- VII -
Maigret đang ăn tráng miệng thì thấy bà vợ nhìn ông và mỉm cười. Ông lầu bầu hỏi:
- Tôi có vết nhọ trên mũi chăng?
- Không.
- Vậy thì tại sao bà cười tôi?
- Tôi không cười mà chỉ mỉm cười thôi.
- Với vẻ chế nhạo. Tôi trông buồn cười lắm ư?
- Ông trông không có vẻ buồn cười đâu, Jules.
Bà thường gọi ông như vậy. Cái đó xảy ra khi bà tỏ ý thương yêu chồng.
- Tôi làm sao?
- Từ lúc ngồi vào bàn, tôi thấy ông không nói một lời nào.
- Không, tôi không để ý tới việc này.
- Tại sao ông không nói mình đã ăn gì?
- Thịt cừu.
- Trước đó?
- Xúp.
- Xúp gì?
- Tôi không nhớ. Xúp có rau.
- Người phụ nữ ấy làm ông suy nghĩ đến như vậy ư?
Hầu hết thời gian, và cả lần này, bà Maigret đọc báo nên biết rõ công việc của ông làm.
- Ông cho rằng bà ta đã giết chồng ư?
Ông nhún vai, thái độ của người chưa khẳng định vấn đề.
- Tôi không biết.
- Hoặc Dieudonne Pape đã làm việc này còn bà ta chỉ là tòng phạm ư?
Ông muốn trả lời cái đó chẳng có gì là quan trọng. Dưới con mắt của ông thì đây không phải là vấn đề. Cái mà ông quan tâm là hiểu rõ sự thật. Chưa hiểu hết, nhưng ông tin chắc là mình đã hiểu rõ các nhân vật.
Nếu tạm thời bỏ dở việc điều tra để về nhà dùng bữa đó chỉ là để thay đổi sự suy nghĩ, để nhìn vấn đề dưới những góc độ khác về đoạn mào đầu của tấn bi kịch ở kênh đào Valmy.
Vừa ăn ông vừa nghĩ đến mụ Calas, đến gã Dieudonne Pape và thêm vào đó là anh chàng Antoine Christin nên không chuyện trò gì với vợ.
Ít khi ông cảm thấy giải pháp của vấn đề lại xa vời đến như vậy, chính xác hơn vấn đề có ít khía cạnh kỹ thuật đặt ra kiểu này.
Loại tội ác này không nhiều lắm. Trên đại thể người ta có thể xếp chúng thành bốn loại.
Giải quyết những tội ác chuyên nghiệp chỉ là những vấn đề thủ tục. Một đứa trẻ trong băng nhóm những kẻ vô lại trên đảo Corse tới một vũ trường trên phố Douai, một thành viên trong nhóm những kẻ xấu ở Marseille, đối với Sở Cảnh sát chỉ là vấn đề toán học, giải quyết theo những thủ tục có sẵn.
Một hay hai đứa lang thang tấn công một bà bán thuốc lá hoặc một thủ quĩ ngân hàng đòi hỏi phải tiến hành những cuộc săn đuổi, nhưng cũng đã có những nguyên tắc nhất định.
Trong những tội ác vì tình, người ta biết ngay nơi cần phải đến.
Trong những tội ác vì tiền như vấn đề thừa kế, vấn đề bảo hiểm nhân thọ hoặc một kế hoạch phức tạp để chiếm đoạt tiền của nạn nhân, người ta sẽ đến một địa bàn chắc chắn sau khi tìm được động cơ.
Đây là mảnh đất hoạt động của chánh án Comeliau vì ông ta cho rằng những người thuộc tầng lớp khác với tầng lớp ông, như dân chúng ở cảng Valmy chẳng hạn, chỉ có thể có những cuộc đời riêng tư phức tạp.
- Dieudonne Pape là tình nhân của mụ Aline Calas thì họ có thể loại bỏ người chồng để chiếm đoạt lấy của cải.
- Họ là nhân tình của nhau từ mười năm nay rồi - Maigret cãi lại - Tại sao họ phải chờ đến lúc này?
Ông chánh án gạt bỏ ý kiến ấy bằng một cử chỉ. Có thể Omer Calas vừa có được một khoản tiền quan trọng, hoặc cặp tình nhân ấy phải đợi một hoàn cảnh thích hợp. Hoặc vợ chồng nhà Calas cãi nhau, mụ Calas không thể chịu đựng được nữa. Hoặc...
- Trong nhà của họ không có gì có giá trị lớn cả. Omer Calas lại không có tiền.
- Nhưng lại có quán rượu. Dieudonne làm việc ở Công ty vận tải Roulers và Langlois nay hắn muốn sống những ngày còn lại trong một quán rượu thì sao?
Đó là ý kiến duy nhất làm Maigret lúng túng.
- Thế còn Antoine Christin?
Lúc này thì chánh án Comeliau có hai thủ phạm có thể thay vì một. Antoine cũng là tình nhân của mụ Calas, hắn cần tiền hơn so với Dieudonne.
- Cả hai đều muốn loại trừ Omer Calas, chúng ta phải tìm xem kẻ nào là tòng phạm.
Đó là câu chuyện từ cảng Valmy chuyển tới văn phòng ông chánh án. Và trong khi chờ đợi câu chuyện được phanh phui, cả ba đều bị bắt giam.
Maigret trở nên cau có, không hài lòng với bản thân đã không chống lại Comeliau vì lười biếng, vì sợ có những chuyện phiền toái.
Từ lúc bước chân vào ngành cảnh sát, học tập những người đi trước, sau đó bằng kinh nghiệm bản thân, ông thấy không nên gặng hỏi người bị tình nghi khi chưa có ý kiến rõ ràng về vụ việc. Một cuộc thẩm vấn không phải để tung ra những giả thiết, để quy cho một người nào đó là thủ phạm, làm cho rối rắm tinh thần, cuối cùng buộc phải thú nhận.
Những kẻ bị tố cáo, kể cả những kẻ ngu đần nhất, cũng có giác quan thứ sáu và ngay lập tức cảm thấy cảnh sát kết luận một cách tùy tiện hoặc không có cơ sở vững chắc.
Maigret thích chờ đợi, kể cả những trường hợp khó khăn, phức tạp. Khi không mấy tự tin, thì ông để kẻ bị tình nghi được tự do trong chừng mực có thể để tránh những rủi ro.
Cái đó luôn luôn thành công.
Vội bắt một kẻ tình nghi - Maigret thường nói - thì trái với điều người ta tưởng là mình được yên tâm. Người ta không phải theo dõi, rình rập, giãng bẫy nữa. Người ta tố cáo hắn. Hắn sẽ tự bảo vệ. Hắn nhờ pháp luật bảo vệ. Trong nhà giam hắn trở thành một nhân vật nổi tiếng, người ta chỉ có thể trừng trị hắn trong những trường hợp cụ thể thôi.
Mụ Aline Calas là một trường hợp. Một khi ở trong văn phòng ông chánh án, mụ câm như hến. Comeliau chỉ thu được ở mụ những phản ứng của một tảng đá.
- Tôi không có gì để nói cả.
Mụ thường nói với giọng dửng dưng như vậy. Khi bị gặng hỏi, mụ nói thêm:
- Ông không có quyền thẩm vấn tôi khi tôi không có luật sư ngồi bên.
- Nếu vậy, bà cho tôi biết luật sư của bà là ai?
- Tôi không có luật sư.
- Đây là danh sách đoàn luật sư ở Paris. Bà chọn lấy một ngươi.
- Tôi không quen biết họ.
- Thì cứ chọn lấy một cái tên.
- Tôi không có tiền.
Người ta buộc phải chọn một luật sư của toà án và ông đã mất nhiều thời gian làm các thủ tục cần thiết trước khi thực sự bắt tay vào việc.
Comeliau cho gọi Antoine Christin tới vào buổi chiều. Đã bị Lapointe gặng hỏi trong nhiều giờ liền, anh ta chỉ có một câu trả lời ông chánh án:
- Tôi không giết ông Omer Calas. Tôi không tới quán rượu ấy vào chiều thứ bảy. Tôi không gửi chiếc va li nào ở nhà ga phía đông. Người nhân viên ấy đã nói dối hoặc nhầm lẫn.
Trong khi ấy, mẹ anh ta, mắt đỏ ngầu, khăn tay đẫm lệ, ngồi lì ở hành lang sở cảnh sát. Lapointe phải ra tiếp chuyện. Bà ta bướng bỉnh nói ngồi đây chờ gặp cho được cảnh sát trưởng Maigret.
Cái đó thường xảy ra trong tầng lớp bình dân, không muốn nói chuyện với cấp dưới, chờ gặp cho được người chỉ huy cao nhất.
Maigret không thể gặp bà ta lúc này vì ông đã rời khỏi quán rượu ở cảng Valmy, cùng với Judel giải Dieudonne về nhà hắn.
- Anh khoá cửa quán rượu lại và mang chìa khoá về Sở - Maigret bảo Moers.
Cả ba người qua cầu để sang bến cảng Jemmages. Phố Ecluse-Saint-Martin, ở phía sau bệnh viện Saint-Louis, chỉ cách đây hai bước chân. Dieudonne không bị còng tay. Maigret biết hắn không phải là loại người muốn chạy trốn, nhưng ông vẫn đi theo sát hắn.
Hắn rất điềm tĩnh, lúc này có vẻ buồn bã và có một cái gì đó như là sự bướng bỉnh.
Hắn nói ít. Không bao giờ nói dài. Hắn trả lời câu hỏi bằng những từ thật cần thiết, đôi khi không trả lời mà chỉ nhìn viên cảnh sát trưởng với cặp mắt màu xanh lá cây của mình.
Hắn sinh sống trong một khu nhà cũ năm tầng lầu có vẻ sang trọng. Khi đi qua nhà ông gác cổng, ông này đứng lên nhìn họ qua ô cửa kính, nhưng cả ba người cứ đi thẳng. Lên tới lầu hai, Dieudonne lấy chìa khóa ra mở cánh cửa của một căn hộ bên trái.
Căn hộ của hắn có ba phòng, phòng ăn, phòng ngủ và bếp, không kể đến một căn phòng phụ dùng đế chứa đồ cũ nay cải tạo thành phòng tắm và có một bồn tắm lớn. Đồ gỗ thuộc loại hiện đại hơn quán rượu ở Valmy và được lau chùi sạch sẽ.
- Anh có một bà giúp việc chứ?- Maigret ngạc nhiên hỏi hắn.
- Không.
- Anh tự mình quét dọn và lau chùi nhà cửa lấy ư?
Dieudonne mỉm cười với vẻ hài lòng.
- Người gác cổng có lên đây giúp đỡ anh không?
Gần cửa sổ nhà bếp có một chạn bát đĩa.
- Anh tự mình nấu các bữa ăn ư?
- Tôi bao giờ cũng vậy.
Trong chiếc tủ thấp trong phòng ăn có một tấm ảnh lớn của mụ Calas lồng trong khung mạ vàng tạo ra vẻ một gia đình tiểu tư sản hạnh phúc.
Nhớ rằng trong quán rượu ở Valmy không có lấy một tấm ảnh nào, Maigret hỏi:
- Làm thế nào mà anh có được tấm ảnh này?
- Tôi chụp bằng máy của tôi và mang tới phố Saint-Martin để phóng đại.
Máy ảnh để trong một ngăn kéo của tủ thấp. Trong góc phòng tắm có một chiếc bàn nhỏ trên đó để các dụng cụ và vật liệu tráng phim, in ảnh.
- Anh thường chụp ảnh ư?
- Vâng. Nhất là ảnh phong cảnh.
Thật vậy. Lục soát trong ngăn kéo, Maigret thấy nhiều tấm ảnh về phong cảnh của Paris và một số là phong cảnh nông thôn. Nhiều ảnh của các kênh đào và của sông Seine. Dieudonne có tài lấy ánh sáng cho các bức ảnh của mình.
- Khi đến nhà người em gái, anh vận như thế nào?
- Bộ com-lê màu xanh nước biển. Tôi có ba bộ com-lê, kể cả một bộ đang mặc.
- Anh mang chúng đi - Maigret bảo Judel. Kể cả những đôi giày.
Và, khi thấy những bộ quần áo chưa giặt trong một chiếc chậu, ông cũng ra lệnh cho người dưới quyền mang đi luôn.
Có một con chim hoàng yến đang nhảy nhót trong lồng, nhưng trước khi đi ông mới hỏi Dieudonne:
- Anh có biết ai có thể nuôi nó giúp anh không?
- Tôi cho rằng ông gác cổng sẵn sàng làm việc này.
Maigret mang theo lồng chim xuống dưới nhà ông này.
- Ông không muốn mang anh ta vào trong nhà giam đấy chứ?
Vợ người gác cổng giận dữ hỏi.
Đây không phải là con chim hoàng yến mà là người thuê nhà của bà ta. Bà ta biết Judel, và có thể cả Maigret, là ai. Bà ta đã đọc báo.
- Các ông coi anh ta, một người tốt nhất trên đời này, là một kẻ gian ác ư?
Vợ người gác cổng là một người đàn bà nhỏ bé, đen đủi. Giọng của bà ta the thé. Có thể nói bà ta sẵn sàng xông vào để cào cấu họ.
- Bà có muốn nuôi giúp con chim hoàng yến này trong một thời gian không?
Bà ta giằng lấy chiếc lồng từ tay Maigret.
- Các ông sẽ thấy những người thuê nhà ở dây, dân chúng ở đây, nói thế nào về các ông! Ông Dieudonne, chúng tôi sẽ vào nhà giam thăm ông.
Phụ nữ ở đây sùng bái những người đàn ông sống độc thân, những người goá vợ như Dieudonne Pape ăn ở một cách đứng đắn. Khi ba người đi xa, bà ta còn đứng trên vỉa hè khóc và vẫy tay vĩnh biệt.
Maigret bảo Judel:
- Mang quần áo và giày đến chỗ Moers. Anh ta sẽ biết mình phải làm gì. Tiếp tục canh gác quán rượu ở Valmy.
Ông ra những lệnh ấy để tránh những lời chê trách sau này. Dieudonne Pape ngoan ngoãn đứng chờ ông trên hè cho đến khi cả ba người lên một chiếc tắc-xi.
Ngồi trên xe, hắn không nói một lời và về phần mình, Maigret cũng tránh đặt ra cho anh ta những câu hỏi. Miệng ngậm tẩu, ông đưa cho hắn gói thuốc.
- Anh có hút thuốc không?
- Không.
- Còn thuốc lá?
- Cũng không.
Ông đặt ra những câu hỏi chẳng liên quan gì đến cái chết của Omer Calas cả.
- Anh cũng không uống rượu ư?
- Không.
Đây là một điều khác thường. Maigret sẵn sàng chấp nhận cái đó. Mụ Calas là một kẻ nghiện rượu, mụ đã uống trong nhiều năm nay, cả trước khi quen biết Dieudonne Pape.
Rất hiếm trường hợp có một người không uống rượu chung sống với một người nghiện ngập.
Maigret biết có nhiều cặp như mụ Calas và Dieudonne Pape, nhưng thường thì cả hai đều uống rượu cả.
Ông vừa ăn vừa nghiền ngẫm những cái đó khiến bà vợ ông nhận ra. Ông không nghĩ gì đến những chuyện khác.
Khi gặp người mẹ của Antoine ở hành lang sở Cảnh sát, ông đã đưa bà ta vào văn phòng của mình. Trước đó ông đã giao Dieudonne Pape cho Lucas và dặn rằng:
- Báo tin cho ông Comeliau rằng anh ta đang ở đây và nếu ông chánh án yêu cầu thì đưa anh ta tới gặp ông ấy. Nếu không, đưa anh ta về nhà tạm giam.
Dieudonne Pape không cãi lại, đi theo viên thanh tra trong khi đó thì ông cùng người mẹ Antoine vào văn phòng của cảnh sát trưởng.
- Ông cảnh sát trưởng, tôi xin thề với ông rằng con trai tôi không thể làm những việc như vậy được. Nó không hề giết một con ruồi. Nó làm ra vẻ bướng bỉnh vì đây là cái mốt của thanh niên thời nay. Tôi thì tôi biết rõ nó, nó chỉ là một đứa trẻ.
- Tôi tin bà, thưa bà.
- Ông tin tôi, vậy tại sao ông không thả nó ra? Tôi sẽ cấm nó không được đi đâu vào ban đêm và nhất là không được quan hệ với phụ nữ. Khi tôi nghĩ đến mụ ta cùng vào độ tuổi tôi mà đi quyến rũ một thằng bé đáng tuổi con mụ thì tôi vô cùng xấu hổ. Gần đây, tôi cảm thấy nó giấu giếm tôi một chuyện gì đó. Khi tôi thấy nó mua gôm chải đầu, xức nước hoa, đánh răng hai lần một ngày thì tôi đã nghi...
- Bà chỉ có một mình Antoine thôi ư?
- Vâng. Bố nó chết về chứng lao phổi nên tôi phải chăm sóc nó kỹ lưỡng. Tôi làm mọi việc vì nó, thưa ông cảnh sát trưởng. Tôi rất muốn gặp nó để nói chuyện với nó! Tại sao người ta ngăn cấm một người mẹ nói chuyện với con trai mình?
Maigret không dám đưa bà ta tới gặp Comeliau. Như vậy cũng là hèn nhát, nhưng ông không có cách lựa chọn nào khác. Bà ta còn phải ngồi trên ghế dài ngoài hành lang để đợi gặp con trong một thời gian nữa và Maigret cũng không biết ông chánh án có chịu tiếp bà ta không.
Moers đã trở về sở trước sáu giờ và đưa cho ông chiếc chìa khoá cửa quán rượu ở Valmy, một chiếc chìa khoá kiểu cũ, rất lớn. Ông bỏ nó vào túi cùng với chiếc chìa khoá căn hộ của Dieudonne Pape.
- Judel đã đưa anh quần áo và những đôi giày chưa?
- Đã. Tôi đã thấy chúng trong phòng thí nghiệm. Tôi phải, tìm những vết máu, đúng không, thưa sếp?
- Đúng. Sáng mai tôi sẽ dẫn anh đến căn hộ của hắn.
- Tôi phải làm đêm sau khi đã ăn qua loa một vài miếng. Công việc rất khẩn cấp, đúng không, thưa sếp?
Bao giờ cũng khẩn cấp. Khi đã bắt tay vào một vụ án, càng nhiều đối tượng phải theo dõi, càng có ít chứng cứ thì người ta không thể có thời gian nghỉ ngơi.
- Đêm nay ông có về nhà không?.
Bà Maigret hỏi chồng.
- Tôi không biết. Khi đi tôi cũng không kịp để lại một lời nhắn tin ở văn phòng của tôi.
Đứng lên và cầm lấy chiếc tẩu, ông ngập ngừng nhìn chiếc ghế bành. Thấy vậy, bà Maigret nói:
- Ông nghĩ sao nếu để đầu óc được thanh thản đêm nay? Không nghĩ đến công việc nữa. Chúng ta đi xem chiếu bóng và sáng mai đầu óc ông sẽ sáng suốt hơn.
Ông hốt hoảng nhìn vợ.
- Bà muốn đi xem chiếu bóng ư?
- Người ta chiếu nhiều phim hay ở rạp Moderne.
Bà rót cà phê cho chồng và nếu có đồng tiền trên tay thì ông sẽ chơi trò sấp ngửa.
Bà Maigret không giục giã chồng, để ông uống từng ngụm nhỏ. Ông đi đi, lại lại trong phòng ăn, đôi khi dừng chân nhìn tấm thảm.
- Không- Cuối cùng ông quyết định.
- Ông đi ư?
- Đúng.
Trước khi mặc áo khoác, ông rót một chút rượu mận.
- Ông sẽ về nhà vào lúc khuya, đúng không?
- Tôi không biết. Rất có thể là như vậy.
Không thể biết trước vì ông coi đây là một vụ khá quan trọng. Ông không gọi xe của sở, không đi tắc-xi, ông đi xuống ga tàu điện ngầm.
Phố xá có vẻ đáng lo ngại trong đêm tối với những bóng ngôi nhà, bóng phụ nữ đứng trên vỉa hè và trong các quán nhảy ánh đèn mờ ảo giống như chậu cá vàng.
Một người đứng gác trước quán rượu nhà Calas vội vàng chạy đến trước mặt Maigret khi ông đứng lại. Người ấy rọi đèn pin vào người ông.
- Ô! Xin lỗi, thưa ông cảnh sát trượng. Trời tối nên tôi không nhận ra ông.
Đây là người của thanh tra Judel.
- Có gì lạ không?
- Không. A! Nhưng có đấy. Tôi không biết có đáng quan tâm không. Cách đây một tiếng đồng hồ có một chiếc xe hơi khi gần tới ngôi nhà này chạy chậm lại, càng chạy chậm hơn khi qua trước mặt ngôi nhà nhưng không đỗ lại.
- Anh có nhìn vào trong xe không?
- Có. Trong xe có một phụ nữ. Khi xe chạy qua ánh đèn, tôi nhìn rõ đây là một cô gái trẻ, mặc một chiếc áo khoác màu xám, đầu không đội mũ. Sau đó chiếc xe chạy đến phố Louis-le-Blanc.
Có phải đây là Lucette, con gái nhà Calas, đến để xem mẹ mình đã được thả chưa? Đọc báo, cô ta đã biết rõ mẹ cô đã bị giải về sở cảnh sát, nhưng sau đó báo chí không nói gì thêm nữa.
- Cô ta có nhìn thấy anh không?
- Có thể. Ông Judel không nói là tôi phải ẩn nấp. Hầu hết thời gian tôi phải đi đi, lại lại để đỡ rét.
Còn một giả thuyết khác. Lucette Calas không có ý định vào trong quán rượu kể cả trường hợp nó không bị canh gác. Vậy cô ta đi qua đây với ý định gì?
Maigret nhún vai, lấy chìa khoá mở cửa. Ông không tìm thấy công tắc điện vì ông chưa một lần dùng đến. Một bóng đèn nhỏ trên quầy hàng và từ đấy ông tìm ra công tắc đèn cho gian phòng.
Moers và những người giúp việc của anh đã sắp xếp cẩn thận mọi thứ trong nhà trước khi ra về. Trong quán không có gì thay đổi trừ việc lò sưởi đã tắt, căn phòng đã trở nên lạnh lẽo. Maigret giật mình khi vào trong bếp vì có một vật gì đó chuyển động trong bóng tối. Phải mất nhiều giây đồng hồ ông mới biết đây là con mèo mà ông đã gửi ở cửa hàng thịt.
Lúc này con vật đã quấn bên chân ông. Ông nhìn nó càu nhàu:
- Mày vào trong nhà bằng lối nào?
Cái đó làm ông thắc mắc. Cánh cửa nhà bếp thông ra vườn đã bị gài chặt. Cửa sổ cũng bị đóng kín. Ông bước lên thang gác, bật đèn trên lầu một thì ông thấy cửa sổ còn để ngỏ. Ngoài sân nhà hàng xóm có một nhà kho, mái lợp tôn. Từ đây, con mèo đã nhảy một cú xa gần hai mét để chui vào của sổ.
Xuống dưới nhà, thấy trong bếp còn chút sữa trong một chiếc đĩa sứ, ông mang tới cho con mèo.
- Bây giờ thì sao đây?
Maigret hỏi to như nói với con mèo.
Cả hai sẽ ra sao trong ngôi nhà trống vắng này?
Ông chưa nhận ra rằng khi chỉ có một quầy hàng, không có chủ quán, không có khách hàng thì sẽ cô đơn, chán nản đến như thế nào. Nhưng mỗi buổi chiều khi những khách hàng cuối cùng ra về thì Omer Calas khoá trái cửa lại.
Trong nhà chỉ còn hai người, hắn và người vợ và họ chỉ còn việc tắt đèn và đi qua bếp lên trên lầu để ngủ. Mụ Calas thì lúc nào cũng đờ đẫn, ngây dại vì những ngụm cô-nhắc trong ngày.
Mụ có uống rượu vụng chồng không? Hay là vì muốn tự do đi chơi bi-a mỗi buổi chiều, hắn để mặc vợ với chai rượu?
Ngoài ông với con mèo, Maigret nhận ra ở đây còn một nhân vật nữa, đó là người chết. Với mọi người, ngay từ đầu, người chết là cái xác bị xẻ ra từng mảnh và không đầu. Một điều kỳ lạ mà Maigret thường nhận ra là sự phản ứng của mỗi người là không giống nhau, ví dụ như sự thương hại hoặc sự ghê tởm, khi đứng trước xác người đã bị chặt khúc nhưng đã tìm được đầy đủ trừ cái đầu so với một xác người nguyên vẹn. Đối với trường hợp thứ nhất người chết trở nên vô danh, gần như là một anh hề, và người ta mỉm cười khi nói đến nó. Ông không nhìn thấy cái đầu của Omer Calas, cái mà người ta không tìm thấy và sẽ không thể tìm thấy, kể cả cái đầu của ông ta trên ảnh.
Người ấy nguồn gốc là nông dân, thấp và nặng nề. Mỗi năm một đôi lần đi mua rượu ở vùng Poitiers, mang theo một bộ com-lê bằng len khá mịn và buổi chiều mỗi ngày đi chơi bi-a trong một quán bi-a gần nhà ga phía đông.
Ngoài vợ thì trong cuộc đời của ông ta còn người đàn bà nào không? Có thực ông ta không biết gì về những chuyện xảy ra trong quán rượu khi mình vắng mặt ở đây không?
Đã gặp Dieudonne Pape trong nhà mình, dù có ngu ngốc đến thế nào đi nữa thì ông ta cũng đoán ra quan hệ giữa hắn với vợ ông.
Cả hai đã già nhân ngãi non vợ chồng. Vậy thì ông ta đã nhắm mắt cho qua hay là gây sự, đánh đập vợ?
Phản ứng của ông ta ra sao đối với những kẻ khác, như Antoine Christin chẳng hạn, kẻ đã lợi dụng sự cô đơn của mụ Calas? Ông ta có biết chuyện này không?
Cuối cùng Maigret đến sau quầy hàng, ngập ngừng với lấy chai rượu và rót cho mình một cốc calvados. Ông không quên cho tiền vào ngăn kéo. Con mèo đang ngồi trên lò sưởi, rùng mình khi thấy không có chút hơi ấm nào.
Maigret hiểu rõ quan hệ giữa mụ Calas và Dieudonne Pape. Ông cũng hiểu cả Antoine Christin nữa và một vài người thường lui tới quán rượu này.
Cái ông không hiểu là Omer Calas và vợ. Tại sao và làm thế nào hai người đã ăn nằm với nhau, sau đó đã kết hôn với nhau, đã sống với nhau trong bấy nhiêu năm, đã có một con gái nhưng không coi đây là cái chung của họ?
Không có một tấm ảnh nào, một lá thư nào làm sáng tỏ chuyện này, chỉ có những lời nhận xét của những người xung quanh.
Ông uống cạn cốc rượu và uống tiếp một cốc khác với vẻ cáu kỉnh. Ông tới ngồi trên chiếc ghế mà mụ Calas thường ngồi.
Ông gõ tẩu vào gót giày và nhồi một tẩu thuốc khác rồi châm lửa hút, mắt nhìn đám chai lọ trên quầy hàng để tìm câu trả lời cho câu hỏi của mình, ít nhất là một phần của câu hỏi ấy.
Ngôi nhà này được bố trí như thế nào? Một cái bếp mà người ta không bao giờ ăn ở đấy, vì vợ chồng họ ăn ngay tại nơi bán hàng, bên một chiếc bàn kê ở góc nhà, rồi một căn phòng chỉ dùng để ngủ.
Khi đặt chân tới Paris, có phải họ tới Valmy ngay và từ đó không chuyển nhà đi đâu nữa không.
Maigret nghĩ đến một ngày nào đó mụ Calas và Dieudonne Pape cũng có dịp dọn nhà như thế và ông mỉm cười.
Cái đó rất mơ hồ và khó nói thành lời. Ông chỉ mềm yếu trong vài tiếng đồng hồ trở lại đây thôi. Uống cạn cốc rượu, ông quay máy điện thoại gọi về Sở Cảnh sát.
- Maigret đây. Ai ở đầu dây? Anh Joris đây ư? Bà khách mới của chúng ta ra sao? Bà Calas ấy... phải... anh nói sao? Thế nào?
Hai lần mụ ta gõ cửa. Hai lần mụ ta van xin người coi tù mang cho mụ ít rượu, mụ sẽ trả với bất cứ giá nào. Mụ rất đau đớn khi phải sống biệt lập.
- Không được cho bà ta uống rượu...
Ông không khuyên Joris làm trái những quy định. Ngày mai ông có thể mang rượu tới để mụ uống ngay tại văn phòng của ông không?
- Tôi muốn anh xem xét những giấy tờ thu giữ trong nhà bà ta. Giấy chứng minh của bà ta cũng ở trong đấy. Tôi biết bà ta từ vùng Gien tới Paris, nhưng không biết là làng nào.
Ông phải đợi khá lâu.
- Thế nào? Saint-Andre Boissancourt ư? Cảm ơn anh bạn! Chúc ngủ ngon. Không nên quá cứng rắn với bà ta.
Ông gọi cho phòng danh bạ điện thoại xưng danh rồi yêu cầu:
- Thưa cô, xin cô làm ơn tìm giúp những người có danh bạ điện thoại ở Saint-Andre Boissancourt.
- Xin ông giữ máy.
Không lâu lắm vì đây là sự cộng tác với cảnh sát trưởng Maigret nổi tiếng.
- Ông ghi chứ?
- Vâng.
- Aillevard, đường cây Xồi, không nghề nghiệp.
- Xin đọc tiếp.
- Victor Acelin, chủ hiệu thịt. Ông có muốn ghi số máy không?
- Không.
- Honore de Boissancourt, lâu đài Boissancourt.
- Xin đọc tiếp.
- Bác sĩ Camuzet.
- Xin cho số máy của bác sĩ.
- Số mười bảy.
- Xin đọc tiếp.
- Robert Calas, người mua bán trâu bò.
- Xin cho số máy.
- Số hai mươi mốt.
- Julien Calas, chủ cửa hàng thực phẩm, số máy ba.
- Không còn ai là Calas nữa ư?
- Không. Trong sổ đăng ký còn Louchez, không nghề nghiệp, Piedboeuf, đóng móng ngựa và Simonin, buôn ngũ cốc.
- Xin cô gọi giúp người có tên là Calas thứ nhất.
Các cô phụ trách tổng đài điện thoại gọi nhau. Cuối cùng Maigret có tiếng người hỏi lại:
- Có việc gì vậy?
- Đây là cảnh sát trưởng Maigret ở Sở cảnh sát Paris đây. Bà là bà Calas ư? Chồng bà có ở nhà không?
Ông nghe thấy tiếng giường cọt kẹt.
- Ông nhà có họ hàng gì với người có tên là Omer Calas không?
- Người ấy hiện nay ra sao? Đã làm việc gì dại dột ư?
- Bà biết ông ta chứ?
- Tôi chưa bao giờ gặp người ấy vì tôi là người ở miền thượng lưu sông Loire kia và người ấy ra đi thì chúng tôi mới kết hôn với nhau.
- Đó là người họ hàng với chồng bà ư?
- Là anh em họ.. Người ấy còn một người em là Julien, bán thực phẩm ở đây.
- Bà không biết có chuyện gì xảy ra với Omer Calas ư?
- Về Omer Calas ư? Không. Tôi cũng không muốn biết nữa.
Có lẽ bà ta đã gác máy vì người ở tổng đài hỏi ông:
- Ông có muốn gọi cho ông Julien không?
Và ngay lập tức ông có người đối thoại ở đầu dây..
- Tôi hiểu ông muốn hỏi ai rồi nhưng ông muốn gì?
- Omer Calas là anh của ông ư?
- Tôi có một người anh tên là Omer.
- Ông ta qua đời rồi ư?
- Tôi không biết gì cả. Đã hai chục năm, có thể là hai mươi nhăm năm chúng tôi không gặp nhau.
- Có người tên là Omer Calas ở Paris bị giết hại.
- Tôi vừa được nghe trên rađiô.
- Ông cũng đã nghe nhân dạng của ông ta trên rađiô chứ. Người ấy có giống người anh của ông không?
- Tôi không thể nói chắc chắn được.
- Ông có biết ông ta đang ở Paris không?
- Không.
- Và ông ta đã kết hôn nữa?
Yên lặng.
- Ông có biết vợ ông ta không?
- Xin ông nghe đây. Tôi không có gì để nói với ông cả. Khi Omer đi thì tôi mới mười lăm tuổi. Từ bấy đến nay tôi không gặp anh tôi. Cũng không nhận được thư nữa. Tôi cũng không muốn quan hệ với anh ấy. Nếu muốn biết rõ hơn, xin ông hỏi luật sư Canonge.
- Ông ấy là ai?
- Là chưởng khế.
Khi gọi cho ông chưởng khế thì vợ ông ta kêu lên:
- Thật là trùng hợp ngẫu nhiên! Thật là trùng hợp ngẫu nhiên!
- Tại sao?
- Vì ông đã gọi điện thoại đúng lúc. Ông biết không? Vừa rồi, sau khi nghe rađiô, chồng tôi muốn gặp ông ngay. Không gọi điện thoại báo trước mà chồng tôi đã đáp xe lửa để đi Paris. Ông ấy đi chuyến tám giờ hai mươi hai phút tối. Ông ấy sẽ xuống ga Austerlitz lúc nửa đêm. Tôi không biết giờ chính xác.
- Ông nhà thường trọ ở đâu?
- Ở khách sạn Orsay.
- Chồng bà như thế nào?
- Một người đẹp lão, to béo, mạnh khoẻ. Ông ấy mặc một chiếc áo khoác màu nâu, bộ com-lê cùng màu, ngoài cặp còn một chiếc va li bằng da lợn. Tôi tự hỏi là ông có thể nhận ra ông ấy không?
Khi gác máy, Maigret nở một nụ cười hài lòng, tự thưởng mình một cốc rượu và nhủ đã đến giờ ra nhà ga rồi.
Chỉ còn một việc gọi điện thoại cho bà Maigret báo tin mình sẽ về nhà khá muộn.