc này thì chưa, cảm ơn bác sĩ.
Maigret để gần một tiếng đồng hồ trong phòng thí nghiệm, ông đến gặp người này, người kia.
- Ông có quan tâm đến việc chân của người này có đất trộn lẫn diêm tiêu không? Cái này thường có trong những căn hầm nhất là căn hầm ẩm thấp.
- Có nhiều không?
- Trong nhiều lớp đất khác nhau.
- Nói cách khác anh ta phải xuống hầm nhiều lần, đúng không?
- Đây chỉ là một giả thuyết.
- Còn hai bàn tay thì thế nào?
- Ở móng tay có một chút xi màu đỏ.
- Như là xi gắn các nút chai rượu vang ư?
- Đúng thế.
Maigret thất vọng vì cái đó là quá rõ ràng.
- Tóm lại đây là một quán rượu! Ông làu bàu.
Và ông tự hỏi vụ án có thể kết thúc trong tối hôm nay không. Hình ảnh của người phụ nữ tóc hung, gầy gò trở lại trí nhớ của ông. Bà ta đã gây ra ấn tượng mạnh đối với ông và ông đã đôi ba lần nhớ đến bà ta trong ngày, không phải do nghi ngờ bà ta đã chặt chồng ra từng mảnh mà vì bà là một con người khác thường.
Ở cảng Valmy không thiếu những con người tế nhị. Nhưng ít có người như bà ta. Thật khó giải thích. Nhiều người khi nhìn ta thì đã trao đổi với ta một cái gì đó, kể cả một sự thách thức. Bà ta thì ngược lại, không có gì xảy ra cả. Bà ta đến bên quầy hàng mà không ngạc nhiên, không sợ hãi ngoài sự mệt mỏi không che giấu vào đâu được.
Đã hai ba lần, khi đưa cốc lên miệng, Maigret đã nhìn thẳng vào mắt bà ta nhưng không tìm thấy gì cả, không cử động, không phản ứng.
Đây không phải là thái độ của người không thông minh. Bà ta cũng không say, không dùng ma tuý, ít nhất là lúc ấy. Ông hứa là sẽ quay lại đấy để xem những khách hàng lui tới đây là loại người nào.
- Sếp đã có một ý kiến gì đó ư?
- Có thể.
Vào lúc bốn giờ chiều, Maigret gọi Lapointe đang làm việc trong văn phòng.
- Anh có thể đưa tôi đi không?
- Đến kênh đào ư?
- Đúng.
- Tôi hi vọng chiếc xe đã được tẩy uế.
Vào mùa này phụ nữ đã đội mũ màu sáng, trên mũ thường có hoa mào gà. Mọi quán rượu đã có đông người hơn tuần lễ trước đó.
Đến bến cảng Valmy, họ xuống xe và đi tới bờ kênh.
- Không thấy gì thêm chứ?
- Không.
- Cũng không có quần áo ư?
- Chúng tôi đã xem xét mớ dây thừng. Nếu sếp thấy cần chúng tôi sẽ gửi đến phòng thí nghiệm. Đó là thứ dây thừng bình thường của các cửa hàng. Chúng tôi đã cho người đến hỏi các cửa hàng nhưng chưa có kết quả. Còn những tờ báo gói tay chân người chết thì đó là báo của tuần lễ trước.
- Gần nhất là ngày nào?
- Thứ bảy trước.
- Anh có biết quản rượu ở phố Terrage gần cửa hàng dược phẩm không?
- Nhà Calas ư?
- Tôi không kịp nhìn biển hiệu ngôi hàng. Đó là một phòng tăm tối, thấp hơn vỉa hè, giữa nhà có một lò sưởi dùng than và những ống dẫn nhiệt chạy khắp gian phòng.
- Đúng thế. Đây là quán của Omer Calas.
Cảnh sát khu phố thông thuộc vùng này hơn là cảnh sát trên Sở.
- Người chủ là loại người thế nào - Maigret hỏi và nhìn bọt nước nổi lên chỉ rõ Victor đang lặn mò dưới đó.
- Bình thường. Ông ta không gây khó khăn gì cho chúng tôi.
- Omer Calas là người ở nông thôn lên Paris ư?
- Có thể là như vậy. Tôi sẽ xem lại sổ đăng ký hộ khẩu. Mọi chủ quán rượu thường tới Paris như là những người hầu phòng hoặc lái xe cưới một cô nấu bếp rồi ra ngoài mở qụán.
- Họ sống ở đây đã lâu chưa?
- Trước khi tôi được cử về khu phố này. Tôi biết quán rượu ấy. Nó ở ngay trước đồn cảnh sát. Rượu vang trắng của họ rất ngon.
- Ông chủ là người phục vụ khách chứ?
- Hầu hết mọi thời gian, trừ buổi chiều ông ta đi chơi bi-a trong một quán ở phố La Fayette. Đây là một người mê bi-a.
- Người vợ ra ngồi ở quầy hàng khi chồng vắng mặt, đúng không?
- Vâng. Họ không thuê người giúp việc. Tôi nhớ trước kia có một cô phục vụ, tôi không biết sau đó cô ấy đi đâu.
- Khách tới đây là thuộc loại người nào?
- Rất khó nói - Judel gãi đầu rồi trả lời - Những quán rượu ở vùng này thường chỉ có một loại khách hàng. Nhưng ở mỗi quán thì lại có sự khác nhau. Ở quán Popaul chẳng hạn thì náo nhiệt và sặc khói thuốc từ sáng đến chiều. Nhưng từ tám giờ tối trở đi thì trong quán chỉ còn ba bốn bà già có thói quen tụ tập tại đây.
- Thế còn quán của Omer thì sao?
- Trước hết nó không đông khách lắm vì nó tối tăm và buồn thiu. Buổi sáng thì có công nhân của các công trường, buổi trưa, một số người mang đồ ăn tới để dùng bữa và gọi thêm một cốc vang trắng. Buổi chiều thì vắng khách hơn. Chắc chắn vì vậy mà Omer đi chơi bi-a. Sau đó đến bữa tối thì quán hàng lại đông khách trở lại. Tôi hay tới đấy vào buổi chiều. Tôi thường thấy một nhóm người chơi bài lá trên một chiếc bàn riêng và một hai người ngồi trước quầy hàng. Tới đó mọi người đều thấy khó chịu.
- Omer và vợ là vợ chồng chính thức chứ?
- Không bao giờ tôi đặt câu hỏi ấy ra. Cũng dễ xác minh thôi. Chúng tôi có thể lên cảnh sát quận để xem sổ sách..
- Sau này anh sẽ cho tôi biết chi tiết ấy. Hình như Omer đang đi đâu đấy thì phải?
- A! Bà ta nói với ông ư?
- Phải.
Vào giờ này thì chiếc sà lan của anh em nhà Naud đã đến cảng Arsenal và các cần cẩu đã bắt đầu dỡ hàng.
- Tôi muốn anh cho tôi một bản kê các quán rượu trong vùng này, chú ý ghi rõ chủ quán hoặc người phục vụ vắng mặt từ ngày chủ nhât.
- Ông cho rằng...?
- Đây là ý kiến của Moers. Có thể là đúng. Tôi sẽ đi một vòng quanh đây.
- Đến quán của nhà Calas ư?
- Đúng. Lapointe, anh đi với tôi.
- Ngày mai Victor có cần tới đây nữa không?
- Tôi cho rằng như vậy sẽ là ném tiền đóng thuế của dân qua cửa sổ. Nếu hôm nay không tìm thấy thì sẽ không bao giờ tìm thấy nữa.
- Victor cũng có ý kiến như vậy.
- Anh ta sẽ bãi công nếu cứ bắt anh ta tìm kiếm mãi. Bảo anh ta viết cho tôi bản báo cáo.
Khi đi qua phố Terrage, Maigret thấy một đoàn xe tải đỗ bên đường, bên sườn có hàng chữ "Roulers và Langlois"
- Tôi tự hỏi có bao nhiêu chiếc tất cả?
- Gì kia - Lapointe hỏi lại.
- Xe tải.
- Mỗi khi về nông thôn, tôi thấy chúng đi nghênh ngang trên đường, rất khó vượt.
Những ống khói trên nóc nhà không giống như buổi sáng nữa. Chúng không còn là màu xẫm mà là màu xanh nhạt dưới ánh nắng của mặt trời.
- Sếp cho rằng người phụ nữ ấy có gan làm việc này ư?
Khi nghĩ đến người đàn bà tóc hung, gày gò mang rượu cho mình sáng hôm nay, ông nói:
- Có thể. Tôi không biết gì cả.
Có thể Lapointe thấy đây là một việc dễ dàng ư? Khi cuộc điều tra một vụ án phức tạp đi đến chỗ bế tắc thì mọi người của sở Cảnh sát, kể cả Maigret, đều trở nên thiếu kiên nhẫn và hay càu nhàu, gắt gỏng. Ngược lại, đối với những vụ án lúc đầu coi là có nhiều khó khăn bỗng nhiên trở thành đơn giản thì các thanh tra, kể cả cảnh sát trưởng, đều cảm thấy thất vọng.
Đã đến gần quán rượu. Vì quán thấp và tối tăm nên người ta đã mắc một bóng đèn ở quầy hàng.
Cũng vẫn người phụ nữ sáng nay, vẫn ăn mặc như vậy, đang phục vụ hai khách hàng có vẻ là dân thợ và bà ta không hề giật mình khi thấy Maigret và người cùng đi bước vào.
Bà ta hỏi mà không chú ý đến cái cười của khách hàng:
- Các ông dùng gì?
- Vang trắng.
Có ba hoặc bốn chai vang không nút đặt trên giá phía sau quầy hàng, cần phải xuống hầm để rót từ thùng vào chai khi hết. Đằng sau quầy hàng có một nắp hầm.
Maigret và Lapointe không ngồi. Qua câu chuyện của hai người đứng bên, họ đoán đây không phải là dân thợ mà là những y tá đến bệnh viện Saint-Louis để làm ca đêm. Một trong hai người hỏi nữ chủ quán với giọng thân mật:
- Bao giờ thì ông Omer về?
- Ông biết rõ là ông ấy không bao giờ nói với tôi.
Bà ta nói mà không bối rối cũng như sáng hôm nay bà ta trả lời Maigret. Con mèo vẫn nằm trên lò sưởi như từ sáng đến giờ nó chưa hề nhúc nhích.
- Có lẽ người ta vẫn còn tìm cái đầu.
Người vừa nói lại lên tiếng. Khi dứt lời anh ta nhìn Maigret và người cùng đi. Có thể là anh ta đã biết rõ công việc ở ngoài kênh? Cũng có thể anh ta biết những người đứng bên là cảnh sát chăng?
- Chưa tìm thấy cái đó, đúng không?
Anh ta trực tiếp hỏi Maigret.
- Chưa.
- Ông hy vọng là sẽ tìm thấy ư?
Người bạn anh ta nhìn Maigret một lúc rồi hỏi:
- Ông là thanh tra cảnh sát Maigret ư?
- Đúng.
- Tôi thường thấy ảnh ông trên báo.
Người phụ nữ vẫn không mảy may chú ý đến câu chuyện vừa nghe được.
- Thật là khủng khiếp khi thấy một người bị chặt ra từng khúc! Chúng ta đi chứ, Julien? Tôi phải trả bà bao nhiêu, bà Calas?
Họ đi ra sau khi chào Maigret và Lapointe.
- Bà có nhiều khách hàng là người của bệnh viện không?
Bà ta buộc phải trả lời:
- Một vài người.
- Chồng bà đi từ chiều chủ nhật ư?
Bà ta nhìn người hỏi chuyện bằng cặp mắt vô cảm và nói cùng một giọng:
- Tại sao lại nói là chủ nhật?
- Tôi không biết. Tôi nghe nói như vậy...
- Ông ấy đi chiều hôm thứ sáu.
- Có nhiều khách trong quán khi ông ta đi không?
Bà ta như ra vẻ nhớ lại. Trông bà ta giống người mộng du.
- Buổi chiều thì quán vắng khách.
- Bà không nhớ lúc ấy có những ai ư?
- Có thể có ai đó. Tôi không nhớ. Tôi không chú ý.
- Ông ta có mang theo hành lý không?
- Tất nhiên là có.
- Nhiều không?
- Trong một chiếc va li.
- Ông ta ăn mặc như thế nào?
- Một bộ com-lê màu xám. Tôi cho là như vậy. Đúng thế.
- Bà có biết hiện giờ ông ta ở đâu không?
- Không.
- Bà không biết ông ta đi đâu ư?
- Tôi biết là ông ấy đáp xe lửa để đi Poitiers, từ đấy ông ấy sẽ đi Saint-Aubain và các làng lân cận.
- Ông ta sẽ nghỉ trong một quán trọ ư?
- Thường thì như vậy.
- Ông ta không vào nhà một người họ hàng hoặc một người bạn nào ư? Ai là người cung cấp rượu vang cho ông ta?
- Tôi không hỏi.
- Khi gặp một vấn đề khẩn cấp thì bà báo tin cho ông ta bằng cách nào?
Câu hỏi ấy không làm bà ta ngạc nhiên và sợ hãi.
- Bao giờ xong việc thì ông ấy cũng về.
Hai cốc vang đã cạn, người nữ chủ quán lại rót thêm.