← Quay lại trang sách

Soko A

Ngày mười bốn tháng Chín.

Hình như tôi không có mắt nhìn đàn ông.

Ngồi trên chiếc máy bay đang chòng chành giữa không trung, tôi bất chợt nhận ra điều này.

Đã rời khỏi Saipan được hai tiếng đồng hồ, máy bay chẳng những không giữ được thăng bằng, mà ngược lại, còn lắc lư dữ dội hơn thế.

Tôi ngồi tại vị trí, im lặng nhắm mắt, cảm nhận cơ thể mình dập dềnh theo từng chuyển động hạ xuống bay lên của máy bay. Nếu nói như vậy rất thoải mái, hiển nhiên là nói dối, song hiện giờ cũng chỉ còn cách thả lỏng toàn thân, phó mặc cho số phận.

Thế nhưng, người bạn đồng hành bên cạnh tôi lại có vẻ như đang không ngừng toát mồ hôi lạnh. Một tay cậu ta che miệng, chốc chốc lại phát ra tiếng hừ hừ, đám râu ria xồm xoàm trên cằm khẽ rung rung.

“Anh không sao chứ ạ? Hay là anh uống thuốc nhé?”

Người cất giọng dịu dàng hỏi cậu ta như thế không phải tôi, mà là nữ tiếp viên hàng không.

“Ừm, không... không sao.”

“Anh có cần uống chút đồ không ạ?”

“Vậy thì... Cho tôi cốc bia đi. Cổ họng khát đến bốc khói ra rồi.”

Tôi không giả vờ ngủ thêm nữa, cất giọng gọi nữ tiếp viên hàng không đang định rời đi. Theo nhịp chòng chành của máy bay, cô tiếp viên hàng không chuyển cái nhìn sang phía tôi, tôi nói với cô ta rằng mình muốn một tách cà phê.

“Không ngủ được à?”

Makihara không trả lời mà nở nụ cười mệt mỏi.

“Trong người đang khó chịu mà còn uống bia, cậu chịu được sao?”

“Đâu có gì khó chịu đâu.”

“Nhìn sắc mặt cậu tái xanh rồi kìa.”

Nghe tôi nói, Makihara chỉ cười mập mờ. Nhìn thấy nụ cười kỳ quái ấy, tôi liền chuyển ánh nhìn đi nơi khác.

“Máy bay mà rơi xuống mới tốt ấy.”

Makihara nghĩ một đằng nói một nẻo.

“Sẽ không rơi xuống đâu. Chẳng qua chỉ là chịu ảnh hưởng của cơn bão nên mới thế thôi.”

“Nếu máy bay rơi thật thì tôi có thể cùng Soko chết vì tình rồi.”

Thực ra tôi quá hiểu, cậu ta cơ bản không có dũng khí và khí phách chết vì tình. Tôi lẩm bẩm trong bụng như thế, miệng khẽ cười khẩy. Hình như Makihara cảm nhận được, đột nhiên cậu ta tóm lấy tay tôi.

“Này, Soko.”

“Xin cậu đấy, đừng có khuyên tôi nữa.”

“Tại sao chúng ta lại bắt buộc phải chia tay chứ? Vốn dĩ tôi muốn đợi sau khi em ly hôn sẽ chung sống cùng em mà.”

“Chẳng phải tôi đã nói rồi sao, đừng nhiều lời nữa.”

“Nhưng tôi không thể chấp nhận được điều ấy...”

Lúc này, hệ thống loa phát thanh bỗng đưa tin: “Sau đây sẽ có thông báo đến từ cơ trưởng.”

“Máy bay sắp rơi xuống rồi!” Cậu học sinh tiểu học ngồi bên cạnh, cách chỗ tôi một lối đi kêu lên. Mẹ cậu vội vàng lừ mắt. Bất giác Makihara càng túm tay tôi chặt hơn.

Dĩ nhiên chương trình phát thanh của cơ trưởng sẽ không nói những nội dung gây hoang mang. Nam cơ trưởng thông báo với chúng tôi bằng giọng nói mơ hồ: Đêm qua, cơn bão mạnh ở khu vực giáp ranh Kanto vừa mới đổ bộ vào bán đảo Izu, luồng không khí trên không khu vực Kansai tương đối xấu, máy bay không thể hạ cánh xuống Osaka, hy vọng mọi người cho phép máy bay hạ cánh xuống Fukuoka.

“Là Fukuoka đấy.”

Tôi và Makihara đưa mắt nhìn nhau, đồng thanh nói. Mặc dù trước khi lên máy bay chúng tôi đã được thông báo, do ảnh hưởng của cơn bão, máy bay có thể sẽ hạ cánh xuống Osaka mà không phải Tokyo, nhưng không ngờ bây giờ lại là Fukuoka. Tôi lại nhắc lại địa danh này một lần nữa:

“Fukuoka...”

“Này, đợi đã! Ngày mai tôi còn phải đi làm nữa! Vé tàu Shinkansen lượt về đã đặt xong đâu vào đấy cả rồi!”

Makihara gọi giật cô tiếp viên hàng không đang bưng đồ uống đến, nét mặt xem chừng sắp khóc đến nơi.

“Này, các người có thể bảo đảm chắc chắn rằng chúng tôi sẽ đến được Tokyo không? Ngày mai tôi buộc phải đi làm đấy.”

“Đương nhiên, chúng tôi sẽ cố gắng hết sức có thể. Những vấn đề liên quan đến vé tàu lượt về, một lát nữa sẽ được thông báo.”

Cùng một vấn đề, chắc hẳn trên đoạn đường bưng đồ uống này, cô ta đã bị hỏi vô số lần. Nhưng tôi thấy cô ta vẫn mỉm cười, trả lời một cách máy móc.

Makihara nhận lấy bia, mở nắp lon rồi buông tiếng thở dài nặng nề. Tôi cầm cốc giấy đựng cà phê, nhìn đăm đăm vào khuôn mặt nghiêng nghiêng của cậu ta.

Có gì ghê gớm đâu nhỉ!

Chẳng qua chỉ là chuyến bay đáng ra nên hạ cánh ở Osaka đã phát sinh thay đổi, chuyển hướng đến Fukuoka thôi mà. Có mỗi chút chuyện cỏn con đó mà người đàn ông này lại hốt hoảng lo sợ, cậu ta đang lo lắng điều gì cơ chứ? Tại sao lại không thể bình tĩnh ngồi đợi?

Tôi nhấp một ngụm cà phê, nhìn Makihara nhấp nhổm trên ghế, hai đầu gối không ngừng rung rung bằng ánh mắt vô tình, bình tĩnh.

Thế mà người chọn kiểu đàn ông như thế để làm tình nhân, không phải ai khác lại chính là bản thân tôi đấy.

Chẳng hiểu sao, lúc mới yêu, thậm chí tôi còn muốn ly hôn chồng để có thể được chung sống cùng cậu ta nữa kia đấy. Nhưng sau một thời gian dài qua lại, cậu ta đã hiện nguyên hình, bộc lộ đầy đủ những bản chất vốn có của mình.

Tôi may mắn được sở hữu một cơ thể khỏe mạnh, từ trước đến giờ chưa từng ốm đau, bệnh tật. Makihara thì ngược lại, ngồi trên xe một lúc là say, chốc kêu mệt, chốc lại kêu đau đầu... Hồi đầu, tôi còn cho rằng đây là điểm đáng yêu khiến người ta thương xót, nhưng hiện giờ, nó lại là điều khiến người ta khó chịu và bực mình khôn tả. Dù tôi hiểu đích cuối của mọi chuyện tình yêu đều vậy, nhưng không hiểu sao tôi vẫn cảm thấy mình thảm hại ghê gớm.

Hình như tôi không có mắt nhìn đàn ông thì phải. Chọn sai chồng thì chớ, ngay đến tình nhân cũng chọn sai nốt.

Nghe tiếng động cơ rú ầm vang, tôi lại bình tĩnh nhấp một ngụm cà phê nữa. Bỗng máy bay bất thình lình lắc mạnh khiến cà phê bắn tung tóe ra ngoài.

“Ối!”

“Máy bay đang chao đảo, cẩn thận một chút.” Makihara nhanh chóng rút khăn tay ra, tôi liếc cậu ta một cái.

“Sao vậy?”

“Không có gì. Cảm ơn nhiều.”

Cầm khăn tay che miệng, tôi đắm mình trong dòng suy nghĩ phức tạp. Mặc dù cậu ta không có khí khái của một người đàn ông thực thụ, nhưng tính tình lại điềm đạm, hiền lành, không phải là một người xấu.

Ồ, tôi có chút dao động sao? Không, tôi vội vàng lắc đầu. Mọi chuyện đã quyết, dù có thế nào đi nữa cũng vẫn sẽ không thay đổi.

Chiếc cốc giấy rỗng trong tay tôi bỗng “sột soạt”, hóa ra tôi đã bóp nát nó.

Một tiếng nữa là tới Fukuoka. Dù đây là lần đầu tiên tôi đặt chân đến Fukuoka, nhưng nơi đó lại là nơi chứa đựng những hồi ức cay đắng khiến cho tôi không khỏi hoài niệm.

Hay lưu lại Hakata một đêm nhỉ!

Trong quán cà phê tại trạm ga Hakata, tôi và Makihara ngồi đối diện nhau.

“Cái gì? Em không quay về sao?”

Khi tôi thông báo quyết định tối nay sẽ ở lại Hakata, cậu ta tỏ ra vô cùng kinh ngạc.

“Đúng vậy. Dù sao tôi cũng không có chuyện gì gấp cần phải xử lý, tôi nghĩ chi bằng mình lang thang ở đây cho khuây khỏa rồi hãy về.”

Tôi điềm tĩnh cười nói, còn Makihara há hốc miệng, đang cố tìm câu từ cho thích hợp.

“Sao em có thể như vậy chứ? Soko, em quá đáng quá rồi đấy!”

“Makihara, ngày mai cậu không thể nghỉ làm mà, đúng chứ? Tôi cũng cảm thấy chuyện này mình đã không đúng, thật xin lỗi.”

“Em đã nói xin lỗi rồi thì thôi... Được, tôi cũng quyết định rồi, ngày mai tôi sẽ nghỉ làm, tôi muốn cùng Soko ở lại đây một đêm.”

Tôi đã lường trước rằng có thể cậu ta sẽ nói thế. Bởi cậu ta có thèm để tâm đến những lời tôi nói trên đảo Saipan đâu. Có lẽ tôi phải tỏ rõ thái độ của mình mới được. Nghĩ thế, tôi bèn ngẩng đầu lên.

“Đủ rồi đấy!”

“Soko?”

“Sao cậu cứ lải nhải như trẻ con thế? Tôi muốn được ở một mình, tự do tự tại. Nếu cậu thích chúng ta chia tay trong cãi vã ầm ĩ, vậy thì được thôi, tôi sẽ cãi nhau với cậu. Tôi sẽ không đến trạm ga tiễn cậu đâu.”

Dứt lời, tôi đứng dậy. Makihara cuống cuồng, hốt hoảng túm lấy cổ tay tôi.

“Đợi đã. Xin lỗi, là tôi không tốt.”

Tôi đưa mắt nhìn Makihara, rồi từ từ ngồi xuống. Trông thấy dáng vẻ ủ rũ của cậu ta, lần đầu tiên tôi cảm thấy ngực mình có chút đau nhói.

Dù đã hai mươi sáu tuổi nhưng Makihara vẫn mang khuôn mặt của một cậu bé, da rất mịn màng, trắng trẻo, mái tóc lúc nào cũng bồng bềnh, duy chỉ hai cánh tay đen sạm vì phơi nắng. Tôi đã từng thích cậu ta xiết bao, nhưng theo dòng chảy của thời gian, chàng trai trẻ đáng yêu ấy càng lúc càng thể hiện giống một cậu bé thích làm nũng, thẽ thọt, khúm núm.

Chuyện chia tay, tôi đã đề cập trước khi đến đảo Saipan du lịch, nhưng cậu ta cứ sống chết bám riết lấy tôi, còn nói rằng khó khăn lắm mới có được ngày nghỉ, nên hãy cùng nhau đi du lịch một lần. Tôi bước lên máy bay với ý nghĩ: “Đây là lần du lịch cuối cùng.” Suốt cuộc hành trình, cậu ta lại tìm đủ mọi cách thuyết phục tôi từ bỏ suy nghĩ ấy. Tệ một nỗi, kết quả lại tương phản, bởi những lời kêu ca, oán trách của Makihara khiến chuyến du lịch đáng ra rất vui vẻ đã trở nên quá ư tồi tệ, và cũng vì thế mà thái độ của tôi đối với cậu ta cũng trở nên lạnh nhạt nhanh chóng.

Tôi và Makihara quen biết nhau bốn năm trước.

Makihara làm việc tại quầy chuyên bán các sản phẩm may mặc nữ trong trung tâm thương mại nơi tôi làm việc. Bởi nụ cười hòa nhã dễ gần và thần thái đẹp giống ngôi sao điện ảnh, Makihara được mọi người ở cửa hàng vô cùng yêu quý.

Ban đầu, tôi không hề có tình cảm yêu mến gì với người đàn ông nhỏ hơn mình ba tuổi, có khuôn mặt trẻ con này. Và rồi, sớm chiều tiếp xúc, thường xuyên cùng nhau tán gẫu, nói chuyện phiếm, mối quan hệ giữa chúng tôi ngày càng thân thiết lúc nào không hay. Hai chúng tôi đã trở thành tình nhân như thế nào, tôi chẳng còn nhớ rõ nữa, nhưng chắc hẳn không nằm ngoài chuyện hai người cùng nhau ra ngoài uống rượu rồi dần dà mới trở nên như vậy.

Ngay từ đầu, Makihara biết tôi đã kết hôn. Mặc dầu vậy cậu ta cũng chưa từng đề cập đến chuyện ấy và mối quan hệ của chúng tôi vẫn khá hòa hợp.

Tôi luôn cảm thấy việc chồng thường xuyên vắng nhà, không quấy rầy tôi là một hạnh phúc. Tôi có thể không cần quan tâm tới anh ta, mà không, nên nói là người không được quan tâm là tôi mới đúng, vì thế, tôi thường cùng Makihara đi du lịch.

Trước đây, trong mỗi chuyến du lịch, Makihara bao giờ cũng tràn đầy nhiệt huyết, sự hào hứng ấy cũng lây lan sang cả tôi khiến cuộc sống khi đó của hai chúng tôi thật sự vui vẻ. Song tôi hiểu rõ rằng mối quan hệ này không thể duy trì lâu dài, vậy mà có vẻ như tên ngốc Makihara lại không ý thức được chuyện ấy.

Yêu đương cũng giống như đi du lịch, mỗi ngày đều đầy ắp thú vị. Song, những ngày tháng ấy cuối cùng kiểu gì cũng sẽ kết thúc, và sau đó, cuộc sống thường ngày lại tiếp diễn. Chính bởi có cuộc sống thường ngày buồn tẻ, nhàm chán mà cuộc sống khác đi mới trở nên kích thích và hấp dẫn như vậy.

Thật ra, có thể vui sướng thỏa thuê là bởi chúng tôi là những người lữ hành trong mối quan hệ tình nhân. Nếu tôi và chồng ly hôn, bắt đầu cuộc sống thường ngày với Makihara, lúc đó chúng tôi sẽ không còn là quan hệ tình nhân nữa, và chắc hẳn cũng sẽ không thể vui sướng thỏa thuê nữa. Mục đích của tôi chẳng qua chỉ là bỏ nhà đi du lịch để giải sầu.

“... Em đã chán ghét tôi rồi sao?”

Tôi không trả lời được câu hỏi ấy của Makihara. Có lẽ là như vậy, mặc dù vui sướng đấy, nhưng tôi đã chán rồi. Có lẽ tôi đã chán thể loại yêu đương vẻn vẹn chỉ để giải sầu này.

“... Xin lỗi!”

Một hồi lâu sau, tôi chỉ nói được một câu như vậy. Tôi tự biết mình là một người lạnh lùng và tùy hứng. Điều tôi có thể làm hiện giờ, chỉ có thể là buông ra hai tiếng xin lỗi.

“Không sao, không cần xin lỗi.”

“Là tôi không tốt.”

“Tôi đã nói là không sao. Tôi sẽ cho em thêm thời gian, nếu em thay đổi tâm ý, xin hãy gọi điện thoại cho tôi.”

Lúc này sắc mặt của Makihara có dịu đi đôi chút. Vẻ mặt ấy hồ như đang muốn ám chỉ rằng: “Nếu em đã chợt nổi hứng đòi chia tay, vậy thì có lẽ sẽ chợt nổi hứng làm hòa.” Tôi cảm thấy như bị hoài nghi, nhưng cũng chẳng nói gì. Bất luận thế nào, tôi cũng chỉ muốn mau chóng được ở một mình.

Makihara kéo vali hành lý lên tàu Shinkansen mà công ty hàng không đã đặt trước đó. Chuyến tàu từ từ lăn bánh rời khỏi sân ga. Qua tấm kính, cậu ta vẫy tay về phía tôi. Tôi cũng đưa tay lên vẫy lại.

Chớp mắt, tàu Shinkansen đã đi xa, chỉ còn lại mình tôi. Đồng hồ trên trạm ga lúc này chỉ một giờ chiều. Ánh nắng của tháng Chín chói mắt y như ánh mặt trời chói chang của mùa hạ.

Tôi lê tấm thân mệt mỏi xuống từng bậc thang trong bến tàu. Tôi cảm thấy hơi mệt, nhưng kiểu lười nhác này không phải là chuyện gì xấu, mệt thì cũng có sao đâu nhỉ? Đây chỉ là loại cảm giác được phóng thích và hơi chút chần chừ của một con người đang bước đi trên con đường xa lạ, cộng với những mệt mỏi mà chuyến du lịch vừa kết thúc mang lại.

Ra khỏi cửa soát vé, tôi chui ngay vào một trạm điện thoại công cộng, lật cuốn sổ danh bạ có sẵn trong trạm tìm một khách sạn phù hợp để đặt phòng. Sau khi đặt xong, tôi bỗng cảm thấy nhẹ nhõm hẳn, cơn buồn ngủ cũng theo đó mà kéo đến.

Có lẽ tôi đã mệt mỏi hơn tôi tưởng. Tôi vỗ vào mặt mình thật đau, những mong xua tan cơn buồn ngủ nhưng cảm thấy nếu cứ chống cự đến buổi tối trong tình trạng như thế này sẽ vô cùng khổ sở. Chi bằng đến khách sạn nằm nghỉ ngơi một chút vậy.

Sau khi quyết định, tôi lập tức đi lấy vali du lịch từ chỗ cất giữ hành lý tự động, rồi bắt taxi. Nghe tôi nói tên khách sạn, tài xế khẽ chau mày. Chưa đầy hai phút, xe đã đỗ bên đường, ngay cạnh khách sạn.

Trả tiền xong, tôi đi qua khu sảnh nhỏ hẹp thẳng đến quầy lễ tân. Chưa đến thời gian nhận phòng, nhưng nài nỉ mãi, nhân viên phục vụ cũng đành miễn cưỡng đưa chìa khóa cho tôi.

Có lẽ bởi không đặt quá nhiều kỳ vọng vào khách sạn nên tôi cảm thấy căn phòng lớn hơn hình dung của mình, hơn nữa còn rất thoải mái. Tường phòng được sơn màu trắng, giường cũng màu trắng, ngay cả bức tranh nhỏ treo trên tường cũng có màu trắng nhạt. Ở khách sạn trên đảo Saipan, tường phòng được vẽ lên một vài hình thù đại loại như sóng biển và cá, cả căn phòng khiến người ta có cảm giác bồng bềnh bất định. Nhưng ngược lại, với kiểu trang trí này căn phòng này lại khiến người ta cảm thấy nhẹ nhõm, dễ chịu.

Tôi kéo rèm cửa lên, hiện ra trước mắt là khung cảnh thành phố Fukuoka. Những ngôi nhà nối dài nằm san sát nhau, hệt như con đường trải dài xa mãi. Thành phố rộng lớn hơn tôi nghĩ, nhưng phóng tầm mắt ra khoảng không rộng bên ngoài, tôi thấy nó cũng na ná những thành phố khác, không có gì nổi bật cả.

Bụng tôi réo lên từng hồi vì đói, nhưng cơn buồn ngủ còn mãnh liệt hơn. Kéo rèm cửa xuống, tôi cởi bỏ áo khoác ngoài rồi chui vào trong chăn.

Làn da bỏng nắng chạm vào ga trải giường lành lạnh. Ánh nắng dịu nhẹ của buổi chiều tà xuyên qua rèm cửa sổ đầy hoa văn, ve vuốt lên má tôi. Khi nơi sâu thẳm trong tiềm thức dần trở nên mơ hồ, cũng là lúc tôi suy nghĩ xem có nên gọi điện thoại cho chồng mình hay không.

Ngày mười bốn tháng Chín - trong đầu tôi hiển hiện ra con số ngày hôm nay. Hôm nay là kỷ niệm sáu năm ngày cưới, nhưng chúng tôi chưa từng một lần tổ chức chúc mừng ngày này. Vào ngày kỷ niệm một năm ngày cưới, Sasaki không về nhà, cũng chẳng gọi lấy một cuộc điện thoại. Sau hôm ấy, tôi luôn cố gắng quên đi nhưng càng dằn lòng phải quên thì ngày mười-bốn-tháng-Chín ấy lại càng khắc sâu trong tâm khảm tôi.

Thôi bỏ đi. Cho dù tôi có gọi điện thoại, Sasaki chắc hẳn cũng sẽ không chờ mong tôi quay về.

Kéo tấm chăn mỏng lên người, tôi nhắm nghiền mắt lại.

Khi tỉnh dậy, mở mắt ra, bỗng chốc tôi không nhớ nổi mình đang ở đâu và đã làm những gì.

Tôi chầm chậm ngồi dậy, đưa tay dụi mắt. Ngoài cửa sổ là sắc đêm mông lung... Tôi nhớ ra rồi, thì ra tôi đang ở trong khách sạn ở Fukuoka.

Tôi đi tắm cho sảng khoái, sau khi lau khô người, tôi mặc một bộ đồ lót mới. Vẫn chưa mặc quần áo, đầu quấn khăn tắm, tôi lấy chai nước trong tủ lạnh ngửa cổ tu ừng ực. Dòng nước lạnh buốt trôi thẳng xuống dạ dày. Vừa cảm thấy bụng rỗng thì nó đã réo lên từng hồi, tôi khẽ bật cười.

“Được rồi. Tao sẽ cho mày chút đồ ăn ngay bây giờ đây.”

Trước năm hai mươi lăm tuổi tôi cho rằng việc độc thoại không hay ho gì cho lắm. Thế nhưng, khi đã gần ba mươi, tôi cảm thấy việc lẩm bẩm vài câu cũng chẳng có gì đáng phải phàn nàn cả.

Tắm táp xong cơ thể thật thoải mái, tôi muốn mặc một bộ đồ mới. Tôi chu môi ngồi bên giường ngẫm nghĩ. Chiếc áo sơ mi sát nách mặc hồi nãy đã ướt nhẹp vì mồ hôi, mà mặc bộ đồ biển mua trên đảo Saipan kia để dạo phố thì kệch cỡm, lạc lõng quá. Còn bộ đồ mặc lúc xuất phát lại nhét mãi dưới đáy vali, nhàu nhĩ cả rồi.

Mua đồ mới vậy. Quyết định xong, tôi đứng phắt dậy, xỏ chiếc quần bò, sau đó lấy chiếc T-shirt mua cho chồng ra mặc, xỏ chân vào đôi xăng đan, trang điểm nhẹ rồi ra khỏi phòng.

Tìm một nhà hàng phù hợp trên con phố xa lạ là một việc tương đối phiền phức, vậy nên tôi đã gọi món gratin salad trong quán cà phê của khách sạn. Có lẽ bởi kỳ nghỉ hè đã kết thúc, hoặc khách sạn không được phong cách cho lắm nên trong quán cà phê và đại sảnh chẳng có mấy bóng người. Ăn uống xong, tự dưng thấy tâm trạng không mấy vui, nên tôi liền ra khỏi khách sạn.

Tôi chầm chậm dạo bước dọc theo con đường trên phố. Những nhân viên tan sở và những cô gái trẻ đang hối hả trở về nhà, họ lần lượt lướt qua, bỏ tôi lại phía sau. Trên con phố xa lạ, chút hoàng hôn cuối cùng của buổi chiều màu cam yếu ớt, nhập nhoạng trên nóc những tòa nhà đang đứng im lìm. Phía xa xa trên đỉnh núi lờ mờ dải mây ngũ sắc, mặt trăng lộ ra tròn vành vạnh như một khuôn mặt cười tràn đầy niềm vui.

Thoạt đầu, tôi có phần căng thẳng, cứ nhìn chằm chằm vào từng người đàn ông, nhưng dần dần cảm thấy mình làm vậy thật có chút nực cười, nên tôi không nhìn nữa. Cho dù anh ta có sống ở thành phố này đi chăng nữa, chúng tôi cũng không thể tình cờ gặp nhau trên phố dễ dàng như vậy được.

Tiếng cười nói vui vẻ của các cô gái làm dấy lên trong tôi chút hứng khởi và thôi thúc tôi bắt chuyện. Tôi liền mở lời hỏi một người phụ nữ trung tuổi dáng người hơi đậm đang đứng đợi đèn xanh ở ngã tư: “Thật ngại quá, xin hỏi bà có biết gần đây có hiệu sách nào không ạ?”

Người phụ nữ quay lại nhìn tôi, rồi nở nụ cười tươi rói: “Cô không phải là người Hakata, phải không?”

Nghe thấy đáp án ngoài sức tưởng tượng này, tôi bỗng không biết phải trả lời thế nào.

“Tôi cảm thấy thế. Trực giác của tôi rất chuẩn xác đấy. Cô cũng không phải là người Kyushu, đúng chứ?”

“À, tôi đi du lịch...”

“Đợi một lát, cô đừng nói gì cả. Ừm, cô là người Tokyo à?”

“Đúng vậy.”

“Đấy, thấy chưa. Tôi là người làm trong ngành bảo hiểm, mỗi ngày phải giao thiệp với rất nhiều kiểu người. Cho nên ấy mà, chỉ cần nhìn khuôn mặt cô là tôi biết cô từ đâu tới ngay.”

Người phụ nữ có mái tóc uốn xoăn, khuôn mặt to tròn, mập ú, hệt như chú mèo Maneki Neko[1], cười hì hì ngốc nghếch. Tôi thầm kêu khổ trong lòng. Bất luận ở ngóc ngách nào trên đất nước Nhật Bản này đều có thể bắt gặp kiểu phụ nữ trung tuổi vừa mở miệng là nói không ngừng nghỉ thế này.

“Đi du lịch? Cô đi một mình thôi sao?”

“À à...”

“Vậy thì nguy hiểm quá. Phụ nữ trẻ tuổi mà đi du lịch một mình, chắc thất tình hay vấp phải chuyện nào đó chứ gì.”

Bà ta cứ cười nói liên hồi, tôi ngán ngẩm quay đầu đi không chút kiêng dè. Tôi ghét nhất là loại người dây dưa và lắm mồm lắm miệng. Tôi hối hận đã chọn nhầm đối tượng để hỏi đường, nên ngẩng đầu lên nhìn đèn xanh đèn đỏ.

“Hiệu sách à, đi qua đường quốc lộ, bên kia có đấy.”

Chắc cảm nhận được sự lạnh lùng của tôi, người phụ nữ kia nói một câu gượng gạo.

Đèn giao thông ở “bên kia” mà bà ta chỉ vừa vặn chuyển từ đèn đỏ sang đèn xanh, tôi cuống cuồng nói một tiếng cảm ơn rồi chạy vội qua đường.

Cạnh hiệu sách có một quán cà phê. Mua xong cuốn sách hướng dẫn du lịch, tôi liền bước vào đó.

Lật vài trang, tôi phát hiện thành phố Hakata này lớn hơn rất nhiều so với tưởng tượng, có rất nhiều trung tâm thương mại, cao ốc, rạp chiếu phim, nhà hát... Những thứ Tokyo có, ở đây hầu như cũng có. Mặc dù chỉ nhìn thấy một phần nhỏ của thành phố nhưng những con phố tươi đẹp đã mang đến cho tôi một cảm giác rất tuyệt.

“Sớm biết nơi này đẹp như thế thì lấy một ông chồng Hakata cũng không tồi mà.”

Tôi khẽ lẩm bẩm như thế. Mặc dù chỉ là câu nói đùa nhưng lạ lùng thay, câu nói đó vừa thốt ra khỏi miệng, lập tức một cơn hối hận đắng chát đã vội kéo tới. Tôi cố gắng kiềm chế cảm giác muốn được gào khóc ngay tại chỗ, bèn nhắm mắt hít thở sâu, chờ đợi cơn bão cảm xúc bột phát ấy tan biến.

Ở một góc nào đó trong thành phố này, có một người tôi từng muốn lấy làm chồng - có lẽ anh ta đã không còn ở đây nữa. Anh ta là Kawami Shunichi - một người đàn ông có thân hình cao lớn, vạm vỡ.

Bảy năm trước, chúng tôi quen nhau ở Tokyo.

Sau khi tốt nghiệp chuyên ngành cắt may, tôi vào làm việc cho công ty may mặc mà mình yêu thích. Hai năm sau, tôi bắt đầu cân nhắc có nên thôi việc hay không. Hợp đồng quy định tôi làm việc ở bộ phận thiết kế nhưng cuối cùng tôi lại bị điều đến bộ phận kinh doanh, công việc hằng ngày vô vị hết sức, thêm vào đó là những lời mời đi ăn cơm tối của cấp trên liên miên không dứt, những thứ này có thể được gọi là quấy rối tình dục rồi chứ. Cảm giác chán ghét nặng nề ấy cứ đeo bám cuộc sống của tôi từng ngày. Và từ đó, tôi đã hình thành thói quen mua những cuốn tạp chí tìm kiếm việc làm.

Tôi quen Kawami trong một quán ăn khi đi dùng cơm trưa cùng đồng nghiệp. Mặc dù quán ăn nhỏ đến mức chỉ có độc một tủ bày hàng nhưng lại vô cùng sạch sẽ, ngăn nắp. Trên mặt tủ có bày nhiều loại ly, chén đựng rượu độc đáo, đó là một quán ăn khá lịch sự, tao nhã.

Kawami làm đầu bếp tại đó. Đường nét gương mặt anh ta hơi thô, tóc được cắt ngắn, mặc bộ đồng phục thẳng thớm, lúc nào cũng chỉ lẳng lặng làm việc.

Lúc đầu, tôi cho rằng Kawami là một người không dễ gần, nhưng sau vài lần tiếp xúc, anh ta chốc chốc lại dùng vẻ mặt cau có để nói “tặng em”, rồi đưa đến một suất cá sashimi theo mùa. Không lâu sau, anh ta bắt đầu cười với tôi.

Sau khi có thể trò chuyện thoải mái với ông chủ, bà chủ quán ăn và Kawami, tôi không còn đau đầu nhức óc về mấy chuyện phiền phức như nên mời ai cùng đi ăn cơm trưa nữa. Những hôm phải tăng ca, không thể về nấu bữa cơm tối, tôi thường một mình đến quán ăn ấy. Đối với người có cuộc sống độc lập như tôi, quán ăn ấy giống như một căn nhà bếp ấm cúng khiến tâm tình con người ta trở nên khoan khoái, dễ chịu.

Một ngày, bởi mấy chuyện vụn vặn nào tăng ca, nào những mối quan hệ khiến tôi mệt mỏi rã rời. Khi tôi đẩy cánh cửa của quán ăn, Kawami - người đầu tiên cất tiếng chào hỏi “chào đón quý khách” của thường ngày lại không có trong quán. Có lẽ do tôi lơ đãng vô tình lộ ra vẻ mặt thất vọng, bà chủ liền nở nụ cười ý vị, nói với tôi rằng Kawami xin nghỉ phép về quê. Tôi cuống quýt phân bua trước sự hiểu lầm của bà chủ, nhưng không hiệu quả. Bà ta cười hì hì, nói: “Mỗi lần Soko vào quán, Kawami cũng rất vui vẻ đấy nhé.”

Mấy ngày sau, dưới sự khuyến khích của ông bà chủ, tôi và Kawami bắt đầu hẹn hò. Thật ra tôi có thể từ chối, song tôi đã không làm thế. Có lẽ từ khi ấy, tôi đã có cảm tình với Kawami.

Nhưng ngày hôm ấy, bất kể khi cùng xem phim hay uống trà, Kawami luôn lơ đãng. Tôi giận lắm, không khỏi nghĩ lẽ nào chuyện Kawami thích tôi chỉ là ảo giác của ông chủ và bà chủ?

Lúc tiễn tôi đến cổng khu chung cư tôi ở, Kawami đột nhiên cúi đầu chào, miệng mấp máy nhìn tôi như muốn nói điều gì đó. Tôi còn chưa nghe rõ, anh ta bỗng thốt lên một câu: “Em có thể kết hôn với anh chứ?”

Tôi không nhớ rõ lúc ấy đã trả lời anh ta thế nào, chỉ nhớ bởi quá kinh ngạc, tôi có nói mấy câu gì đó rồi ba chân bốn cẳng chạy bay vào thang máy.

Từ trước tới giờ, anh ta chưa hề tỏ ra thích tôi, nay bỗng nhiên lại ngỏ lời cầu hôn, làm sao không khỏi khiến tôi hoang mang chứ? Nếu tôi nói không vui, là nói dối. Ừm, vui thì có vui...

Tối hôm ấy, khi đêm đã khuya, điện thoại tôi bỗng đổ chuông. Biết chắc là Kawami gọi đến, nhưng tôi cảm thấy mờ mịt, không biết có nên nhận cuộc điện thoại này hay không. Tôi cảm thấy, nếu nhận cuộc điện thoại này, sẽ phải trả lời rõ ràng có hoặc là không.

Điện thoại ngắt. Tôi vừa thở phào một hơi nhẹ nhõm thì bất thình lình điện thoại lại đổ chuông. Tôi cảm thấy không thể trốn tránh, đành nhấc ống nghe.

“Vừa rồi thật xin lỗi.”

Trong ống nghe truyền đến giọng nói ủ rũ của Kawami.

“Anh kể với ông bà chủ rằng đã trực tiếp cầu hôn em, kết quả bị họ mắng cho một trận. Anh muốn nói lại một chút. Cái đó... ừm... Chúng ta còn có thể cùng nhau ăn cơm không...”

Nghe thấy giọng nói cực kỳ thiểu não của anh ta, suýt chút nữa tôi đã bật cười. Chuyện gì đến cũng sẽ đến, tôi trở thành người yêu của Kawami.

Khi đã bắt đầu qua lại tìm hiểu, ấn tượng anh ta để lại trong tôi có khác biệt rất lớn với khi ở trong quán ăn. Tôi vốn tưởng anh ta là một người thật thà ít nói, nhưng khi chỉ có hai chúng tôi với nhau, Kawami nói rất nhiều, hơn nữa còn rất thích cười. Điều khiến tôi kinh ngạc là anh ta rất thích làm nũng với tôi. Có lẽ từng bị ông chủ mắng một trận nên mặc dù không còn đề cập đến chuyện kết hôn nữa nhưng những hành động của anh ta lại thể hiện rõ ràng rằng, anh ta đã coi tôi là vợ tương lai của mình.

Tôi còn nhớ, tôi quen Sasaki - người chồng hiện tại của mình sau một tháng qua lại với Kawami. Một vị cấp trên thích lo chuyện bao đồng đã giới thiệu cho tôi đàn em thời đại học của gã. Tôi miễn cưỡng bị cấp trên lôi đến quán, lần đầu tiên trông thấy Sasaki, tôi đã giật nảy mình. Không ngờ trên thế giới này lại có người đàn ông mang đến cho người ta cảm giác tốt đẹp như thế? Tôi xuýt xoa, ấn tượng đầu tiên của tôi đối với anh ta vô cùng tốt. Nói thì có vẻ hơi tự phụ, nhưng hình như Sasaki cũng thích tôi ngay từ cái nhìn đầu tiên. Chẳng mấy chốc, hai chúng tôi đã sa vào lưới tình.

Sasaki rất gần gũi với hình tượng về người đàn ông lý tưởng được hình dung trong lòng tôi khi tôi mới hơn mười tuổi: Phóng khoáng, sạch sẽ, lúc nào cũng mỉm cười dịu dàng song không hề giả tạo. Mỗi lần đến nhà hàng cao cấp, cử chỉ của anh ta luôn đúng mực. Nếu đi hát karaoke, anh ta cũng sẽ chỉ hát bài tủ của mình, rồi sau đó sẽ cùng mọi người vui đùa.

Sasaki hơn tôi năm tuổi, năm ấy anh ta hai mươi bảy. Bởi tính chất công việc nên trông vẻ ngoài Kawami có vẻ trưởng thành, chững chạc nhưng thực ra anh ta chỉ mới hai mươi bốn tuổi.

Tôi biết làm như vậy là không đạo đức, nhưng tôi vẫn âm thầm so sánh Sasaki và Kawami. Sasaki làm việc cho một công ty quảng cáo, là một thanh niên thành thị phóng khoáng. Còn Kawami lại giống một kẻ gàn bướng... Tệ một nỗi là tôi thích cả hai, lựa chọn ai, vứt bỏ ai, tôi đều nuối tiếc.

Cảm giác tội lỗi bắt cá hai tay cứ luôn đè nặng lòng tôi. Dù thế nào tôi cũng không thể cùng lúc qua lại với cả Sasaki và Kawami được. Cả hai đều là người tôi thật lòng thích, nên cái ý nghĩ phản bội luôn tra tấn, giày vò tôi. Muốn thoát khỏi sự tra tấn này, tôi chỉ còn cách cuối cùng là quyết định lựa chọn ai.

Cơ hội đến nhanh hơn tôi tưởng. Cha của Kawami đổ bệnh, nghe nói phải nằm viện dài ngày, vì vậy Kawami nói với tôi, anh ta quyết định về quê ở Fukuoka. Anh ta đã thật lòng hỏi tôi: “Em có thể cùng anh quay về không?”

Tôi đứng đối diện với Kawami - người đang cúi đầu cầu xin, không trả lời. Trong đầu tôi đã hiện lên cảnh tượng khi mình về sống ở Fukuoka: Chăm sóc chồng, chăm sóc cha mẹ chồng chưa một lần gặp mặt, nhọc lòng lo chuyện cơm áo gạo tiền của gia đình, và ngày càng trở nên tầm thường. Tôi mới hai mươi ba tuổi, sinh ra ở Tokyo, lớn lên ở Tokyo, tại sao cứ phải cùng một người đàn ông có cha đang đau ốm nằm giường đến Kyushu để chôn vùi tuổi thanh xuân ở đó chứ?

Nếu kết hôn, tôi có thể từ bỏ công việc một cách suôn sẻ, điều này đang trúng ý tôi. Thế nhưng, tôi của ngày ấy còn chưa kiên quyết vứt bỏ ảo tưởng tốt đẹp về hôn nhân. Cuộc sống mà tôi tưởng tượng là: trong phòng khách sạch sẽ có bày những bình hoa tươi; cuối tuần, ông xã dịu dàng sẽ đưa tôi đi hóng gió. Tôi nghĩ, người có thể thực hiện được giấc mộng này của tôi, không phải là Kawami, mà chính là Sasaki.

Vì thế, tôi dần sợ gặp Kawami. Anh ta cứ rượu vào là nói năng lỗ mãng. Tối nào cũng gọi điện, nếu tôi về nhà quá muộn, anh ta còn buông lời oán trách không ngớt. Tôi sợ cuộc sống bị anh ta trói buộc mà mất đi tự do.

Có điều, tôi vẫn có chút mông lung. Sasaki không cầu hôn tôi, hơn nữa tôi chỉ biết Sasaki qua vẻ bề ngoài. Cho dù khi cả hai đã ở trên giường, Sasaki vẫn luôn tỏ ra vô cùng khách sáo.

Từ điểm này cho thấy, Kawami là người đàn ông trong ngoài như một. Anh ta không có ác ý, cho dù khi uống say có những biểu hiện thất thố nhưng sau khi tỉnh rượu sẽ lập tức hối lỗi một cách tội nghiệp. Ngoài miệng dù tuyên bố bản thân là người gia trưởng nhưng khi tôi làm việc mệt mỏi, anh ta luôn chăm sóc tôi một cách chân thành.

Dẫu vậy, cuối cùng tôi vẫn lựa chọn Sasaki. Lúc tôi nói bóng gió muốn kết hôn, điều khiến tôi kinh ngạc là Sasaki lập tức cầu hôn tôi. Anh ta cười nói, đúng lúc cũng đang muốn xây dựng gia đình. Tôi còn chưa nói gì, Sasaki đã bắt đầu sắp xếp các công việc và thủ tục của lễ cưới đâu ra đấy.

Chuyện của Sasaki, đương nhiên tôi không nói cho Kawami biết. Tôi chỉ nói với anh ta rằng: “Em không thể đi cùng anh.” Lúc đó, anh ta lập tức khựng lại, nhưng rồi cũng chỉ buông tiếng thở dài nặng nề mà không nói gì cả. Anh ta lẳng lặng về quê. Tôi không đến quán ăn ấy nữa, cũng không biết thêm tin tức gì của Kawami, chỉ nghe đồng nghiệp nói rằng, hình như anh ta vẫn làm đầu bếp ở Hakata. Tôi biết chuyện này không phải cứ nói lời xin lỗi là có thể giải quyết nhưng không biết bao lần trong đêm tối tôi đã quỳ trên giường thầm xin lỗi Kawami. Mãi cho đến ngày tôi và Sasaki tổ chức hôn lễ, nước mắt tôi cũng chưa cạn.

“Có thể thu dọn được chưa ạ?”

Bỗng tiếng nói của một cô gái vang lên. Tôi giật mình, ngẩng đầu lên nhìn, nữ phục vụ đứng bên cạnh tôi, ý muốn thu dọn tách cà phê đã nguội ngắt từ lúc nào. Tôi vội vàng gật đầu.

Nhìn gương mặt phản chiếu của mình trên kính, tôi chán nản lắc đầu. Giờ nghĩ lại chuyện cũ đã qua từ lâu còn có tác dụng gì nữa đây? Đáng ra tôi không nên ở lại Hakata.

Tôi đứng dậy, cầm hóa đơn đến quầy thanh toán. Tôi định không đi mua quần áo nữa mà đi tìm công ty du lịch mua vé trở về Tokyo vào ngày mai, sau đó quay lại khách sạn ngủ một giấc. Mang theo suy nghĩ ấy, tôi bước ra khỏi quán cà phê.

Vừa đến phố mua sắm ngầm trong lòng đất, tôi đã nhìn thấy một công ty du lịch. Sau khi mua xong vé máy bay đi Haneda, tôi đi ra ngoài, nhìn đồng hồ, mới hơn sáu giờ.

Tôi bước bừa vào một cửa hiệu quần áo, muốn xem thế nào. Kiểu dáng quần áo ở Hakata cũng giống Tokyo, chẳng có gì khác biệt. Mặc dù lúc đầu không có ý định mua quần áo, nhưng vừa nhìn thấy chúng, tôi lại dấy lên ham muốn mua đồ. Tôi đi dạo từ phố mua sắm ngầm trong lòng đất đến tòa cao ốc trưng bày các mẫu quần áo, bắt đầu lựa chọn những bộ đồ mình thích một cách nghiêm túc.

Khi cuộc hôn nhân với Sasaki dần trở nên bạc màu và có chiều hướng nhạt nhẽo, tôi lao vào mua sắm như điên. Tôi mua ào ào những bộ đồ thời trang, túi xách tay, giày dép, đồ trang sức... Còn thưởng thức nhiều đồ ăn ngon, đi du lịch khắp nơi. Mặc dù tiền không nhiều như nước tràn, nhưng chỉ dựa vào đồng lương của chồng thôi, cuộc sống của tôi cũng đã dư dả lắm rồi. Tôi dùng toàn bộ số tiền mình làm thêm được để mua những thứ tôi thích còn một nửa số tiền chồng đưa để tiêu xài hàng ngày.

Mua xong mớ đồ, tôi cảm thấy cơn u sầu của mình có phần tan đi ít nhiều. Đúng vậy, trước đây chỉ cần khoác lên mình những bộ đồ mới, được nghe những nhân viên cửa hàng khen rằng tôi trẻ hơn năm sáu tuổi so với tuổi thực, lòng tôi mới cảm thấy nhẹ nhõm và vô cùng vui sướng.

Song, thời gian gần đây, tôi lại cảm thấy vô cùng trống rỗng, không hiểu nổi tương lai rốt cuộc phải làm thế nào, nó mịt mù và không có ý nghĩa. Chọn sai đối tượng kết hôn, không tìm được lý do ly hôn, lại không nắm được cơ hội ly hôn. Vừa không có công việc khiến tôi dốc hết nhiệt huyết, lại không có tình nhân khiến tôi có thể bất chấp tất cả để chạy trốn khỏi tất thảy. Tôi không có việc gì có thể làm. Trong một khoảng thời gian rất dài về sau này, có lẽ tôi chỉ có thể tiếp tục cuộc sống vô vị, hư không này mất.

Vừa nghĩ, tôi vừa mải miết lựa chọn quần áo, váy vóc được trưng bày trong tiệm. Tôi muốn tìm một chiếc váy liền thân màu trắng, phải là màu trắng tinh khiết không có bất kỳ điểm xuyết nào, nó đơn giản như trang phục mà các ngôi sao điện ảnh hay mặc thời kỳ sau những năm 1920, nhưng lại mang nét đẹp hiện đại... Ồ, chính là loại nét đẹp ấy!

Bỗng nhiên, một người phụ nữ có mái tóc dài mặc chiếc váy liền thân kiểu dáng hình chữ A màu trắng, áo len ngắn tay khoác ngoài lướt qua tôi. Ánh mắt tôi bất giác tìm kiếm bóng hình cô ta. Chẳng hiểu sao, tôi cứ nhìn chằm chặp vào bóng lưng của người đàn ông đang sánh bước cùng cô ta.

Tôi trợn tròn hai mắt.

Người đàn ông kia đang nhìn cô gái và nói điều gì đó. Giây phút trông thấy khuôn mặt của anh ta ở góc nhìn nghiêng, tôi há hốc miệng, không nén nổi nỗi hốt hoảng.

Anh ta là Kawami.

Không sai, đó chính là Kawami.

Làm sao bây giờ? Là Kawami.

Tôi luôn cho rằng sẽ không bao giờ thấy anh ta nữa, nhưng hiện giờ anh ta lại ở trước mặt tôi. Kawami đang ở đây.

Cuộc gặp gỡ được chờ mong từ lâu đột ngột trở thành hiện thực bỗng khiến tôi không biết nên làm thế nào cho phải. Đầu óc thoắt trở nên mụ mẫm, không thể suy nghĩ được gì hết, chỉ có trái tim đang đập thình thịch, chừng như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực.

Tôi cuống quýt xô đẩy đám người, vội chạy đuổi theo Kawami. Tôi chẳng nghĩ ngợi gì cả, chỉ chìa tay ra muốn chạm vào lưng anh ta, đầu móng tay thiếu chút nữa đã chạm vào bả vai Kawami. Bỗng nhiên, người phụ nữ đi cạnh anh ta quay đầu nhìn khiến tôi hốt hoảng, vội vàng thu tay về. Ánh mắt cô ta không dừng lại trên người tôi mà đưa mắt quét nhìn về bốn phía, rồi quay người lại tiếp tục bước về phía trước.

Ngay giây phút ấy, tôi thu tay về đặt trước ngực, trợn mắt há hốc mồm đưa mắt nhìn theo Kawami và người phụ nữ kia bước về phía xa.

Cô ta cực kỳ giống tôi.

Chỉ là một cái liếc mắt nhưng tôi đã cảm thấy cô ta cực kỳ giống mình.

Tôi bất an khắc khoải nhưng lại vì chuyện Kawami chọn cô gái giống mình mà cảm thấy vui sướng. Trong lòng tôi, hai loại tâm trạng này hệt như những cơn gió lốc sục sôi mãnh liệt.

Bóng họ dần xa khuất nơi cầu thang cuốn chạy xuống phía dưới, tôi vội vàng hấp tấp đuổi theo, như có cơn lốc ở phía sau lưng cuốn phăng tôi đi vậy.

Kawami và người phụ nữ kia đi thẳng đến phố mua sắm ngầm trong lòng đất rồi bước về phía ga tàu điện ngầm.

Hai người họ mua vé, tiến vào cửa soát vé. Tôi cũng vội vàng nhảy qua cột trụ phía sau, chạy đến mua vé. Sau khi ấn chọn nút cự ly ngắn nhất, tôi mới phát hiện đáng ra phải ấn nút có cự ly xa nhất, như vậy tôi mới có thể xuống tàu ở bất kỳ trạm ga nào. Nhưng nếu mua lại vé, tôi sẽ để mất dấu họ, vậy nên tôi cầm chiếc vé ấy vọt vào cửa soát vé.

Vừa lao xuống bậc thang, tôi đã nhìn thấy Kawami. Tôi đứng sau họ, cách vài người, trên tàu điện ngầm. Tôi tìm một vị trí có thể nhìn thấy họ từ cửa kính trên toa xe, rồi cúi đầu đứng yên ở đó.

Mỗi lần đến một trạm ga, tôi đều lén lút quay người lại xác nhận bóng dáng của Kawami có còn trên tàu không. Mỗi lần như thế, cơn sóng lòng trong tôi lại trào dâng cuồn cuộn, hay là không trốn nữa, cứ vui vẻ tiến đến chào hỏi nhỉ?

Thế nhưng, Kawami và người phụ nữ kia ôm lấy eo nhau, nhìn nhau nở nụ cười như một cặp vợ chồng mới cưới. Họ áp mặt vào nhau nói điều gì đó, cánh môi sắp chạm vào nhau. Nhìn dáng vẻ của họ, sao tôi có thể tiến lên mà chào hỏi đây, thậm chí bám đuôi theo họ tôi cũng còn cảm thấy chột dạ nữa là. Hay là thôi, quay về? Mặc dù nghĩ vậy nhưng tàu dừng mấy lần, chân tôi vẫn không thể nhúc nhích.

Cứ chần chừ như thế khoảng mười phút, tôi thấy họ buông nhau ra và đi về phía cửa. Chắc họ sẽ xuống ở ga tới rồi. Chắc chắn Kawami sống ở vùng này. Nghĩ vậy, tự dưng trong tôi lại dấy lên cảm giác muốn xác định nơi ở của Kawami. Nếu cứ thế này mà quay về, có lẽ cả đời này sẽ không bao giờ gặp lại nhau nữa thật, nhưng nếu biết địa chỉ, chí ít tôi có thể gửi tấm bưu thiếp cho anh ta vào những dịp nào đó. Có lẽ tương lai hai chúng tôi còn có thể gặp nhau thì sao.

Tôi theo họ xuống tàu, quẹt vé vào máy soát vé tự động. Đúng lúc muốn nhanh chóng được thông qua thì từng hồi chuông cảnh báo vang lên. Giống như một chậu nước lạnh giội xuống đầu, tôi không nhịn nổi mà thất vọng la to lên. Người phụ nữ của Kawami đang đi về phía trước nghe thấy tiếng kêu liền chầm chậm quay người lại. Tôi hốt hoảng xoay người đi, cảm thấy mồ hôi đang túa ra khắp mình như dòng suối.

Tôi cuống cuồng nộp tiền cho nhân viên ga tàu đang từ phòng làm việc chạy ra, sau đó xông lên bậc thang, chạy lên mặt đất. Trạm giao thông công cộng và trung tâm thương mại đập vào tầm mắt, người đông như kiến nhưng tôi không thấy họ đâu. Tôi như phát điên chạy đi chạy lại trong đoàn người đợi xe và dòng người qua đường.

Tôi mất dấu bọn họ rồi sao?

Thở phì phò, tôi bối rối đứng lẫn trong đoàn người.

Cứ thế này, quả thực là cả đời này sẽ không bao giờ còn gặp được Kawami nữa sao? Miên man trong dòng suy nghĩ, sống mũi tôi bỗng cay xè, ánh đèn màu của quán Pachinko phía bên kia đường nhòe nhoẹt, méo xẹo đi trong dòng nước mắt nóng hổi của tôi.

Đúng lúc này, may mắn đã xuất hiện. Một đôi tình nhân đang tay trong tay, thong thả bước trên con đường tấp nập phía đối diện. Là Kawami. Họ tạm biệt nhau trước cửa quán Pachinko, vẫy tay chào tạm biệt như trẻ nhỏ chào nhau vậy. Sau đó, hai người tách nhau ra: Kawami đi vào quán, còn người phụ nữ kia đi tiếp trên con đường lớn.

Tôi không còn nghĩ gì hết, cũng chẳng chần chừ, phăm phăm xông vào dòng xe cộ. Tiếng còi ô tô cùng tiếng phanh xe ken két vang lên không ngừng ở phía sau lưng, tôi chạy như bay về phía đèn màu. Chỉ một chút nữa thôi là đến trước cánh cửa tự động của quán Pachinko, bỗng một người đứng trước mặt tôi, cả hai không né kịp, đâm sầm vào nhau.

“Xin... xin lỗi.”

Tôi vội vàng lùi lại một bước, thoát khỏi cái ôm của người kia.

“Cô có sao không?”

Dưới ánh đèn màu của quán Pachinko, người phụ nữ của Kawami đang đứng trước mặt tôi.

“Nếu tôi không nhầm, từ nãy tới giờ cô luôn theo sau chúng tôi, phải không? Nếu như tôi nhầm, mong cô tha lỗi. Nhưng mà...”

Nói tới đây, cô ta đột nhiên bụm miệng lại. Còn tôi, từ khoảnh khắc nhìn trực diện gương mặt của cô ta, đã thảng thốt không nói nên lời.

Cô ta lẳng lặng bước từng bước đến gần tôi. Ánh đèn màu hắt tia sáng lên khuôn mặt cô ta. Tôi hốt hoảng, nín thở.

Cô ta nói: “Cô, là ai?”

Cô, là ai?

Cô, là ai?

Rốt cuộc cô là ai?

Tôi kinh ngạc nhìn người phụ nữ giống tôi như đúc.

Cơ thể tôi giống như bị sợi dây thừng siết chặt lấy, không thể nhúc nhích. Đây không phải là kiểu giống nhau đơn giản, mặc dù kiểu tóc và trang điểm có sự khác biệt, mà người đang đứng trước mắt tôi đây, giống tôi như tạc.

Không cần nhìn kỹ cũng có thể hiểu. Tóc, làn da, tay, giọng nói, đâu chỉ là na ná, mà là giống nhau như đúc. Quả thực là không thể ngờ. Không phải là na ná, mà bất cứ nét nào cả hai chúng tôi cũng giống y chang nhau.

Tôi sửng sốt đến độ không thể nhúc nhích, cơn hốt hoảng lũ lượt kéo đến, nó như từng phím đàn nện vào lưng tôi, rồi chạy thẳng đến não. Trong nháy mắt ấy, tất cả giống như tình tiết gay cấn trong phim vậy, giây phút sự trói buộc của câu thần chú đã được cởi bỏ.

Tôi dốc toàn lực băng qua người phụ nữ trước mặt chạy như bay ra ngoài.

Đó là cái gì vậy?

Đó là tôi.

Không sai. Đó chính là tôi.

Thật đáng sợ.

Tôi chỉ còn cách bỏ chạy.

Tôi đã nhìn thấy thứ không nên nhìn.

Lý trí đã bỏ chạy, tôi đành phải ngoan ngoãn thuận theo nỗi sợ hãi bản năng đang trào dâng trong lòng mình.

Tôi cuống cuồng chạy trên con đường mà mình không biết tên, cũng chẳng biết mình đã chạy được bao nhiêu lâu. Mãi khi chạy đến trước một sườn dốc, hai chân không thể nhúc nhích được nữa, tôi mới dừng lại. Tôi vắt người lên lan can bên đường, thở dốc, rên rỉ rồi ngồi thụp xuống.

Nhìn từng giọt mồ hôi trên trán rơi xuống mặt đất, tôi thoáng bình tĩnh lại.

Tôi nhấc tấm thân nặng nề, từ từ đứng dậy. Nhìn quanh bốn phía, dưới ánh sáng của ngọn đèn đường có thể thấy xung quanh có mấy ngôi nhà hai tầng. Rốt cuộc tôi đã chạy bao lâu nhỉ? Đã bao nhiêu năm rồi tôi chưa từng chạy bạt mạng thế này?

Bỗng nhiên, một chiếc máy bán hàng tự động lọt vào tầm mắt. Tôi đi đến đó, mua một lon Coca, mở ra uống một hơi hết sạch, đang định quẳng vỏ lon vào thùng rác, bỗng nhìn thấy một người phụ nữ mặc đồ trắng đang từ chỗ ngoặt bên dưới sườn dốc đi lên.

Sự hốt hoảng vừa rồi đã không còn. Tự sâu thẳm trong lòng, tôi sớm hiểu rằng cô ta nhất định sẽ đuổi theo, chúng tôi cần phải nói chuyện với nhau một cách nghiêm túc.

“A, cuối cùng đã gặp được cô rồi.”

Cô ta tiến lên, nhìn tôi đang tựa người vào máy bán hàng tự động, mỉm cười nói. Cô ta đang cười. So ra thì cô ta có vẻ ung dung hơn tôi.

“Tôi cứ ra sức gọi cô, nhưng cô lại chạy mất. Ừm, cô quen biết tôi không? Hai chúng ta có quan hệ gì nhỉ? Chỉ là hai người xa lạ giống nhau như đúc thôi sao? Hay chúng ta là chị em song sinh?”

Cô ta đứng trước mặt tôi, cũng thở phì phò. Tôi cười, lắc đầu, nụ cười đã biến dạng.

“Tôi không biết.”

“Tôi có thể biết tên cô không?”

“Sasaki Soko.”

Cô ta trợn tròn mắt.

“Cô tên là Soko? Cô nói dối tôi phải không?”

“Chẳng lẽ tên của cô là Kawami Soko?”

Nụ cười tắt ngấm trên gương mặt cô ta.

Trong sắc đêm, dưới ánh sáng của ngọn đèn trên máy bán hàng tự động, hai chúng tôi nhìn nhau chằm chằm, cơ thể gần như đông cứng.

Dưới sự đề nghị của cô ta, chúng tôi đến công viên ngay cạnh đó.

Công viên rất nhỏ, phía góc chỉ có một ngọn đèn đường. Tôi và cô ta ngồi xuống ghế dưới ngọn đèn đó.

Cô ta ngửa cổ uống lon Coca được mua từ máy bán hàng tự động hồi nãy, tôi lẳng lặng lén nhìn khuôn mặt nghiêng nghiêng ấy.

Khi nãy, tôi hoảng hốt bởi cảm thấy chúng tôi là cùng một người, nhưng hiện giờ bình tĩnh lại, nhìn thế này, tôi phát hiện ra rằng chẳng qua cô ta chỉ có vẻ ngoài giống tôi mà thôi.

Tại sao tôi lại hốt hoảng như vậy chứ?

Không ngờ tôi lại cảm thấy sợ hãi như một kẻ ngốc, ra sức trốn chạy, đúng thật là có chút không bình thường rồi. Tôi cười méo xệch, cô ta ngồi bên cạnh cũng nhìn tôi cười.

“Thật sự là rất giống đấy.”

Nụ cười của cô ta khiến người ta cảm thấy thoải mái. Tôi nói bằng giọng thân thiết:

“Đúng vậy. Không phải mọi người vẫn nói rằng trên thế giới này sẽ có hai, ba người giống nhau à.”

“Nhưng... tôi luôn cho rằng đó là chuyện thêu dệt.”

“Chắc chắn là có, đến tên cũng còn giống nhau nữa cơ mà.”

Nghe thấy thế, tôi ngẩn người suy nghĩ. Hai người giống hệt nhau đã đành, sao đến tên cũng giống nhau chứ? Đến tên cũng giống nhau, vậy chắc chắn là có quan hệ huyết thống, chẳng lẽ có bí mật khi chào đời mà tôi không hề hay biết? Nghĩ tới đây, tôi bật cười khe khẽ. Gia đình chúng tôi quả thật có chút không giống những gia đình bình thường khác, nhưng đó chỉ là chỉ chuyện mẹ tôi qua đời khi tôi lên bốn tuổi, còn những chuyện kiểu như bí mật chào đời - loại chuyện cường điệu hóa thế này, tôi không thể tưởng tượng nổi.

“Đúng rồi, vừa rồi cô hỏi, chúng ta có phải là chị em song sinh hay không. Cô có chị em song sinh không?”

Tôi nửa đùa nửa thật hỏi cô ta. Cô ta chậm rãi lắc đầu.

“Tôi nghĩ là không có.”

“Tôi nghĩ” - nghe cô ta nhấn mạnh từ này, tôi không nén nổi nói:

“Trả lời mơ hồ quá.”

“Ừm. Khi tôi được bốn tuổi, mẹ tôi bị bệnh qua đời. Trong trí nhớ của tôi, chuyện ấy rất mơ hồ. Cha tôi tái hôn, rồi chúng tôi sống tách biệt từ lâu, cả hai đều rất xa cách.”

Tôi quá đỗi kinh ngạc nhìn chằm chằm vào gương mặt cô ta. Thấy vậy, cô ta áp sát đầu lại:

“Sao vậy hả?”

“Chẳng lẽ mẹ cô cũng mắc bệnh ung thư sao?”

“Đúng thế.”

“Cha cô tái hôn với một người phụ nữ tên là Abe, bà ta có hai người con riêng?”

Vừa nghe tôi nói hết câu, cô ta trợn tròn mắt.

“Không phải vì không thể sống nổi trong gia đình có người cha nhu nhược đã tái hôn nên tốt nghiệp trung học phổ thông, cô lập tức dọn ra ngoài sống tự lập đấy chứ? Sống trong căn hộ nhỏ không có nhà tắm ở Koenji?”

Hai chúng tôi nhìn nhau chằm chằm, tựa như muốn hút người từ trong mắt nhau ra vậy. Môi cô ta bắt đầu run khẽ.

“... Chúng ta... là cùng một người?”

Cô ta lắp bắp nói. Tôi ra sức lắc đầu, hệt như con sâu róm muốn lắc lư trên sợi tơ để rơi xuống vậy.

“Cô nói gì vậy, làm gì có chuyện ngớ ngẩn này chứ?”

“Nhưng... vậy sinh nhật của cô là?”

Sau khi tôi trả lời, cô ta liền rụt vai lại.

“Giống nhau.”

“Nói dối.”

“Tôi nói dối để làm gì?”

“Thế trong ba năm học cấp hai, nam sinh mà cô thích tên là gì?”

Tôi hỏi nghiêm túc, bởi chuyện này những người không liên quan sẽ không ai hay biết, vì ngay đến bạn bè tôi cũng không kể. Tôi cất giữ nó tận đáy lòng.

Cô ta cúi thấp đầu, hai tay chống cằm, chau mày. Biểu cảm này kiểu như đang cố gắng nhớ lại, vừa như bị tôi hỏi một vấn đề mà cô ta không biết, khiến cô ta bối rối.

Bỗng nhiên, cô ta ngẩng đầu lên, ánh mắt nhìn về chóp đỉnh của khung chơi leo trèo trẻ em, khẽ giọng lẩm bẩm: “Nhớ ra rồi.”

“Là Otsubo-kun. Anh ta học rất giỏi, chân có tật. Ôi ôi, tại sao tôi lại quên chứ? Mặc dù chưa từng nói chuyện, nhưng tôi vô cùng thích anh ta. Chân anh ta có tật, nhưng anh ta vẫn học thể dục cùng mọi người. Hằng năm cứ vào lễ tình nhân, tôi đều mua sô cô la, nhưng chưa một lần gửi tặng.”

Cô ta nhìn tôi, khuôn mặt rạng ngời. Nghe những lời này, tôi gật đầu, quên luôn cả sửng sốt, nhất thời sinh ra ảo giác đang ôn lại chuyện cũ với bạn cùng lớp.

“Đúng vậy, đúng vậy! Buổi lễ tốt nghiệp hôm ấy, tôi nhận được chữ ký của anh ta, vừa vui mừng vừa đau lòng, còn khóc những mấy ngày nữa cơ.”

“Sau đó, vào kỳ nghỉ hè năm đầu trung học phổ thông, tôi gửi cho anh ta một tấm bưu thiếp hỏi thăm tình hình của kỳ nghỉ hè đó, nhưng hình như anh ta chuyển nhà thì phải, bưu thiếp đã được gửi trở lại.”

“Lúc đó, tôi còn khóc nữa ấy.”

Hai chúng tôi đang trò chuyện hăng say, đột nhiên im bặt.

Trước mắt tôi, người có vẻ ngoài giống hệt tôi hình như sắp khóc. Không gian bị tiếng côn trùng bao bọc, còn chúng tôi đang trầm lặng không cất tiếng.

Hai chúng tôi tựa hồ như vừa không phải là người xa lạ giống nhau, vừa không phải là cặp song sinh có thân phận được che giấu.

Chúng tôi cùng xác nhận những việc từng trải qua của nhau, tên họ mẹ đẻ, thậm chí cả tên họ của người đàn ông cùng lên giường lần đầu tiên. Hai chúng tôi còn xòe bàn tay so sánh đường chỉ tay và dấu vân tay... tất cả đều giống nhau đến độ khiến người ta kinh hoàng.

Thật không thể khiến người ta tin nổi, dù nhìn thế nào, hai chúng tôi cũng đều như cùng một người. Song, tại sao chuyện như thế này lại có thể xuất hiện trong cuộc sống đời thực được chứ? Nếu nói là ảo giác, sao từ đầu đến cuối lại chân thực đến vậy?

Tôi lẳng lặng đưa tay ra, khẽ chạm vào cánh tay lộ bên ngoài chiếc váy liền thân màu trắng của cô ta. Cô ta nhìn xuống, khẽ cười.

“Tôi không phải là yêu quái, mà là người trần mắt thịt.”

“Đúng vậy. Nhưng... Chuyện gì đang xảy ra thế này? Lẽ nào tôi đang mơ một giấc mơ rất dài?”

Đúng vậy, có lẽ đây chỉ là một giấc mơ mà thôi. Tôi suy nghĩ mông lung. Có lẽ bởi cuộc hôn nhân với Sasaki khiến tôi bị tổn thương quá lớn, nên những hối hận mãnh liệt đã khiến tôi mơ một giấc mơ như thế.

Nghĩ đến đây, tôi bỗng nhiên nhớ ra...

Đúng vậy, người này đã kết hôn với Kawami.

Chuyện gì thế này? Trải nghiệm của cô ta và tôi là hoàn toàn giống nhau, nhưng hiện tại cô ta lại kết hôn với một người khác, sinh sống ở một nơi khác, sống một cuộc đời không gi?