← Quay lại trang sách

- VIII -

Bà Canonge không cường điệu chút nào. Chồng bà, khoảng sáu chục tuổi, quả là người đẹp lão. Đứng ở sân ga, gần rào chắn, từ xa Maigret đã nhận ngay ra ông ta đi trong đám hành khách, một tay xách cặp, tay kia xách va li bằng da lợn. Người ta thấy ông có vẻ quen thuộc với chuyến tàu và nhà ga này.

Cao lớn và mạnh khoẻ, ông là người duy nhất ăn vận sang trọng ở đây. Chiếc áo khoác của ông không phải là màu nâu bất kỳ mà là màu nâu dịu, hiếm thấy và cắt may cũng rất khéo. Maigret chưa bao giờ nhìn thấy bộ quần áo như vậy.

Da rám nắng, tóc màu bạch kim và ngay trong ánh sáng nhà ga, ông cũng là người nổi bật. Chắc chắn ông ta cũng xức nước hoa nữa.

Khi cách rào chắn chừng năm chục mét ông thấy Maigret trong đám người đứng đợi. Ông nhíu trán lại để nhớ lại người ông thường thấy trên mặt báo. Tới gần hơn, ông giơ tay ra.

Maigret cất tiếng trước tiên:

- Chưởng khế Canonge đấy ư?

- Vâng. Ông là cảnh sát trưởng Maigret?

Ông ta đặt va li xuống. Hai người bắt tay nhau.

- Do ngẫu nhiên mà ông tới đây ư?

- Không. Tôi gọi điện thoại về nhà ông. Vợ ông nói ông đã đáp xe lửa đi Paris và ông sẽ nghỉ lại ở khách sạn Orsay. Để chắc chắn hơn, tôi tới đây để đón ông.

Còn một chi tiết mà ông chưởng khế chưa biết.

- Ông đã đọc mẩu tin nhắn ư?

- Không.

- Thật lạ lùng! Tôi cho rằng trước hết chúng ta phải ra khỏi đây. Ông có thể cùng tôi đến khách sạn Orsay không?

Hai người lên một chiếc tắc-xi.

- Tôi lên Paris để gặp ông và dự định gọi điện thoại cho ông vào sáng sớm mai.

Maigret đã không nhầm, người ông ta toả ra mùi nước hoa Cologne và mùi thuốc thơm.

- Ông đã bắt giam bà Calas ư?

- Ông chánh án Comeliau đã ký lệnh bắt.

- Một câu chuyện kỳ lạ...

Một vài phút sau họ đến khách sạn Orsay, người phục vụ đón ông chưởng khế như một khách hàng quen thuộc.

- Tôi cho rằng các quán ăn giờ này đã đóng cửa.

- Đúng thế, thưa ông Canonge.

Ông này giải thích điều mà Maigret đã biết rõ:

- Trước chiến tranh, khi mọi chuyến tàu đều phải dừng tại đây, khách sạn trước cửa nhà ga mở cửa suốt đêm. Thật là tiện. Tôi cho rằng ông cũng đồng ý chúng ta nói chuyện với nhau trong một phòng của khách sạn chứ? Trước đó chúng ta hãy đi làm một cốc, được không?

Họ đi trên phố Saint- Germain để tìm một quán rượu còn mở cửa.

- Ông uống gì, thưa ông cảnh sát trưởng?

- Một vại bia.

- Hầu bàn, anh có xì gà cho tôi không?

Cả hai đều bỏ mũ, cởi áo và ngồi xuống ghế. Trong khi Maigret hút thuốc tẩu thì Canonge cắt đầu điếu xì gà bằng một con dao nhíp cán bằng bạc.

- Tôi cho rằng ông chưa tới Saint-Audre bao giờ, đúng không?

- Chưa bao giờ.

- Nó nằm bên đường quốc lộ và không có gì là hấp dẫn khách du lịch. Nếu tôi hiểu rõ thì cái xác không đầu vớt được ở kênh đào Saint-Martin đó là tên khốn kiếp Omer Calas, đúng không?

- Dấu vân tay của xác chết phù hợp dấu vân tay trong quán rượu.

- Sau khi đọc báo tôi đã đoán ra như vậy và đã muốn gọi điện thoại cho ông.

- Ông cũng biết Omer Calas ư?

- Tôi biết gã từ trước kia. Tôi cũng biết rõ người phụ nữ sau này là vợ gã. Xin chúc sức khoẻ cua ông! Tôi không biết kể lại từ đâu câu chuyện có nhiều điều phức tạp này. Bà Aline Calas có nói với ông điều gì về tôi không?

- Không.

- Ông cho rằng bà ta đã dính líu vào việc giết người ư?

- Tôi không biết. Ông chánh án thì tin là như vậy.

- Bà ta trả lời để bảo vệ mình ra sao?

- Không trả lời gì cả.

- Bà ta thú nhận ư?

- Cũng không. Bà ấy chỉ yên lặng,

- Đây là một nhân vật khác thường mà tôi đã gặp trong đời nghề nghiệp của mình, ở nông thôn tôi cũng đã gặp những trường hợp tương tự.

Ông chưởng khế quen nói để người ta nghe và cũng quen nghe người ta nói trong khi đó điếu xì gà trên những ngón tay được chăm sóc cẩn thận, một ngón đeo chiếc nhẫn mặt ngọc có giá trị lớn.

- Tốt hơn cả là tôi xin bắt đầu từ chỗ bắt đầu. Ông chưa nghe nói đến Honore de Boissancourt ư?

Viên cảnh sát trưởng ra hiệu là chưa.

- Trước đây một tháng, ông ta là người giàu nhất vùng chúng tôi. Ông ta có mười lăm trang trại gồm hai nghìn héc-ta, một nghìn héc-ta rừng. Nếu đã sống ở nông thôn thì ông rõ những cái đó có nghĩa là như thế nào.

- Tôi sinh ra ở nông thôn.

Không chỉ sinh ra ở nông thôn mà cha ông còn là một người quản lý cho một ông chủ có tài sản tương đương như thế.

- Bây giờ ông cần hiểu Boissancourt là người thế nào. Để nói rõ, tôi xin bắt đầu từ ông nội của ông ta mà cha tôi là chưởng khế. Trước hết người ấy không phải là Boissancourt mà là Dupre, Christophe Dupre. Con trai của một người làm trong lâu đài, ông ta làm nghề mua bán gia súc khá vất vả và đã trở nên giàu có. Tôi cho rằng ông biết loại người ấy.

Nghe đến đây, Maigret như sống lại thời thơ ấu của mình ở nông thôn có một người như Christophe Dupre mà con trai ông ta sau này là thượng nghị sĩ.

- Một đôi lần Dupre đầu cơ lúa mì và thu được rất nhiều lãi. Với số tiền ấy ông ta tậu đất đai, trước hết một trang trại, rồi hai, rồi ba... Khi qua đời, lâu đài Boissancourt theo tên gọi trước kia, chuyển lại cho con trai ông là Alain sau đó là Dupre Boissancourt. Khi trúng cử vào nghị viện ông ta bỏ cái tên Dupre đi.

Cái đó cũng gợi cho Maigret nhiều kỷ niệm xưa cũ.

- Đó là những thế hệ cũ. Honore Boissancourt, cháu nội của Christophe Boissancourt, vừa qua đời cách đây một tháng. Ông ta có một người vợ tên là Emilie Espissac, con gái của một dòng họ đã phá sản. Bà này qua đời vì một tai nạn xe ngựa để lại một đứa con gái nhỏ. Tôi biết rõ bà này. Đây là một phụ nữ xinh đẹp, hy sinh tất cả vì gia đình. Người ta nói rằng Boissancourt đã phải bỏ ra một triệu bạc để lấy được bà ta. Là chưởng khế, tôi hiểu rõ người ta đã cường điệu vấn đề, nhưng rõ ràng khi gả con gái gia đình này thu được một số tiền đáng kể.

- Boissancourt cuối cùng là người thế nào?

- Rồi tôi sẽ nói là chưởng khế, tôi đến lâu đài dùng bữa một lần trong một tuần lễ. Ông ta là người buồn bã, u ám. Lịch sử gia đình ông thì ai cũng biết. Cả đời ông có mặc cảm mình bị mọi người khinh miệt và ghét bỏ. Cả ngày ông ta ở lì trong một pháo đài nhỏ của lâu đài, sau này cải tạo thành văn phòng. Ông kiểm tra lại các khoản chi không những đối với tá điền mà cả những người canh giữ lâu đài, những người cung cấp thực phẩm. Ông chữa các con số bằng mực đỏ. Ông thường xuống bếp vào giờ ăn của những người giúp việc xem họ có dùng những món ăn đắt tiền không.

Tôi cho rằng không có gì là xấu khi tôi nói lại chuyện này với riêng ông. Bất cứ ai ở Saint-Andre sẽ cũng nói với ông như vậy thôi.

- Bà Calas là con gái của ông này ư?

- Ông đã đoán ra.

- Thế còn Omer Calas?

- Ông ta là người hầu phòng của lâu đài trong bốn năm. Đây là con trai của người làm công nhật ngu đần và nghiện rượu.

Chúng ta đang nói chuyện hai mươi nhăm năm trước.

Ông Canonge ra hiệu cho người hầu bàn đi qua và nói với Maigret:

- Lần này thì ông phải dùng xì gà với tôi... Hầu bàn, hai xì gà.

Và ông nói tiếp:

- Tôi đã thảo luận về Aline với bác sĩ Petrelle và bác sĩ Camuzet, người thay thế ông Petrelle khi ông này qua đời. Ông có thể tìm hiểu thêm ở bác sĩ Camuzet về phương diện bệnh lý.

Lúc còn nhỏ, bà ta khác hẳn những cô gái khác. Ở bà ta có một cái gì đó làm người khác khó chịu. Bà ta không bao giờ đến trường, không chơi với những đứa trẻ khác vì đã có một bà gia sư. Đã có hàng chục bà gia sư phải bỏ đi vì không thể chịu được tính nết của bà ta.

Người cha có trách nhiệm gì trong việc này không? Hay như bác sĩ Petrelle đã nói vấn đề phức tạp hơn nhiều? Tôi không biết. Những cô gái thường tôn sùng cha mình, nhiều khi quá đáng nữa là khác. Tôi không có kinh nghiệm vì vợ chồng tôi không có con. Sự tôn sùng có thể chuyển thành lòng hận thù được không? Cô gái đã làm người cha thất vọng và năm mười hai tuổi cô ta đã có ý định đốt lâu đài. May mà người ta dập được lửa và từ đó cô gái bị canh chừng cẩn thận. Tiếp đó Omer xuất hiện. Anh ta hơn cô gái năm hoặc sáu tuổi. Nông dân gọi anh ta là chàng trai xinh đẹp, khoẻ mạnh, cứng rắn, có cặp mắt xấc xược khi chủ quay lưng đi.

- Ông đã thấy có chuyện gì xảy ra giữa hai người, đúng không?

Maigret hỏi khi thấy trong quán đã vắng khách, những người hầu bàn đang đợi những vị khách cuối cùng ra về.

- Không phải lúc ấy. Mãi sau tôi và ông Pertrelle mới tranh luận về vấn đề này. Theo bác sĩ Petrelle thì cô gái đã say mê Omer, tuy mới mười ba hoặc mười bốn tuổi. Cái đó cũng thường xảy ra với các cô gái vào tuổi ấy, nhưng họ ít bồng bột hơn.

Có gì khác nhau giữa anh ta và cô gái? Omer Calas có phải là kẻ vô liêm sỉ trong trường hợp ấy không?

Bác sĩ Petrelle thì khẳng định họ đã có quan hệ với nhau từ lâu. Ông ấy cho rằng một phần do nhu cầu của Aline, phần khác là do cô muốn thách thức người cha và làm cho ông này thất vọng.

Có thể là như vậy. Đây không phải là lĩnh vực nghiên cứu của tôi. Nếu đi vào chi tiết chỉ là do tôi muốn làm sáng tỏ phần còn lại.

Khi mười bảy tuổi, một hôm cô ta gặp ông thầy thuốc để ông này khám cho và cuối cùng ông bác sĩ nói cô đã mang thai.

- Thái độ của cô ta lúc ấy ra sao? Maigret hỏi.

- Ông Petrelle đã thuật lại, cô ta đã nhìn ông chằm chằm rồi nghiến răng lại mà nói:

- Càng tốt!

Ông nên biết, trước đó Omer Calas cưới cô gái con ông hàng thịt và cô này đã sinh ra cho anh ta một đứa con vài tuần lễ trước đó. Anh ta tiếp tục làm kẻ hầu phòng trong lâu đài vì không có nghề gì khác và vợ mới cưới của anh ta sống nhờ vào cha mẹ đẻ. Vào một ngày chủ nhật, người ta thấy Omer Calas và Aline Boissancourt biến mất. Qua những người giúp việc người ta biết đã có một cuộc cãi cọ bi thảm giữa người cha và cô con gái vào đêm hôm trước. Theo tôi biết thì từ bấy đến nay, Boissancourt không có ý định tìm con gái và cô này không hề viết cho cha một lá thư. Còn người vợ thứ nhất của Omer Calas thì mắc chứng suy nhược thần kinh trong suốt ba năm liền. Cuối cùng người ta thấy cô treo cổ dưới một cành cây trong vườn.

Những người phục vụ đã thu xếp bàn ghế và một người trong số họ nhìn chiếc đồng hồ trên tay rồi nhìn họ.

- Tôi cho rằng đã đến lúc chúng ta để họ đóng cửa hàng thôi - Maigret gợi ý.

Canonge thanh toán tiền và cả hai ra khỏi quán. Đêm mát mẻ, trời đầy sao và hai người yên lặng đi bên nhau. Chính viên chưởng khế cất tiếng trước.

- Chúng ta tìm một quán hàng còn mở cửa để uống một cốc cuối cùng đêm nay.

Hai người đi trên đại lộ Raspail, vượt qua Montparnasse thì thấy một phòng nhảy đèn mờ, âm nhạc ầm ĩ.

- Vào chứ?

Đáng lẽ ngồi xuống bên một chiếc bàn, họ ngồi ngay nơi đang khiêu vũ, chỗ có hai cô gái đang chăm sóc một ông già say khướt.

- Vẫn xì gà thứ cũ chứ?

Canonge hỏi và móc túi lấy thuốc ra.

Một vài cặp đang nhảy. Hai cô gái ở cuối phòng đến ngồi bên hai ông, nhưng viên cảnh sát trưởng khoát tay ra hiệu nên họ bỏ đi.

- Hãy còn những người trong gia đình nhà y, Calas ở Boissancourt và Saint-André - người chưởng khế nói.

- Tôi biết. Một người buôn gia súc và một chủ cửa hàng thực phẩm.

- Một người là em trai và một người là anh họ của Omer. Omer cũng có một cô em gái lấy chồng làm cảnh sát ở Gien. Khi ông Boissancourt qua đời vì xuất huyết não cách đây một tháng, tôi đã ngồi cùng ba người này và họ đều nói mình không biết Omer đang ở đâu.

- Khoan - Maigret ngắt lời người đối thoại - Ông Boissancourt có tước quyền thừa kế của con gái không?

- Mọi người trong làng đều khẳng định ông ta đã làm như vậy.

- Tôi giả thiết ông biết rõ chuyện này, đúng không?

- Không. Trong những năm cuối đời, ông Boissancourt liên tiếp viết rất nhiều bản di chúc, nhưng không giao cho tôi. Ông ta đã huỷ hết, sau này người ta không tìm thấy một bản nào.

- Kết quả là người con gái được thừa kế tài sản của ông ta ư?

- Vâng. Một cách tự động.

- Ông đã nhắn tin trên báo ư?

- Vâng, theo thủ tục, tôi đã làm như vậy. Tôi không ghi tên Calas vì không biết hai người có kết hôn không. Rất ít người đọc mục nhắn tin. Tôi chờ đợi mà không có kết quả gì.

Ông chưởng khế uống cạn cốc rượu rồi nhìn người phục vụ. Nếu đang ở trong toa ăn uống trên xe lửa thì ông ta phải uống hai ba cốc nữa trước khi đến Paris vì ông còn rất sung sướng, mắt đang long lanh..

- Vẫn thứ rượu cũ chứ, ông cảnh sát trưởng?

Có thể là Maigret cũng đã uống nhiều hơn mình tưởng ư? Ông không từ chối. Ông cảm thấy mình rất khoẻ cả về vật chất lẫn tinh thần. Ông cảm thấy mình có giác quan thứ sáu để đi sâu vào các nhân vật của mình.

Nếu không có ông chưởng khế liệu ông có thể phục hồi lại câu chuyện này không? Nó không xa sự thật là mấy, chứng cứ là cách đây một vài tiếng đồng hồ, ông đã gọi điện về Saint-André.

Nếu chưa đoán ra tất cả thì chuyện về mụ Calas mà ông nghĩ không khác lúc này là mấy.

- Bà ta đã nghiện rượu- Ông lẩm bẩm như đến lượt mình phải nói.

- Tôi biết. Tôi đã gặp bà ấy.

- Lúc nào? Vào tuần lễ trước ư?

Về điểm này nữa, ông cũng đã đi gần đến sự thật. Nhưng ông Canonge không dễ dàng để bị ngắt lời.

- Để tôi nói sự việc theo trật tự của nó, ông cảnh sát trưởng. Không nên quên rằng tôi là chưởng khế, mà chưởng khế thì phải tỉ mỉ.

Cái đó làm cho Maigret bật cười và cô gái ngồi trên chiếc ghế đẩu gần đó lợi dụng cơ hội:

- Em có thể gọi một cốc được không?

- Nếu cô muốn, với điều kiện cô không được ngắt quãng câu chuyện của chúng tôi. Câu chuyện rất quan trọng, cô không thể tưởng tượng được đâu.

Hài lòng, ông Canonge quay sang Maigret.

- Ba tuần lễ nhắn tin nhưng không mang lại kết quả nào trừ những lá thư điên rồ. Và rất ngẫu nhiên tôi biết tin tức của Aline. Cách đây một tuần lễ ở Paris người ta gửi trả tôi khẩu súng săn mang đi sửa. Tôi đang ngồi trong nhà thì một người lái xe tải đi vào.

- Xe tải của Công ty Roulers và Langlois ư?

- Ông biết rồi ư? Đúng thế. Tôi mời khách một cốc rượu vang theo thói quen ở nông thôn. Cửa hàng thực phẩm của nhà Calas ở ngay trước nhà tôi.

Vừa uống rượu, vừa nhìn ra ngoài, người lái xe nói:

- Tôi tự hỏi nhà này có họ hàng gì với nhà Calas ở Valmy không?

- Ở Valmy có người tên là Calas ư?

- Một quán rượu nhỏ mãi đến tuần lễ trước tôi mới đặt chân vào. Người chấm công của Công ty đã dẫn tôi đến.

Maigret đánh cuộc người chấm công đó chính là Dieudonne Pape.

- Ông có hỏi người chấm công ấy có nước da nâu không?

- Không. Tôi chỉ hỏi về họ của người có tên là Calas. Người lái xe vắt óc suy nghĩ. Khi tôi gợi ý là Omer thì anh ta khẳng định là như vậy. Hôm sau tôi đáp xe lửa đi Paris.

- Tàu chiều ư?

- Không. Tàu sáng.

- Mấy giờ thì ông đến Valmy?

- Gần ba giờ chiều. Tôi thấy một phụ nữ đứng sau quầy hàng và tôi nhận ra người ấy ngay. Tôi hỏi là ta có phải là bà Calas không và bà ta trả lời là đúng. Sau đó tôi hỏi họ của bà. Bà ta cho tôi cái cảm giác là bà đang say rượu. Bà ta nghiện rượu phải không?

Maigret gật đầu. Cô gái ngồi trên ghế đẩu đã đến ngồi bên viên chưởng khế và nắm lấy cánh tay ông này.

- Tên thời con gái của bà là Aline Boissancourt, đúng không? - Tôi hỏi bà ta.

Bà ta nhìn tôi mà không chối cãi. Tôi nhớ rõ bà ta ngồi bên lò sưởi cùng con mèo lông màu hung. Tôi hỏi tiếp:

- Bà có biết ông thân sinh ra bà đã qua đời rồi không?

Bà ta lắc đầu rằng không. Trên mặt không chút ngạc nhiên hoặc cảm động nào.

- Tôi là chưởng khế của ông cụ. Ông cụ không để lại di chúc, như vậy lâu đài, đất đai và mọi tài sản khác đều thuộc về bà.

Bà ta hỏi lại:

- Bằng cách nào ông có địa chỉ của tôi?

- Do một người lái xe tải đến gặp tôi một cách ngẫu nhiên.

- Không ai biết nữa chứ?

- Tôi không nghĩ đến điều đó.

Bà ta đứng lên và đi vào trong bếp.

Để uống một ngụm cô-nhắc, đúng thế. Khi quay trở ra bà có vẻ là người đã có một quyết định.

- Tôi không muốn số của cải ấy - Bà ta nói một cách khác thường. Tôi cho rằng mình có quyền từ chối quyền thừa kế, đúng không?

- Người ta có quyền từ chối. Tuy nhiên...

- Tuy nhiên sao?

- Tuy nhiên tôi mong bà suy nghĩ. Không nên vội vàng quyết định.

- Tôi đã suy nghĩ. Tôi từ chối. Và tôi nghĩ rằng tôi có quyền đòi hỏi ông không được để lộ địa chỉ của tôi.

Vừa nói bà ta vừa lo ngại nhìn ra ngoài cửa sợ rằng có người chợt vào, có thể người ấy là chồng bà ta. Tôi giả định như vậy. Và tôi nài nỉ. Đó là bổn phận của tôi. Tôi không thấy còn người thừa kế nào khác nữa.

- Tôi sẽ quay lại- Tôi đề nghị.

- Không. Ông sẽ không quay lại, Bằng bất cứ giá nào Omer cũng không được biết ông tới đây...

Và bà ta nói thêm:

- Nếu vậy thì hết tất cả!

- Bà không nghĩ là bà phải hỏi ý kiến chồng bà ư?

- Nhất định không được cho ông ta biết.

Trước khi ra về tôi để lại tấm danh thiếp, yêu cầu bà ta gọi điện hoặc viết thư cho tôi khi bà ta thay đổi ý kiến trong những tuần lễ tiếp theo. Sau đó, một người khách bước vào. Anh ta có vẻ là khách quen.

- Một người da nâu, mặt rỗ hoa ư?

- Đúng thế.

- Đã có chuyện gì xảy ra sau đó?

- Không có chuyện gì cả. Bà ta nhét tấm danh thiếp vào túi của chiếc tạp dề và tiễn tôi ra cửa.

- Hôm ấy là thứ mấy?

- Thứ năm tuần trước.

- Ông không gặp bà ấy nữa chứ?

- Không. Nhưng đã gặp người chồng.

- Ở Paris ư?

- Trong văn phòng của tôi ở Saint-André.

- Hôm nào?

- Sáng thứ bảy. Ông ta tới Saint-André vào tám giờ chiều thứ sáu. Tôi đang chơi bài ở nhà ông bác sĩ và bà hầu của tôi nói sáng mai mời ông ta tới gặp tôi.

- Ông có nhận ra ông ấy không?

- Có, tuy ông ta có béo hơn. Trọ trong một quán nào đó ở đây nên ông ta biết về cái chết của ông Boissancourt. Có thể người ta báo tin vợ ông ta là người thừa kế duy nhất số của cải ấy. Ông ta đã tỏ ra xấc xược nói mình có quyền nhận của thừa kế thay người vợ. Họ cưới nhau không có giao kèo tức là họ có quyền dùng chung của cải.

- Ông có cho rằng ông ấy đã bàn bạc với vợ trước khi đến gặp ông không?

- Không. Thoạt tiên ông ta cũng không biết vợ đã từ chối giá tài. Ông ta cho rằng vợ đã giấu mình. Tôi không kể chi tiết vì câu chuyện khá dài. Theo tôi thì ông ta đã nhặt được tấm danh thiếp của tôi rơi ở đâu đó. Dần dần ông ta đã rõ tất cả. Ông ta giận dữ bỏ về, nói tôi sẽ nhận được tin tức sau đó.

- Từ bấy đến nay ông có gặp lại Omer Calas lần nào nữa không?

- Không. Câu chuyện xảy ra vào sáng thứ bảy và ông ta đã đi xe buýt ra ga để trở về Paris.

- Theo ông thì bằng chuyến xe nào?

- Bằng chuyến xe lửa đến ga Austerlitz vào lúc ba giờ hơn vài phút gì đó.

Điều đó có nghĩa là Omer Calas về quán rượu khoảng bốn giờ chiều, có thể sớm hơn, nếu ông ta đi tắc-xi.

- Khi đọc báo - Ông Canonge nói tiếp - đăng tin xác người vớt được ở kênh đào Valmy thì tôi quá đỗi ngạc nhiên và định gọi dây nói cho ông nhưng lại thôi vì sợ ông cười giễu. Chỉ đến khi nghe nói đến Omer Calas trên rađiô tôi mới quyết định đi gặp ông.

- Em có thể uống nữa không?- Cô gái miệng hỏi, tay chỉ vào chiếc cốc cạn khô.

- Được chứ... Ông thấy chuyện này như thế nào, cảnh sát trưởng?

Câu đó đủ để cô gái rời khỏi ông chưởng khế.

- Tôi không ngạc nhiên lắm- Maigret nói, đầu nặng như búa bổ.

- Ông phải thú nhận là mình chưa từng chứng kiến một vụ nào như thế này! Chỉ ở nông thôn mới có những hiện tượng kỳ lạ ấy...

Maigret không nghe ông chưởng khế nói nữa, ông nghĩ đến mụ Aline Calas, một nhân vật hoàn chỉnh. Ông cũng có thể tưởng tượng khi mụ còn là thiếu nữ.

Ông không lạ gì con người ấy, ông có thể giải thích mọi chuyện về mụ cho mọi người biết, nhất là cho chánh án Comeliau.

Chắc chắn ông Comeliau sẽ quát to:

- Ít nhất mụ ta là người đã giết chồng với sự tòng phạm của tình nhân.

Omer Calas đã chết không phải vì tự sát. Một kẻ nào đó đã giết và chặt ông ta ra từng khúc.

Maigret tưởng như đang nghe thấy giọng the thé của Comeliau.

- Không đủ can đảm ư? Ông không thừa nhận đây là một tội ác vì tình ư? Không, ông Maigret, lần này thì ông...

Canonge giơ chiếc cốc đầy rượu lên:

- Chúc sức khoẻ của ông!

- Chúc sức khoẻ của ông!

- Ông đang nghĩ gì vậy?

- Về Aline Calas.

- Ông có cho rằng khi đi với Omer Calas, cô ta chỉ nhằm làm cho người cha phát điên lên không?

Ông chưởng khế khó mà biết được Maigret đang nghĩ gì.

- Có thể bác sĩ Petrelle trình bày sẽ rõ ràng hơn với ông. Trước hết là ý định đốt nhà. Sau đó là quan hệ tình dục với Omer Calas. Cuối cùng là sự ra đi với người này. Đây là một sự thách đố hay một sự chán nản?

Thật là vô ích khi đi sâu đến như vậy. Ông Comeliau trả lời:

- Cả cuộc đời mụ là một sự xấu xa.

Khi tới Valmy, mụ bắt đầu uống rượu. Cái đó phù hợp với những chuyện còn lại. Mụ không muốn rời khỏi đây, mụ đã gắn chặt mình với bầu không khí của quán rượu.

Maigret cũng hiểu cả Omer Calas nữa. Hắn đã thực hiện giấc mộng như bao nhiêu thanh niên nông thôn: làm đủ mọi nghề, hầu phòng, lái xe để trở thành chủ sở hữu một quán rượu ở Paris.

Omer sống một cuộc đời biếng nhác, lê lết từ quầy hàng xuống hầm rượu, một năm hai lượt về Poitou mua rượu và chiều chiều tới quán rượu ở ga phía đông để chơi bi-a.

Không có thời gian để tìm hiểu về đời tư của hắn. Maigret tự nhủ sau này sẽ điều tra thêm, mục đích chỉ là để thoả mãn ý thích cá nhân của ông. Ông tin rằng, ngoài việc chơi bi-a, có thể hắn còn những mối tình lãng mạn, chớp nhoáng với những cô hầu, những phụ nữ làm công trong khu phố nữa.

Hắn có hy vọng gì về tài sản của nhà Boissancourt không? Cái đó chắc chắn là không vì, như mọi người, hắn cho rằng ông già đã tước quyền thừa kế của con gái.

Chỉ khi nhìn thấy tấm danh thiếp của ông chưởng khế thì tham vọng của hắn mới nổi lên thôi.

- Trong đời tôi, tôi đã thấy rất nhiều loại người tìm cách nhận thừa kế nhưng việc từ chối thừa kế của bà Calas làm tôi như bị rơi từ trên trời xuống.

Với viên cảnh sát trưởng thì khác hẳn. Tiền sẽ mang lại cho mụ ta những gì? Mụ sẽ cùng Omer về sống ở lâu đài Boissancourt ư? Hai người sẽ ở Paris hoặc ở Côte d'Azur để sống một cuộc đời trưởng giả ư?

Không. Mụ thích ở trong cái xó xỉnh này của mình như một con vật không muốn rời cái hang ổ của mình.

Mụ kéo dài những ngày đơn điệu với những ngụm cô-nhắc, với những cuộc tình vụng trộm với Dieudonne Pape trong bếp vào những buổi chiều.

Đối với hắn, cuộc sống này cũng là một thói quen. Hơn thế, hắn biết mụ vợ không hề xấu hổ trước mặt chồng nên họ có thể yên lặng ngồi bên nhau trước lò sưởi.

- Ông có cho rằng bà ta giết chồng không?

- Tôi không nghĩ như vậy.

- Việc này là do tình nhân của bà ta tiến hành ư?

- Có thể.

Các nhạc công xếp dụng cụ, quán hàng này cũng sắp đóng cửa. Họ ra ngoài phố và đi trên đường Saint-Germain-des-Pres.

- Ông ở phố nào?

- Richard-Lenoir.

- Tại sao nhân tình của bà ta lại giết Omer? Hắn muốn hưởng cái gia tài ấy ư?

Cả hai người đều cảm thấy thoải mái khi đi trên hè phố Paris vào cái giờ này.

- Tôi không nghĩ như vậy.

Ngày mai phải nói chuyện với Comeliau bằng cái giọng khác, không thể dùng cái giọng tình cảm này được.

- Vậy tại sao hắn lại giết người?

- Ông cho rằng việc làm đầu tiên của Omer khi từ Saint-Andre trở về là gì?

- Tôi không biết. Tôi cho rằng hắn đã giận dữ và ra lệnh cho vợ phải nhận thừa kế gia tài.

Một hình ảnh hiện lên trí nhớ của Maigret: một lọ mực, vài tờ giấy trắng kẹp trong tờ giấy thấm đặt trên bàn trong phòng ngủ trên tầng lầu.

- Cái đó phù hợp với tính cách của hắn đúng không?

- Hoàn toàn phù hợp.

- Giả thiết rằng Omer bắt vợ phải ký vào tờ giấy nhưng mụ ta không chịu thì sao?

- Thì hắn sẽ cho vợ một cái bạt tai. Tôi biết rõ những người ở nông thôn.

- Hắn thường xuyên đánh vợ.

- Tôi bắt đầu hiểu ông định dẫn tôi đến đâu.

- Hắn không có gì là thay đổi. Vào chiều thứ bảy, lúc bốn giờ, hắn điệu vợ lên phòng ngủ, ra lệnh, đe doạ và đánh vợ.

- Và tình nhân của bà ta chợt đến, đúng không?

- Đây là lời giải thích có thể chấp nhận được. Dieudonne Pape hiểu rõ ngôi nhà. Nghe thấy tiếng quát tháo trên lầu, đi qua bếp, hắn lên trên đó để giải cứu cho Aline.

- Và hắn đã giết người chồng!

Ông chưởng khế kết luận một cách hài hước.

- Hắn đã giết người, dù vô tình hay cố ý hắn đã giáng một cú vào đầu kẻ tình địch tuy chưa biết đấy là vật gì.

- Sau đó hắn chặt xác chết thành từng khúc.

Cái đó làm ông Canonge bật cười. Tính ông vốn vậy.

- Thật là tức cười- Ông chưởng khế nói. Tức cười cái ý định chặt Omer ra từng khúc. Nếu ông đã nhìn thấy hắn ta.

- Ông đi theo tôi đến chỗ rẽ chứ?

Cả hai đều đi ngược lại một lần nữa.

- Một con người kỳ cục?

- Ai kia? Omer ư?

- Không. Đấy là Pape.

- Tên hắn chỉ là Pape gọn lỏn thôi ư?

- Không. Hắn là Dieudonne Pape.

- Thật là tức cười! (Tiếng Pháp thì Pape có nghĩa là giáo hoàng-ND)

- Tôi đã gặp hắn: Hắn là con người dễ chịu.

- Chính vì vậy mà hắn đã xé xác Omer thành từng mảnh ư?

Đúng thế, phải là một người kiên nhẫn, tỉ mỉ lắm mới xoá được các dấu vết của tội ác. Moers cùng những người của anh với bao nhiêu máy móc, dụng cụ xét nghiệm cũng không tìm được vết tích giết người nào trong quán rượu ở Valmy.

Aline Calas chắc chắn chỉ giúp hắn trong việc lau chùi, tiêu huỷ quần áo vấy máu mà thôi.

Dieudonne Pape đã phạm một sai lầm khó tránh khỏi: hắn không nghĩ đến việc Maigret chú ý đến chuyện trong nhà không có quần áo bẩn và đã đi hỏi hiệu thợ giặt.

Cặp Dieudonne Pape và Aline Calas hy vọng gì? Nhiều tuần lễ, nhiều tháng qua đi, thân thể của nạn nhân dưới kênh đào thối rữa không thể truy tìm căn cước của người bị giết hại nữa ư? Cái đó có thể xảy ra nếu chân vịt của sà lan của anh em nhà Naud vận chuyển hàng tấn đá xây dựng đã không làm xục bùn dòng kênh lên và vướng phải một cánh tay người.

Cái đầu bị ném xuống sông Seine hay trong một cống ngầm? Maigret có thể biết rõ sau đây một vài ngày nữa. Điều này gây ra ở ông một sự tò mò có tính chất kỹ thuật. Đây là một tấn thảm kịch giữa ba nhân vật mà ông tin chắc mình không thể nhầm lẫn được.

Aline và Pape đã hy vọng có một cuộc sống mới khác hẳn với cuộc sống hiện tại.

Thời gian tới, như trong quá khứ, Pape sẽ thường xuyên tới quán rượu vào lúc một hai giờ chiều và dần dần các cuộc viếng thăm đó kéo dài hơn đủ để khách hàng quên hẳn người chồng cũ và hắn sẽ ở lại hẳn trong nhà.

Lúc đó Aline còn giữ quan hệ với Antoine và những tình nhân khác nữa không? Có thể nhưng Maigret không muốn đi sâu hơn.

- Lần này thì tôi chào tạm biệt ông.

- Sáng mai tôi gọi điện thoại đến khách sạn cho ông, được không? Tôi cần gặp ông để làm một số thủ tục.

- Ông không cần gọi điện cho tôi. Tôi sẽ có mặt ở văn phòng của ông lúc chín giờ.

***

Chín giờ sáng hôm sau, ông Canonge không tới văn phòng của cảnh sát trưởng và Maigret, cũng không gọi dây nói cho ông chưởng khế. Ông Maigret có cảm giác như mình đã phạm tội khi bà vợ đặt tay lên vai ông sau khi đặt tách cà phê lên bàn ngủ.

Bà có nụ cười khác thường, thương cảm hơn và có phần mủi lòng nữa.

- Ông cảm thấy trong người thế nào?

Ông thấy nhức đầu khi thức giấc do đêm qua ông đã uống quá nhiều. Điều này ít khi xảy ra và cải làm ông bực mình nhất là ông không có chủ đích như vậy. Rượu ngấm vào cơ thể ông tí một, từ cốc này sang cốc khác.

- Ông có nhớ những chuyện về Aline Calas mà ông đã nói với tôi đêm qua không?

Ông không muốn nhớ lại vì cảm thấy mình ngày càng mềm yếu.

- Trông ông có vẻ như người si tình ấy. Nếu tôi ghen...

Thấy chồng đỏ mặt bà vội làm ông yên lòng.

- Tôi nói đùa đấy thôi. Ông sẽ thuật lại chuyện này cho ông Comeliau chứ?

Ông cũng sẽ nói lại chuyện này với Comeliau, sau đó để mặc ông ta giải quyết tiếp công việc. Có điều là cách nói của ông sẽ khác hơn!

***

- Không có gì mới chứ, Lapointe?

- Không, thưa sếp.

- Anh đăng một mẩu nhắn tin lên các báo yêu cầu người nhận chiếc va-li ở nhà ga phía đông hôm chủ nhật vừa rồi đến trình diện Sở Cảnh sát.

- Không phải là Antoine ư, thưa sếp.

- Tôi tin chắc là như vậy. Chắc chắn Pape không giao việc này cho người quen biết.

- Người nhân viên đã xác định rõ rằng...

- Anh ta nói một người vào trạc tuổi Antoine, vận một chiếc áo khoác ngắn bằng da. Có rất nhiều người như vậy trong khu phố có những đặc điểm ấy.

- Sếp đã có những chứng cứ chống lại Pape chứ?

- Tự hắn sẽ thú nhận.

- Sếp trực tiếp thẩm vấn hắn chứ?

- Tôi cho rằng ông Comeliau đang tiến hành điều tra sẽ làm việc này

Cái đó trở nên dễ dàng. Không phải đặt ra các câu hỏi nữa, ông có thời gian đi câu cá như người nhà của ông thường nói. Maigret tự hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu ông trực tiếp thẩm vấn Dieudonne Pape và Aline Calas? Họ sẽ chối cãi đến cùng, ông không thể làm cho họ câm miệng được nữa.

Ông ngồi trong văn phòng Comeliau gần một tiếng đồng hồ và cuối cùng thì ông gọi điện thoại cho Canonge. Ông này giật mình vì tiếng chuông reo.

- Ai vậy?

Canonge hỏi bằng một giọng kỳ cục khiến Maigret bật cười.

- Cảnh sát trưởng Maigret đây!

- Mấy giờ rồi?

- Mười rưỡi. Chánh án Comeliau, người tiến hành vụ này, muốn gặp ông, càng sớm càng tốt, trong văn phòng của ông ấy.

- Nhờ ông nói giúp tôi sẽ tới ngay lập tức. Tôi có phải mang giấy tờ của ông Boissancourt đi theo không?

- Nếu ông thấy cần.

- Tôi không làm ông ngủ muộn đấy chứ?

Ông chưởng khế còn ngủ muộn hơn. Có trời mới biết ông ta còn đi những đâu nữa sau khi tạm biệt Maigret vì ông cảnh sát trưởng nghe thấy tiếng một phụ nữ vừa nói lạc vào ống nghe: "Mấy giờ rồi?"

Maigret trở về phòng của mình. Lapointe hỏi ông:

- Ông chánh án sẽ thẩm vấn họ chứ?

- Đúng thế.

- Bắt đầu từ mụ ta ư?

-Tôi khuyên ông ấy nên bắt đầu từ Dieudonne Pape.

- Sếp đi đấy ư?

- Tôi có chút việc phải đến Bệnh viện Thượng đế.

Đây chỉ là một chi tiết. Ông phải đợi xong ca mổ để gặp Lucette Calas, con gái của nhà Calas.

- Qua báo chí cô đã biết nguyên nhân cái chết của cha mình và việc bị bắt giữ của mẹ cô rồi, phải không?

- Cái sẽ đến đã đến.

- Lần cuối cùng cô đến gặp họ để xin tiền phải không?

- Không phải.

- Vậy thì để làm gì?

- Để báo tin cho họ biết tôi sẽ làm lễ thành hôn với giáo sư Lavaud khi ông ấy ly hôn với vợ cũ xong. Có thể ông ấy rất ngạc nhiên khi tôi cho ông biết cha mẹ tôi là ai.

- Cô có biết ông Boissancourt đã qua đời rồi không?

- Là ai vậy?

Cô ta hỏi với vẻ thành thật.

- Là ông ngoại cô.

Ông nói với vẻ thản nhiên làm như câu chuyên không có gì là quan trọng cả.

- Nếu không bị kết tội thì mẹ cô được thừa kế một lâu đài, mười tám trang trại và rất nhiều triệu đồng, tôi không biết là bao nhiêu.

- Ông tin chắc là như vậy chứ?

- Cô có thể gặp người chưởng khế của ông ngoại cô, ông Canonge, đang trọ ở Khách sạn Orsay, người trực tiếp giải quyết việc này.

- Ông ấy ở đấy cả ngày hôm nay chứ?

- Tôi cho là như vậy.

Cô gái không hỏi Maigret mẹ cô ta sẽ ra sao và ông cảnh sát trưởng nhún vai bỏ đi.

Hôm ấy Maigret không dùng bữa vì ông không đói. Với hai vại bia ông đã có thể ổn định dạ dày của mình. Ông ngồi suốt buổi chiều trong văn phòng. Trước mặt ông là hai chiếc chìa khoá, một của quán rượu ở Valmy và một là căn hộ của Pape. Ông lấy làm hài lòng khi tránh được công việc hành chính đáng chán hơn thường ngày.

Khi chuông điện thoại đổ dồn, ông nhấc nhanh ống nghe lên hơn ngày thường nhưng mãi tới lúc năm giờ hơn một vài phút ông mới nghe thấy tiếng ông Comeliau ở đầu dây.

- Ông Maigret đấy ư?

- Chính tôi.

Ông chánh án không giấu nổi vẻ hài lòng về sự thành công của mình.

- Tôi đã có lý do để bắt giam họ rồi.

- Cả ba ư?

- Không. Tôi đã thả anh chàng Antoine.

- Hai người kia đã thú nhận ư?

- Phải.

- Tất cả ư?

- Tất cả những gì mà chúng tôi giả định. Tôi đã có ý kiến đúng là bắt đầu từ gã đàn ông và khi tôi đã vạch mặt hắn xong thì hắn không chối cãi.

- Còn người đàn bà thì sao?

- Pape đã nhắc lại những lời thú nhận của mình trước mặt mụ ta khiến mụ cũng không thể chối cãi được.

- Bà ta có nói thêm điều gì không?

- Khi ra khỏi văn phòng, mụ chỉ hỏi tôi rằng ông có chăm sóc con mèo của mụ không?

- Ông trả lời thế nào?

- Rằng ông có nhiều việc khác phải làm.

Từ đó, Maigret trở nên quí trọng ông chánh án Comeliau.

HẾT