26 ÓC TƯỞNG TƯỢNG CỦA BẠN THUỘC VỀ BẠN ĐẤY-
CÓ người nhìn được mọi vật bằng óc tưởng tượng, rõ như ở trước mặt vậy. Có người khó khăn lắm mới nhìn bằng óc tưởng tượng được và chỉ nhìn được một cách mơ hồ. Có người lại quả quyết rằng không thể nhìn bằng óc tưởng tượng được.
Có người khó nhìn bằng óc tưởng tượng được, nhưng lại nghe, hoặc ngửi, rờ, nếm một cách dễ dàng bằng óc tưởng tượng. Có lẽ bạn thuộc vào hạng người này chăng? Khi tưởng tượng một hỏa tiễn, có thể rằng bạn không nhìn thấy tia lửa đỏ xẹt ra, nhưng có thể nghe thấy tiếng nó rít lên rồi nổ, hoặc có thể ngửi hơi thuốc súng phun ra, có thể cảm thấy không khí quạt vào mặt bàn.
Và chúng ta đều biết rằng những cảm giác đó không phải chỉ đơn thuần là cảm giác. Nó còn gây ra những tình cảm, gợi những hồi ký, những liên tưởng nữa. Nó kéo theo một chuỗi ý tưởng. Nó gây nhiều phát hiện nội tâm hoặc dự cảm, dự tưởng.
Các nhà tâm lý học phân biệt óc tưởng tượng "tái diễn" - gợi lại những cảm giác đã qua - và óc tưởng tượng "sáng tạo", nghĩa là khả năng, kết hợp hình ảnh các cảm giác cũ rồi biến đổi nó một cách có ích và sáng tạo.
Vậy tiếng "tưởng tượng" bao gồm một khu vực rộng về hoạt động tinh thần. Ở mức thấp nhất, là khả năng nhìn thấy một vật quen thuộc bằng óc tưởng tượng; ở mức cao nhất, là khả năng sáng tạo về nghệ thuật và khoa học.
Tuy nhiên, khả năng sáng tạo không phải là độc quyền của các thiên tài như Shakespeare, Einstein. Có một khu vực, một khoa học về sinh hoạt, một nghệ thuật làm người, mà ai cũng có thể và có bổn phận dùng óc tưởng tượng để sáng tạo được.
Khéo dùng óc tưởng tượng, là luyện được nghệ thuật sống đầy đủ. Khéo tưởng tượng óc tưởng tượng của người khác là luyện được nghệ thuật sống với người khác.
Tôi đề nghị với bạn trò chơi này để tìm hiểu xem óc tưởng tượng của người khác hoạt động cách nào. Bạn rán chơi trò đó một mình, hoặc với một vài bạn bè, với trẻ em, với người lớn trong một cuộc hội họp. Bạn sẽ thấy óc tưởng tượng của con người có biết cơ man nào là hình thức. Trò chơi thú vị lắm.
Bạn bảo họ nhắm mắt rồi ca thầm cho chính họ nghe thôi khúc thứ nhất và điệp khúc quốc thiều; ca xong thì mở mắt ra.
Rồi bạn hỏi họ: Sao có gì lạ không? Cảm thấy gì, suy nghĩ gì, tưởng tượng gì, trong khi nghe bằng óc tưởng tượng lời ca âm thầm đó?
Bạn sẽ thấy mỗi người trả lời một khác.
Có người thì tưởng tượng tất cả đoàn thanh niên tiến lên; có người lại chỉ nghĩ rằng bạn muốn đùa họ.
Một người khác chỉ cảm động về nhạc mà không chú ý lời ca, một người khác nữa lại chỉ chú ý tới lời và nhớ lại những biến cố trong lịch sử.
Có khi bản quốc thiều gợi được một phản ứng về cơ thể; thân ta có thể cứng rắn lại, chân bậm trên mặt đất, ngón tay níu lấy đường khâu ở quần áo, và ta cảm thấy mưa quất vào mặt, y như khi ta còn là một binh sĩ đứng ngay ngắn nghe hiệu lệnh.
Có người lại nghe tiếng quốc kỳ phất phất dưới ngọn gió; có người chỉ nhìn thấy những cảnh chiến đấu và khải hoàn.
Có người chỉ nghĩ tới tình cảnh riêng của mình, chỉ có những tình cảm riêng của mình; nhưng có người lại phản ứng một cách tập thể, có một cảm xúc mơ hồ về lòng ái quốc của toàn dân.
Vậy là ngoài mặt họ, ta không thấy có gì khác cả; họ đều thầm lặng tưởng tượng khúc quốc thiều và lời ca rồi cảm xúc trong thâm tâm thôi.
Khó mà tưởng tượng được người khác tưởng tượng cái gì. Muốn vậy, chẳng những phải có óc tưởng tượng phong phú mà lại còn cần có tài đoán được phản ứng của người khác. Nếu óc tưởng tượng của một người nào đó thuộc những cảm giác về thể chất thì người đó khó mà hiểu được rằng trong đời lại có những người mà cảm giác không gợi một hồi ký nào cả.
Mục đích thuật chỉ trong chương này là giảng cho bạn thấy rằng bạn có thể điều khiển óc tưởng tượng của bạn.
Óc tưởng tượng của bạn thuộc về bạn đấy.
Nó thuộc về bạn, chứ không phải bạn thuộc về nó.
Nó là một khả năng huyền bí mà ta phải điều khiển chứ đừng để cho nó điều khiển ta. Ta phải làm chủ chứ đừng làm nô lệ nó.
Bạn thử tưởng tượng xem đời sống thiếu nó thì sẽ ra sao! Không hề có Michel Ange, Leonard de Vinci, Edison, không có các bậc thánh hoặc những kẻ phạm tội, không có Mozart mà cũng không có năng lực hạch tâm.
Các bậc thánh, các bậc thiên tài sở dĩ vượt lên trên hạng người thường là nhờ biết điều khiển óc tưởng tượng, bắt nó phải tuân theo thiện chí, tài năng, kỷ luật và nhiều đức tốt khác nữa. Còn những kẻ phá hoại, gây đủ các điều ác kinh khủng là vì để cho sự ngu xuẩn, ác ý, tính sợ sệt, ghen ghét điều khiển óc tưởng tượng.
Trong một bài viết về tâm lý của óc tưởng tượng, Frank Baron bảo: "Từ khi loài người nhận thức được chính mình, thì óc tưởng tượng luôn luôn có cái gì bí mật, như có ma thuật, và chưa ai hiểu được hoàn toàn sự diễn tiến của nó ra sao".
Trong chương này, chúng ta không xét những trường hợp cực đoan, tức trường hợp các vị thánh và các kẻ phạm trọng tội, của các bậc thiên tài và các kẻ cuồng tín. Chúng ta chỉ xét cách dùng óc tưởng tượng trong đời sống hằng ngày.
Cũng như mọi khả năng khác, óc tưởng tượng có thể bị khô cằn, bóp nghẹt, hoặc được kích thích, tưới nhuần, bồi dưỡng.
Nhiều người nói: "Tôi không có óc tưởng tượng".
Hãy khoan đã. Đừng vội nhẹ dạ phủ nhận như vậy. Đôi khi bạn có óc tưởng tượng đấy, nhưng lại bỏ quên nó trong một cái kho bụi bặm mà không đem ra dùng. Mới đầu, có một lý do gì chánh đáng đấy. Có thể rằng những người tưởng rằng mình không có óc tưởng tượng lại là những người mà óc tưởng tượng phong phú nhất. Hồi nhỏ, óc tưởng tượng của họ dồi dào quá, phóng túng quá đến nổi họ không để ý tới sự thực hoặc bóp méo sự thực đi, làm cho người lớn ngạc nhiên, bối rối.
Có thể rằng họ đã bị đòn và bị người lớn rầy: "Mới nứt mắt ra mà đã nói dối".
Rồi họ bất giác cho rằng hễ có một óc tưởng tượng linh động quá thì phải đòn, phải trả một giá quá đắt; chi bằng nhốt óc tưởng tượng vào một kho chứa đồ đi, khóa cửa lại rồi treo một cái bảng ngoài cửa. Tấm bảng đó có thể mang hàng chữ này: "Nguy hiểm - Đừng đụng tới", hoặc "Mày xấu xa lắm!", hoặc "Mày nói dối", "Mày không bao giờ nói đúng sự thực", "Nó điên lúc nào cũng tưởng tượng bậy bạ". Những lời đó ghi sâu vào óc họ, họ lại nhớ một sự nhục nhã nào, hoặc một trận đòn nên thân nào đó nữa. Thường thường những kẻ đã trải qua kinh nghiệm đau đớn đó, truyền lại kinh nghiệm cho con mà không ngờ.
Tất nhiên, có lúc ta phải đề phòng óc tưởng tượng của ta.
Năng lực của nó về phương diện phá hoại cũng mạnh như về phương diện sáng tạo. Dưới đây tôi xin kể vài thí dụ xảy ra hàng ngày về sự tưởng tượng phá hoại:
Một bà vợ tưởng và phàn nàn rằng ông chồng keo cú - nhưng thực ra ông chồng kiếm được bao nhiêu đem về cho bà hết.
Một ông chồng luôn luôn lo rằng vợ mình sắp bỏ mình côi cút - mà sự thực thì bà ở với ông đã hai chục năm rồi.
Một bà mẹ tưởng tượng rằng đứa con trai của mình không giải quyết lấy được những vấn đề của nó - mà sự thực thì cậu ta điều khiển công việc của cậu một cách rất khéo, đời cậu sung sướng, không có sự xung đột nào cả.
Trong những sự phán đoán lầm lẫn đó, tất nhiên còn có nhiều yếu tố khác, chứ không phải chỉ riêng có óc tưởng tượng. Nhưng trong các trường hợp kể trên, óc tưởng tượng đã đóng vai trò quan trọng hơn cả.
Trí tưởng tượng có sức rất mạnh. Nếu ta luôn luôn vụng điều khiển nó thì những ảo tưởng của nó sẽ bị nó biến thành sự thực.
Một ông chồng bị vợ luôn luôn trách là keo kiệt thì riết rồi hóa keo kiệt thật, không đưa tiền cho vợ nữa. Và một bà vợ luôn luôn đau khổ vì tánh đa nghi, ghen bóng ghen gió của chồng, rốt cuộc có thể phản kháng lại rồi đi ở nơi khác. Nạn nhân của những tình thế đó lúc bấy giờ sẽ la lên: "Tôi đã bảo trước rồi mà! Tôi nói có sai đâu!", Giá họ nói như vầy thì có lý hơn: "Tôi tự gây ra tình thế đó, đáng kiếp cho tôi lắm".
Trong mọi hình thức tuyên truyền, dù xấu dù tốt, người ta đều dùng những phương tiện để khêu gợi, kích thích rồi hướng dẫn trí tưởng tượng của đại chúng. Các xí nghiệp lớn tiêu cả triệu bạc vào quảng cáo để kích thích óc tưởng tượng của người mua và tạo cho họ những nhu cầu mới.
Khi ta nghĩ tới những công dụng tốt của trí tưởng tượng thì ta nhận thấy rằng tất cả cái gì tốt và đẹp phần lớn là do trí tưởng tượng tạo nên cả. Từ một chiếc cầu lớn tới một phát minh về hóa học, từ một bản nhạc hay tới một tiểu thuyết cảm động, từ một món ăn ngon tới một cải cách xã hội - tất cả những thành công của loài người phần lớn đều là công trình của trí tưởng tượng.
Vậy ta nên dùng cơ năng quí vô cùng đó một cách nào có lợi cho ta. Chẳng hạn nếu bạn không thỏa mãn về nét mặt hoặc về dáng dấp của bạn thì bạn nên làm như vầy, mỗi ngày nhiều lần và luôn trong một vài tuần, mỗi lần chỉ mất vài giây thôi:
Bạn nhắm mắt lại. Tưởng tượng một tấm gương.
Bạn chiếu vào tấm gương đó một hình ảnh của bạn như ý bạn muốn, có đủ những nét mặt: những dáng dấp mà bạn mơ tưởng: những nét và dáng dấp đó, bạn có thể tập được.
Làm như vậy lâu thì bạn có thể hi vọng rằng nét mặt và dáng dấp càng ngày sẽ càng giống nét mặt và dáng dấp bạn mơ tưởng. (Nhưng bạn nhớ xin đừng mơ tưởng những cái không thể có được nhé. Xin coi lại thuật NNL - NNL - NNL.)
Chúng ta phải tập dùng trí tưởng tượng khi ta khỏe mạnh để có thể sẵn sàng dùng nó khi ta đau ốm.
Môn y học, thời nào cũng vậy, xứ nào cũng vậy đều đã dùng đến óc tưởng tượng, có khi khéo dùng, có khi vụng dùng. Một thí dụ khéo dùng là thứ thuốc vô thưởng vô phạt (placebo). Thứ thuốc đó không chứa một dược liệu công hiệu nào cả, không làm cho bệnh biến chuyển một chút nào cả, nhưng người ta cứ cho người bệnh uống và bảo rằng sẽ hết bệnh. Khéo dùng thì thuốc đó rất quí: chẳng những nó giúp y sĩ đoán được bệnh mà nó còn làm cho người bệnh thấy bớt đau, dễ chịu hơn mà chẳng phải dùng tới những thuốc công phạt.
Từ 25 đến 35% những người đau về thể chất dùng thuốc đó mà bớt đau, mặc dầu thuốc không hề chứa một chất ma túy nào cả. Ba chục phần trăm nữa thấy dễ chịu được một chút. Còn khoảng một phần ba thì không thấy gì cả.
Ba hạng người đó khác nhau ra sao?
Các nhà bác học danh tiếng nhất đã nghiên cứu vấn đề ấy mà chưa giải quyết được một cách thỏa mãn. Nhưng chúng ta có thể nói rằng hạng người uống thử thuốc đó mà thấy bớt đau (tức hai phần ba tổng số bệnh nhân) đều có hai đức tính này:
Một óc tưởng tượng mạnh.
Một óc tưởng tượng dễ bị hướng dẫn (khi y sĩ bảo: "Thuốc này uống sẽ bớt" là ông ta hướng dẫn óc tưởng tượng của bệnh nhân).
Và có một sự liên hợp giữa óc tưởng tượng với cơ năng sinh lý. Sự liên hợp đó xảy ra cách nào, hoạt động ra sao thì tới nay còn là một bí mật.
Xét những bệnh nhân uống thứ thuốc vô thưởng vô phạt mà thấy bớt đó, ta không thể nào phủ nhận điều này nữa: tinh thần và cơ thể chỉ là một.
Đối với những người có óc tưởng tượng phong phú và dễ hướng dẫn thì thuật chỉ trong chương này sẽ là một trò thú vị mà dễ làm.
Nhưng xin bạn đừng tưởng rằng chỉ có lợi cho hạng người đó. Trái lại, những người tưởng rằng mình không có óc tưởng tượng lại chính là những người cần theo thuật hơn cả và thuật sẽ có lợi cho họ nhất.
Nhưng trước hết, tôi xin dặn bạn điều này: chúng ta càng dùng óc tưởng tượng của ta bao nhiêu, càng thả lỏng nó bao nhiêu thì lại càng phải nhận thức sự thực một cách rõ ràng, càng phải cẩn thận phân biệt mơ mộng và thực tế bấy nhiêu.
Bạn sẽ lầm lớn nếu cho rằng tưởng tượng và thực tế không dung nhau được. Trí tưởng tượng phong phú nhất là trí tưởng tượng nào biết dùng sự kiện rồi xếp đặt nó, điều hòa nó một cách sáng tạo. Trong mấy ngàn năm, biết bao nhiêu người nhìn trái táo rớt từ trên cây xuống đất, và nhìn mặt trăng lúc tròn lúc khuyết. Mãi tới khi Newton cùng nhìn hai sự kiện bề ngoài có vẻ rời rạc, không liên quan gì với nhau đó, rồi tưởng tượng ra sự liên quan của chúng1 mà nhân loại mới có được thuyết vũ trụ dẫn lực. Các bực thánh và các thi sĩ thì cũng vậy, dùng những mẫu hồi ký và những sự kiện lộn xộn mà tạo được một trật tự tinh thần, một nghệ phẩm.
1 Tác giả muốn nói: dùng óc tưởng tượng mà tìm được sự liên quan của chúng.
Chúng ta nên coi sự kiện như những trụ đá hoa trong các đền đài Hi-Lạp. Những cây hồng leo, rễ ăn sâu trong đất, cành quấn theo trụ, bắt qua các trụ bên cạnh, đong đưa dưới gió, tỏa hương khắp bốn phương. Những trụ đá hoa đó tức là sự kiện; còn cây hồng leo là trí tưởng tượng. Hai cái đó liên hợp với nhau, cây quấn lấy trụ, trụ nâng đỡ cây, nhờ đó mới có hoạt động sáng tác.
Và bây giờ tôi xin chỉ cách thực hành:
Nếu bạn tưởng tượng rằng bạn thiếu óc tưởng tượng thì bạn nghĩ tới một người mà bạn cho rằng có khả năng tưởng tượng.
Bạn nhảy vào địa vị người đó.
Nếu vì một lẽ riêng, óc tưởng tượng của bạn làm cho bạn khó chịu thì xin bạn coi lại thuật "Bắt từ ngữ phải phục vụ ta". Bạn làm theo thuật đó và dùng những câu này:
"Mày tưởng tượng."
"Mày nói dối."
"Thôi đừng bịa chuyện nữa."
"Thôi đừng tưởng tượng nữa."
Bạn có thể dùng bất kỳ tiếng hoặc câu nào khác mà bạn cho là liên quan tới khả năng tưởng tượng hoặc phát minh. Sự liên quan đó có thể mơ hồ, thầm kín, nhưng nếu bạn thấy sự liên quan thì cứ dùng tiếng hoặc câu đó, đừng do dự gì cả.
Nếu bạn cho rằng bạn có óc tưởng tượng nhưng không biết điều khiển nó, thì làm theo thuật NNL - NNL - NNL.
Trong cuốn này còn nhiều thuật khác giúp bạn giải phóng, hướng dẫn được óc tưởng tượng của bạn.
Nếu bạn không lợi dụng và điều khiển được ngay óc tưởng tượng thì cũng đừng lo buồn. Nó bị bó chặt lâu quá rồi đấy! Phải đợi một thời gian. Cũng như một cánh tay gẩy, bị bó thạch cao, khi gỡ thạch cao ra, đã có thể cử động như thường được ngay đâu.
Trước hết, phải quyết định gỡ bỏ thạch cao ra. Rồi phải có những đồ dùng cần thiết để gỡ nó. Sau cùng phải săn sóc cánh tay, cho nó tiếp xúc với không khí, với ánh sáng mặt trời, cho nó tập cử động lại.
Ai đã phải bó thạch cao chỉ trong năm hay sáu tuần cũng biết rằng phải lâu lắm chỗ bó mới mạnh mẽ lại như trước.
Óc tưởng tượng thì cũng vậy. Trước hết, bạn phải nhất quyết trừ bỏ những cái gì đã bó chặt nó từ hồi nào tới giờ. Rồi phải biết cách trừ bỏ những cái đó (Thuật "Bắt từ ngữ phải phục vụ ta" và vài thuật khác có thể giúp bạn trừ bỏ lớp thạch cao bó óc tưởng tượng của bạn, rồi dùng óc tưởng tượng vào đời sống hằng ngày). Sau cùng phải cho óc tưởng tượng tiếp xúc với không khí, ánh sáng, cho nó luyện tập. Hướng dẫn nó, chơi giỡn với nó.
Nếu bạn thấy rằng óc tưởng tượng của bạn được tự do, rằng nó thuộc về bạn, chứ bạn không thuộc về nó - thì bạn cứ vui vẻ chơi giỡn với nó. Dưới đây là vài cách chơi giỡn với óc tưởng tượng. Bạn áp dụng thử đi, rồi tưởng tượng thêm những cách khác nữa.
Bạn thử tưởng tượng vài truyện như tác giả các truyện thần tiên, hoang đường đi nào. Bạn tưởng tượng những quái vật trong truyện cổ, tưởng tượng con rồng, con kì lân, tưởng tượng những vị thần đầu voi hoặc đuôi cá. Tưởng tượng những mụ phù thủy cưỡi một cây chổi mà bay lên không, những vua Ả Rập chít khăn, ngồi trên thảm bay...
Bạn nhìn một bức tường trên đó treo một bức họa. Rồi bạn nhắm mắt lại, tưởng tượng bức họa đã biến đi mất.
Bạn ngó căn phòng của bạn, tưởng tượng rằng đồ đạc đã dọn đi hết. Tưởng tượng rằng tường sơn màu khác. Tưởng tượng rằng phòng đó ở trong một ngôi nhà khác, tại một xứ khác, thì nó sẽ ra sao.
Bây giờ bạn nhớ lại một chuyện cũ, một chuyện khó chịu hoặc ghê sợ hồi nhỏ hoặc hồi thanh niên. Chẳng hạn bạn nhớ lại một cuộc tranh biện bực mình với một kẻ chỉ muốn thắng bạn, đè ép bạn.
Bạn làm như vầy:
Tưởng tượng kẻ đó đội một chiếc nón kỳ cục.
Tưởng tượng hắn không phải chỉ là một người mà biến thành sáu người, sáu thằng hề chứ không phải là một kẻ đáng sợ nữa.
Tưởng tượng con người nghiêm trang, đạo mạo, lạnh như đồng đó, con người mục hạ vô nhân đó, bỗng bắt buộc - không thể cưỡng được - phải đút tay vào lỗ mũi trong khi đương đại ngôn, thao thao thuyết bạn về đạo đức.
Trí tưởng tượng không có giới hạn. Bạn có thể tưởng tượng về dĩ vãng, về tương lai: bạn có thể phá bỏ một hình ảnh cũ nó làm cho bạn khó chịu mà tạo một hình ảnh mới vui tươi.
Đây là vài cách để chơi trò đó. Bạn thí nghiệm đi. Xem giá trị của nó ra sao. Rồi tưởng tượng thêm những cách khác. Bạn có thể cho rằng có vài cách ngây thơ; mà ngây thơ thiệt. Vì những cách đó của trẻ em, của cái tuổi mà óc tưởng tượng rất tự do phóng túng. Nhưng nó giúp bạn tìm lại được sự tự do đấy.
Bạn tưởng tượng rằng:
Tất cả những khớp xương của bạn đều xoay trên những viên đạn bôi thứ dầu rất trơn, một thứ dầu quí, bằng vàng, thơm. Cái gì cũng nhẵn nhụi, trơn và thép vàng.
Hoặc tưởng tượng rằng:
Bạn và tất cả mọi người đều cài một bông hướng dương ở giữa đỉnh đầu. Rồi cảm thấy bông hướng dương vàng, rực rỡ, lớn đó ở rốn của bạn.
Rồi lại thấy bông hướng dương vàng, rực rỡ, lớn đó ở rốn các người khác. Một bông hướng dương vàng, lan tới vô tận.
Bây giờ bạn đi ra khỏi nhà, đi khắp cái thế giới chua chát, uất ức, mệt nhọc, cái thế giới của loài người tham lam và sợ sệt này, nhưng dùng óc tưởng tượng, ban chỉ nhìn thấy, cảm thấy bông hướng dương đẹp đẽ đó ở rốn của bạn và rốn của mọi người.
Bạn nói chuyện với họ mà họ vẫn cảm thấy bông hướng dương của bạn và của họ. Bỗng nhiên các bông hướng dương chuyện trò với nhau. Bạn nói chuyện với người khác, chuyện vui, chuyện buồn, chuyện gắt gỏng, chuyện dối trá, nói gì thì nói, các bông hướng dương cứ việc chuyện trò với nhau, thông cảm với nhau.
Người đối thoại với bạn có lẽ đương tìm cách lợi dụng bạn đấy - mặc, các bông hướng dương vẫn tiếp tục nói chuyện với nhau. Có lẽ bạn chán ngấy về câu chuyện xã giao với người đối thoại - nhưng các bông hướng dương không biết chán nên vẫn tiếp tục chuyện với nhau. Có lẽ bạn nói chuyện với một người mà trước kia bạn đã giúp đỡ cho nhiều, và lúc này đây trong câu chuyện, kẻ vô ân đó chỉ tìm cách hại bạn - mặc, các bông hướng dương không biết gì tới những cái ti tiểu và rắc rối đó, nên chúng vẫn tiếp tục chuyện trò vui vẻ với nhau.
Câu chuyện của bạn tàn ác hay ngu xuẩn, các bông hướng dương cũng không biết tới, mà vẫn tiếp tục lặng lẽ thông cảm với nhau, như những giọt nước trong một dòng sông, một dòng sông vàng rực những bông hướng dương tương thông tương cảm.
Thuật đó giúp một nhà ngoại giao danh tiếng lèo lái qua những chỗ ngoặt ngoèo trong sự giao thiệp quốc tế đầy những âm mưu quỉ quyệt, mà vẫn giữ được sức khỏe và lòng yêu đời. Đừng đem phê bình thuật đó với người khác. Cứ thực hành đi.
Hoặc giả bạn có thể tưởng tượng rằng:
Bạn thơ thẩn, đụng nhằm một ngôi sao.
Ngôi sao đó là một khối từ thạch (đá nam châm) nó hút bạn, đưa vút lên cao.
Đầu bạn dính chặt vào ngôi sao, gỡ ra không được. Do đó mà chân bạn nhẹ thênh thênh, và bạn bị ngôi sao kéo đi, như lướt trong không gian, thảnh thơi, phơi phới.
Chỉ riêng bạn và ngôi sao biết chuyện đó thôi. Giữ kín bí mật đó, đừng cho ai hay nhé.
Nếu bạn chịu gắng sức thì thuật này tất hiệu nghiệm.
Có một số thuật khó thực hành. Bạn có thể bỏ mà không làm. Như vậy có lợi mà cũng có hại: lợi ở chỗ bạn khỏi phải thất bại vì làm một việc quá sức mình; hại ở chỗ không được hưởng cái lợi của thuật.
Vậy bạn nên thử trước đã, thành thực, chăm chỉ mà thử, rồi nếu không được thì hãy bỏ. Đừng vì biếng nhác mà bỏ, nhưng cũng đừng gắng quá cái sức của mình mà cố làm một việc không làm được.