CHƯƠNG SÁU
Gần tết, thời tiết hay thay đổi bất thường. Nó mang tính khí của một cô gái đẹp đỏng đảnh, khi vui, khi giận, chẳng ai có thể lường trước được.
Đây là thời điểm mà không gian và thời gian như cùng bịn rịn.
Tiết trời se se, bầu trời đùng đục và những tảng mây vừa trôi vừa ngủ gục ấy như cùng phối hợp để gợi lên một xúc cảm không tên, đứng bấp bênh ở giao điểm của các cung cảm xúc.
Những ngày sát đáy năm, Xóm “…” như con sông với hai dòng nước ngược chiều bên trong, bên đục.
Những căn nhà của các cư dân lao động bình thường đã được tu bổ lại để đón tết. Những bức tường loang lổ, những khung cửa xệu xạo được sơn sửa lại. Hầu hết chúng đều mang màu xanh, màu được ưa chuộng nhất, kế đó là màu trắng và vàng nhạt.
Tiệm uốn tóc chật kín khách. Tấm bảng "cần thợ phụ, lương cao" được treo trước cửa cho biết, mùa tết là mùa hái ra tiền của cái nghề làm đẹp cho phụ nữ nầy.
Những khách hàng từ trong tiệm bước ra. Họ chẳng những mang mái tóc mới, gương mặt mới mà cả một tâm hồn mới để chuẩn bị đón tiếp một nàng xuân cũng mới tinh luôn!
Ngược lại, những căn nhà trọ hình như xấu thêm, cũ thêm, buồn thêm...
Chúng và những cô gái trong ấy giống như con kinh vào thời điểm con nước ròng sát đáy, phô bày hết thảy mấy thứ tích tụ lâu đời. Những cô gái cho dù vẫn điểm trang, ăn mặt là lượt nhưng lồ lộ vẻ chán chường mệt mỏi. Với những nụ cười đông cứng trên môi, trông họ như mấy ma nơ canh bằng nhựa đứng trong tủ kính của các tiệm may.
Không khí trong lớp cũng uể oải, kém sinh động hơn mọi khi. Công cố gắng pha trò nhưng chỉ thu được những nụ cười gượng gạo. Nét mặt các cô gái cũng như tấm bảng xóa chưa sạch đang treo trên tường, vẫn còn giữ lại vết tích của một tâm hồn sứt sẹo. Những đôi mắt mà nét chì bôi chưa hết ấy như sâu hơn, âm u hơn. Trông nó mới mệt mỏi và buồn bả làm sao!
Huê, người hay trêu chọc ông thầy trẻ, ngày thường vừa vào lớp là nả đạn tới tấp cũng ngậm hột thị im ru, không thèm phát ra bất cứ một âm thanh gì.
Để phá tan cái bầu không khí ảm đạm. Công, người luôn thành công trong việc gieo và gặt những tiếng cười, tằng hắng một tiếng rất to rồi hỏi:
-Đố mấy chị ở bên Mỹ giờ nầy người Việt mình đang làm gì?
Chẳng ai trả lời, chỉ có Lý, cô gái có tánh lanh chanh nhất hỏi lại:
-Họ đang làm cái gì hả thầy?
Công đáp tỉnh rụi:
-Tui cũng không biết!
Nếu hôm khác chắc cả lớp cùng cười. Hôm nay, Công chỉ thu hoạch được vài cái nhếch môi!
Chưa chịu thua, Công lại cố gắng:
-Đố mấy chị tại sao người ta hay nói câu “ chờ tới tết Công gô”.
Lý lại đáp:
-Tại Công gô không có tết.
Rồi không tin mình trả lời đúng nên hỏi lại:
-Họ có ăn tết không thầy?
Công gật đầu:
-Có, nhưng năm chục năm mới ăn tết một lần, mỗi lần kéo dài ba tháng.
Một cô hỏi:
-Họ có cúng giao thừa không thầy?
Công lắc đầu:
-Giao thừa họ đổ ra đường nhảy múa, đón năm mới bằng không khí vui vẻ tưng bừng chớ không ở nhà cúng lạy ông bà, một cách trang trọng như nước mình.
Một cô hỏi:
-Tết nầy thầy có về quê ăn tết không?
Công đáp:
-Về chớ. Còn mấy chị?
Hỏi xong là Công hối hận liền vì biết đa số họ đều bị gia đình từ bỏ.
Huê đáp:
-Ai có gia đình thì về, ai không thì ở lại.
Hà hỏi Huê:
-Năm ngoái chị làm gì?
Huê đáp gọn lỏn:
-Đánh bài.
Rồi nói tiếp:
-Không có cái thứ gì đốt thời gian nhanh bằng đánh bài. Tao ngồi suốt! Đứt chến nầy, đậu chến khác. Từ sáng tới tối, rồi từ tối tới sáng. Trước khi đánh là tụi tao giao hẹn, đánh hoài tới chừng nào hết tiền hoặc gục tại chỗ. Tao nhờ ngồi dưới tay con Nương, nó mới biết chơi nên trên tay cầm lá bài gì cũng bị tao đoán ra tuốt luốt. Con nhỏ ngồi dưới tay tao chơi dỡ ẹc. Nó cũng bị tao ém bài nên không tới nổi. Tao tội nghiệp nên hể thấy nó sắp khô máu là nhả ra nớm cho chút chút.Tụi bây có tin không? Tao gom sạch tiền của ba đứa nó. Rả sòng xong tao ngủ một lèo. Mở mắt ra là sáng mùng ba. Đói meo, ráng lết ra tiệm mì ăn liền hai tô.
Hà hỏi:
-Chị đánh bài giỏi như vậy sao không giàu?
Huê hỏi:
-Mầy có nghe chữ “bài bạc” không? Cái tiền ăn bài nó bạc lắm mầy ơi! Nó không có chịu nằm lâu trong túi mình đâu. Năm ngoái mấy ngày tết tao ăn cả chục triệu, vậy mà mới qua tháng hai thì vét hết mấy cái túi gom lại cũng không đủ tiền để ăn một dĩa cơm.
Lý thở dài:
-Bà đâu có xui bằng tui!
Huê hỏi:
-Mầy xui cỡ nào, nói nghe thử coi.
Lý nói:
-Nói ra thêm tức chớ ích gì!
Chẳng ai van nài. Có lẽ bị chính sự thờ ơ ấy kích thích, Lý lại nói:
-Thôi để tui kể ra cho mấy bà rút kinh nghiệm. Cái nầy mới đúng là "kinh nghiệm xương máu" đó nghe! Nó chui rúc trong xương, trong máu nên rút ra đau điếng!
Nói xong Lý lại làm thinh, như muốn trêu chọc mọi người
Huê liền thúc cùi chỏ vô hông Lý rồi hối:
-Kể đi, sao im ru vậy?
Lý lắc đầu:
-Tui hết muốn nói rồi!
Huê đưa bàn tay với ngón trỏ và ngón giữa cong vòng sát vô mặt Lý rồi hỏi:
-Mầy có tin là bị tao móc hai con mắt, rồi ném ra đường cho chó ăn hông?
Lý ngước đầu như cố nuốt cục cơm đang chẹn họng xuống. Bỗng khi không quay ngược, nhìn ngay chóc vô mặt Công mà hỏi:
-Thầy có biết tại sao tui vô đây học không?
Công cười:
-Chắc chị muốn học tiếng Anh để đổi đời…
Lý lắc đầu:
-Tui sợ chữ từ hồi nhỏ lận. Tui vô đây đây với một mục đích là phá cho thầy sập tiệm.
Công ngạc nhiên:
-Tôi làm cái gì mà chị ghét dữ vậy?
Lý không đáp. Cô bắt đầu câu chuyện của mình:
-Năm kia, tui có quen một thằng trước tết độ hơn tháng. Nó tự xưng là sinh viên. Nó rất trẻ, đẹp trai, tướng tá như ông thầy của mình, cái mặt cũng hiền khô nên tui tin răm rắp. Nó nói có căn nhà ở Bảo Lộc, rủ tui về đó ăn tết. Tui đồng ý. Hai mươi chín nó chở tui bằng xe gắn máy, đi vòng vèo cả ngày trời mới tới một căn nhà nằm trong cái vườn trồng cà phê. Nhà đẹp lắm, tiện nghi đầy đủ. Nó biểu tui ở nhà để nó đi mua đồ về cúng giao thừa. Tui mừng mừng, nghĩ bụng năm nay mình ăn cái tết ra tết hẳn hoi. Lát sau nó về với bốn thằng bạn nữa.
Thấy năm thằng đều đi tay không, tui hỏi:
- “Đồ cúng đâu?”.
Nó nói:
-“Trễ quá chợ dẹp rồi”
Rồi giới thiệu mấy người vừa đến nói là bạn học. Tụi nó đều trẻ măng nên tui hơi xem thường. Tui có chuẩn bị mấy gói mì với một đòn bánh tét nên nói:
-“Thôi khỏi cần, để tới giao thừa mình nấu nước châm một bình trà, tét bánh cúng cũng được“
Thế rồi tụi nó rủ nhau đánh bài. Chúng moi trong túi ra mỗi đứa một cọc tiền rất to khiến tui tối mắt. Thế là nhảy vô giành một tụ. Ban đầu thắng liên tục, sau đó chắc chúng thông đồng với nhau nên đánh bài gì tui cũng thua hết. Tiền hết, tui nóng máu tháo dây chuyền, cà rá ra chơi luôn. Cuối cùng không còn thứ gì tui đem luôn cây nhà lá vườn ra đặt.
Nói tới đó Lý dừng lại, không ai dám mở miệng hỏi, bởi đã đoán trước đoạn cuối.
Lát sau Lý kể tiếp:
-Nghe tụi nó nói chuyện tui biết chúng đều là con của mấy thằng cha đại gia. Cái bọn nầy còn nhỏ mà ăn chơi sành sỏi, kiểu gì cũng biết. Tui biết mình đã rơi vào bẩy. Tụi nó ra tay vùi giập tui không thương xót. Tới mùng năm, tui lết về Sài gòn với cái thân tàn ma dại. Vừa hết tiền vừa sợ dính bầu nhứt là sợ bị nhiễm si đa, bởi liên tục phục vụ cho tụi nó để trả nợ thua bài nên áo mưa đem theo đâu có đủ.
Huê rùng mình:
-Tao thuộc loại “trâu già không sợ dao phay” mà nghe mầy nói cũng ê hết hai hàm răng.
Công tức tối:
-Sao Lý không đi thưa?
Lý cười khổ:
-Thưa cho bị còng đầu hả?
Lý kể tiếp:
-May mà cái thằng chở tui nó còn chút lương tâm. Cho lại hai trăm ngàn, không thôi là chết đói nhăn răng, chớ mấy ngày tết làm ăn gì được?
Hà hỏi:
-Tại sao mấy ngày tết không làm ăn được vậy?
Huê lắc đầu:
-Mùa tết là cái mùa "hẻo" nhứt. Mấy người khách quen, họ tránh mình như tránh hủi. Đầu năm kỵ gặp gái, mà gái như tụi mình thì còn xui gấp mấy lần. Bởi vậy tết là nằm nhà húp cháo trắng.
Huê hỏi lại Hà:
-Năm ngoái mầy ăn tết ở đâu?
Hà đáp:
-Cam pu chia!
Huê gặng:
-Thiệt hông? Qua bển làm gì?
Hà cười:
-Đuổi theo một người.
Công bỗng nghe nhói trong ngực một cái.
Huê hỏi tiếp:
-Gặp không?
Hà lắc đầu, buồn thiu:
-Không!
Hà bỗng hỏi Công:
-Ngày mấy thầy về quê vậy?
Công đáp:
-Hai mươi bảy.
Phụng nói:
-Thầy về nhà chắc ba, má, chị em thầy mừng lắm hén!
Công đáp:
-Tôi chỉ còn má thôi, ba chết khi má vừa có tôi, nên không có anh, chị em gì hết?
Lý nói:
-Thầy sướng quá, khỏi bị ba đánh. Tui mới khổ nè, bị ông già tía say rượu rượt đánh hoài. Hồi nhỏ tui cứ ước mình là con mồ côi cho đỡ khổ.
Phụng nạt:
-Đồ khùng! Đồ bất hiếu! Con mồ côi làm sao sướng bằng mấy đứa còn đầy đủ mẹ cha?
Hà buột miệng:
-Có đứa còn đầy đủ cha mẹ mà khổ hơn con mồ côi nữa đó!
Công nhìn Hà đăm đăm, đôi mắt Hà thật là buồn. Lại một dấu hỏi nữa hình thành trong đầu chàng. Câu nói đó đâu thể có trên môi của những người mồ côi cha lẫn mẹ như Hà? Như vậy là ngược lại. Công bỗng nghe thương Hà quá, bởi còn gì đau xót hơn là làm con mà phải kết án cha mẹ mình.
Câu chuyện của Lý khiến không khí càng nặng nề. Công bận suy nghĩ nên không cố tìm để tài để khuấy động. Nét mặt ủ dột, giọng nói chua xót của Hà khiến chàng không yên tâm nên cứ hướng mắt nhìn Hà như dọ hỏi. Điều nầy ngày thường chàng rất cố tránh bởi biết cả chục cặp mắt đang theo dõi họ sát sao.
Các cô gái quá dày dạn nầy, biết rất rõ là Công và Hà đang ở vào giai đoạn “tình trong như đã, mặt ngoài còn e” nên cứ rình rập miết.
Có một lần Hà mới gội đầu, Công đi ngang qua, cố hít thật sâu hương chanh vào tóc. Cái động tác nhẹ nhàng ấy cũng bị Huê phát hiện nên trêu:
-Cột tóc lại đi Hà, coi chừng gió thổi rụng hết đó!
Lại có lần Hà ra về bỏ quên cái túi giấy. Huê không thèm nhắc, nhưng về đến nhà là trêu liền:
-Mầy cố tình để lại cho ông thầy phải không? Có ém xi bùa cái gói nho khô đó hông vậy?
Hà chửa thẹn bằng cách làm bộ giận, hỏi lại:
-Bộ chị cho rằng em phải bỏ bùa mới được ổng thương hả?
Hôm nay, Công nhìn Hà một cách tha thiết mà chẳng ai để ý, hay có phát hiện nhưng không buồn ghẹo.
Thường thường sau khi tan học, Công hay tìm cách giữ Hà ở lại lâu hơn một chút, bằng cách hỏi chuyện. Cho dù những câu hỏi ấy hết sức ngô nghê như: Sáng nay vừa ăn điểm tâm món gì? Đang xài dầu gội hiệu gì? Bao lâu cắt tóc một lần? Hà thích ăn trái cây chín mềm ngọt hay chua chua giòn giòn?... Thế nhưng Hà vẫn chịu khó trả lời cặn kẻ. Hình như họ chỉ cần nhìn nhau và nghe nhau là đủ.
Khi mọi người đã ra về hết Hà vẫn còn nán lại. Người mở miệng trước không phải là Công mà là Hà.
Hà hỏi:
-Tối vừa rồi thầy có thấy em không vậy?
Công lắc đầu:
-Trước khi đi ngủ có nhìn qua nhưng thấy nhà Hà còn tối thui.
Hà hỏi:
-Lúc đó mấy giờ?
Công đáp:
-Đúng mười một giờ bốn mươi.
Hà cười:
-Khoảng hai giờ sáng thầy làm gì?
Công đáp:
-Giờ đó thì ngủ chớ còn làm gì nữa!
Hà nhướng cặp chưn mày lên cao hết cỡ rồi hỏi:
-Có gặp em không?
Công phì cười:
-Ngủ thì làm sao mà gặp cho được?
Hà gục gật cái đầu:
-Em gặp thầy, nói chuyện với thầy rõ ràng mà tại sao thầy nói là không gặp em?
Công trố mắt:
-Gặp ở đâu?
Hà đáp, không cười:
-Trong chiêm bao chớ đâu.
Công hỏi, vừa tò mò, vừa cảm động:
-Chiêm bao ra sao, kể nghe thử coi!
Hà lắc đầu:
-Thôi mắc cỡ lắm!
Công nhìn Hà chăm chú, năn nỉ:
-Kể đi mà!
Bỗng dưng Hà đỏ bừng cả mặt. Nhớ lại từng chi tiết của giấc mơ ấy. Thật là một giấc chiêm bao đẹp và hoang đường hết chỗ nói! Giấc mơ trong một giấc mơ, cho nên Hà bùi ngùi nuối tiếc đến cả hai lần.
Hà bỗng hỏi:
-Thầy đã hôn ai chưa vậy?
Công lắc đầu.
Hà nói nhỏ như lời tự sự:
-Em cũng vậy!
Thấy Công trố mắt, Hà gặng:
-Thầy không tin phải không?
Công ấp úng.
Hà nói, giọng buồn buồn:
-Có nhiều điều về em mà cho dù có nói thật thầy cũng không tin.
Rồi Hà lại hỏi:
-Thầy biết đàn bà chưa?
Công lại lắc đầu, kèm theo cái mặt đỏ như gấc chín.
Hà lại nói:
-Em cũng chưa biết đàn ông!
Rồi lại hỏi:
-Thầy có tin em không?
Lần nầy thì Công gật đầu, rất sâu.
Rồi cả hai cứ làm thinh mãi miết. Công chợt nhớ câu: ”Không nói là nói rất nhiều”, nhận ra hết sức đúng trong trường hợp nầy.
Trước khi ra về, Hà bỗng nhìn sâu vào mắt Công rồi nhấn mạnh từng chữ:
-Em xin thầy nhớ cho là tất cả những lời em nói với thầy hôm nay, đều là sự thật.
Hôm sau, Hà bỗng nhiên biến mất.
Điều nầy khiến Công bức rức. Lớp học thiếu Hà khiến mặt Công ỉu xìu như không còn sinh khí.
Lý hỏi:
-Sao thầy buồn như chết vậy thầy?
Huê nói như nạt:
-Cái con nhỏ nầy, biết mà còn làm bộ giả nai. Bữa nay hoa không chủ đó, đứa nào muốn hái thì lẹ tay lên.
Cả lớp cười rần rần, Công cũng cố rặn ra một nụ cười… khờ… ổ… khổ…
Hôm sau nữa, cô gái bán chè đang thối tiền cho khách, thấy Công dắt xe ra cổng bỗng cắm đầu chạy qua. Công không để ý, cứ lui cui khóa cổng. Nghe tiếng tằng hắng sau lưng. Công ngạc nhiên quay mặt lại nhìn rồi hỏi:
-Bộ bữa nay chè lại bị mặn nữa hả?
Chẳng là một hôm Nụ lỡ tay, bỏ muối vào nồi chè hơi nhiều nên bán không được. Hà và Công thấy tội nên mua hết rồi đãi cả nhà, cả lớp. Mấy thầy trò ăn căng cả bụng.
Nụ lắc đầu, thò tay vào túi áo lấy ra một phong thư dán kín, đưa cho Công rồi bỏ đi.
Công lật đật gọi lại:
-Sao không chờ tui đọc cho nghe!
Nụ lắc đầu:
-Chị Hà nhờ em đưa nó cho thầy đó!
Công ngạc nhiên:
-Sao cổ không gửi cho chị Huê mà đưa cho cô?
Nụ đáp nhỏ:
-Chắc tại em không biết chữ nên…
Công giật mình, lật đật bóc ra xem.
Hà viết:
Anh Công thương!
Đây là bức thư trần tình, thú thật, nên cho phép em thay cái danh xưng “thầy” bằng “anh”, vì đó là lời xưng hô rất thật với lòng em.
Trước hết em xin lỗi vì đã nói dối anh từ trước đến giờ.
Em không phải trẻ mồ côi. Và em được đi học đàng hoàng.
Chắc anh đang tự hỏi do đâu mà em lạc bước vào nơi nầy. Và vì lý do vì mà em cố tình xâm nhập vào đời sống của anh.
Bức thư nầy là để giải thích hai câu hỏi đó.
Em sinh trong một gia đình có thể gọi là trí thức. Ba em, mẹ em có địa vị, tiếng tăm trong tỉnh và được nhiều người kính nể.
Em là con gái út, chỉ có một người anh hơn em đúng một con giáp.
Năm em mười hai tuổi, nhà em đột nhiên phất lên. Mẹ em phá bỏ căn nhà ngói xưa đã cũ rồi xây lên căn lầu bốn tầng. Nhà cao sinh thêm nhiều việc, mẹ em phải thuê người giúp. Từng ô sin đến rồi đi, họ chẳng ở được lâu bởi mẹ em vô cùng khó tánh.
Năm em học lớp tám mẹ em thuê được một cô gái tây nguyên người kinh lai Hmông tên Non. Chị Non tuy lớn tuổi hơn nhưng lại thấp và nhẹ hơn em đến mấy ký, cũng hiền lành và nhút nhát hơn em gấp mấy lần.
Ngày đầu khi mới đến trông chị như trái gòn khô. Chị mặc cái áo có miếng vá trên lưng và chiếc quần đã ngắn. Hành lý chị mang theo là một cái túi ni lông trong đó chỉ có mỗi một bộ quần áo. Bộ đồ nầy rách nhiều hơn cái bộ chỉ đang mặc.
Sở dĩ em nhớ cái chi tiết đó vì ngay hôm sau mẹ biểu em:
-Con coi có bộ đồ nào không mặc nữa thì cho nó. Để khách tới nhà mà thấy người làm của mình ăn mặc rách rưới người ta khinh.
Em soạn ra bốn năm bộ gì đó, đem xuống cho chỉ. Chắc chỉ mừng lắm vì em thấy khi nhận cái chồng quần áo từ tay em, tay của chỉ rung rung từng ngón.
Em vốn thích có chị nên mê chị Non lắm. Chỉ lại mang cái phong vị của rừng, của núi là lạ nên thu hút em mãnh liệt. Em cứ đeo theo chỉ mà hỏi hết cái nầy đến cái khác. Chị Non vừa bỏ lại đứa em gái trạc tuổi em nên thương và chìu em rất mực.
Em mê chỉ cho đến nổi tan học là chạy u về nhà để nói chuyện với chỉ, thậm chí còn rủ chỉ tắm chung để được gội đầu, kỳ lưng cho nhau. Chỉ lớn hơn em nên mắc cỡ, tụi em chỉ bỏ áo ra để tắm chung. Chị Non kỳ lưng, chải tóc cho em nhẹ nhàng còn hơn mẹ. Chỉ còn dạy cho em thổi kèn lá và hát những bài có âm điệu rất hay, rất lạ. Từ ngày có chị Non đời sống của em được lấp đầy những niềm vui. Em chỉ nhận, nhận và nhận thôi chứ chưa cho chỉ lại thứ gì.
Chị Non thương gia đình lắm! Chỉ dành hết tiền lương để gởi về nhà chớ không xài một đồng nào, không dám mua sắm bất cứ thứ gì. Sáng nào chỉ cũng ăn điểm tâm bằng cơm nguội. Những lần mua hủ tiếu cho em, chỉ hay lựa cái tô thật to, xin thêm nước lèo thật nhiều. Em ăn hủ tiếu xong, chỉ bới cơm vào nước lèo còn dư rồi ăn một cách ngon lành. Bây giờ mỗi lần nhớ tới là em rơi nước mắt chớ hồi đó thì chẳng hề quan tâm.
Đang là một con vịt còi xấu xí, đùng một cái chị Non trở thành nàng công chúa thiên nga vô cùng xinh đẹp. Chỉ cao phổng lên, da trắng bóc, mịn màng, với đôi mắt gần như toàn tròng đen, ướt rượt như giầm trong nước.
Một đêm kia đang ngủ, em bỗng giựt mình vì nghe tiếng lao xao ở nhà dưới. Kế đó là tiếng tát tay rất mạnh và tiếng mẹ quát to:
-Mầy dụ dỗ ổng bao lâu rồi?
Em nghe tiếng chị Non nức nở rồi tiếng mẹ hăm dọa:
-Tao sẽ cho công an còng đầu mầy. Tao sẽ mời ba mầy lên đây nói chuyện.
Chị Non năn nỉ:
-Con lạy cô, cô đừng cho ba con hay. Ba con mà nghe chuyện nầy chắc giết cho con chết.
Em nghe tiếng chân anh Hai chạy từ trên lầu ba xuống, ảnh hỏi em:
-Có chuyện gì vậy nhỏ?
Em vừa khóc vừa trả lời:
-Mẹ đánh chị Non.
Ông anh của em đâm đầu chạy xuống.
Chị Non thấy ảnh thì ôm chầm lấy và khóc to:
-Anh ơi! Cứu giùm em, mẹ anh đòi thưa công an bắt em.
Mẹ em cười gằn:
-Vậy ra hai cha con nhà nầy chui chung một lỗ!
Em nghe tiếng anh Hai quát to:
-Non, vậy cái thai trong bụng em là của ai?
Chỉ khóc ròng, còn mẹ em thì nắm tóc chỉ trong tay rồi đập cái đầu của chỉ vô tường nghe bốp bốp. Anh Hai và ba em, những người đẩy chỉ vào hoàn cảnh nầy vẫn im thinh thít đứng nhìn, chẳng ai ra tay hay lên tiếng ngăn cản.
Khuya đó em nghe tiếng gõ nhè nhẹ trên cửa phòng mình. Em mở cửa ra, chị Non đứng trước mặt em với mái tóc rối nùi và đôi mắt sưng húp.
Chỉ nói nhỏ xíu:
-Chị muốn trốn đi mà không có tiền. Em cho chị xin …
Em vội hỏi:
-Chị về nhà hả?
Chỉ lắc đầu:
-Chị đâu dám về nhà, ba chị giết chết.
Em nói:
-Chị ở lại đây đi, em năn nỉ mẹ giùm cho.
Chỉ lắc đầu:
-Cô Út nói sáng nay cổ sẽ đem chị ra công an, chị sợ ở tù lắm! Em cho chị mượn đi, mai mốt thế nào chị cũng làm ra tiền, chị sẽ đi tìm em rồi trả lại.
Em moi hết tiền trong ống heo ra đưa cho chỉ. Lát sau nghe tiếng đẩy cửa rất nhẹ rồi tiếng khép cửa mạnh tay hơn và tiếng dép xa dần.
Ngay sáng hôm ấy, mẹ em làm đơn báo với công an là chỉ đã trộm hết tiền và vàng của nhà em rồi bỏ trốn.
Từ đó em không còn kính trọng ba mẹ nữa.
Một hôm dì Năm, người bà con bên mẹ đến thăm. Dì nói rằng thằng Phong con của dì đang học ở Sài gòn hôm tết về thăm nhà, nó nói có gặp chị Non vác cái bụng to đứng ở con đường Huyền Trân Công Chúa, là tụ điểm đón khách của mấy cô gái ăn sương. Mẹ em nghe vậy đã không ăn năn còn rủa chỉ một chập.
Từ khi nghe chị Non rơi vào cái nghề đó. Em hay tìm hiểu về những cô gái bất hạnh như chỉ. Qua sách vở, báo chí và những câu chuyện thật nghe được, em hết sức đau lòng và thương xót họ. Em nuôi ý định sẽ đi tìm chị Non cho bằng được.
Bây giờ, khi đã biết những cô gái giang hồ phải chịu đựng tủi cực như thế nào em càng căm giận cái việc chị Non bị anh Hai em dụ dỗ, ba em cưỡng bức và mẹ em vu khống.
Em cho rằng vì thương và không muốn xa em mà chị Non đã nấn ná, chịu đựng lâu đến vậy. Em quyết thay gia đình đền tội, nên vào Sài gòn học với mục đích đi tìm chỉ. Em biết phải thâm nhập vào mấy chỗ ăn chơi mới có cơ hội, nên xin vào làm trong mấy cái ba mục đích tiếp cận với những người giống chỉ để hỏi thăm. Thế nhưng bóng chim tăm cá.
Em tìm đến xóm nầy với hy vọng có người biết tin tức của chỉ. Càng hiểu rõ tình cảnh những chị ở đây, em càng nhận ra rằng những kẻ may mắn như mình, không ít thì nhiều, đều nợ những người phụ nữ bất hạnh ấy. Em cho rằng những người càng sở hữu nhiều thứ, càng có hạnh phúc đều càng phải gánh trách nhiệm giúp đỡ họ.
Em được chu cấp đầy đủ, không phải lo về chuyện tiền nong, nên không cần phải bán thân. Chuyện của chị Non khiến em kinh sợ đàn ông, nên dù giao dịch thường xuyên với họ, em chưa bao giờ rung động.
Hai người đàn ông mà em đã hết sức thương yêu, tôn trọng: Ba và anh Hai của em. Họ đều có cái vỏ bọc trí thức, tuy chưa được dán các mác đạo đức nhưng đều được mọi người cho là có phẩm hạnh. Ấy vậy mà cùng lợi dụng một cô gái hết sức trong trắng, ngây thơ. Họ đã khiến em có thành kiến về giới nam, nhất là những người thuộc tầng lớp trên. Cho nên em chỉ muốn thay chị Non mà đánh họ cho một trận tơi bời để họ tởn, không dám đụng tới phụ nữ nữa.
Lần đầu gặp các anh, em đã vội vã kết luận rằng đây là bọn đồi trụy, tìm đến xóm nầy để nhìn cho đã mắt, sờ cho đã tay, nên rắp tâm hành hạ cho bỏ ghét.
Thế rồi em nhận ra, các anh, nhất là anh, hoàn toàn tương phản với cái thành kiến mà em khắc trong đầu.
Dù em đang mang lốt gái giang hồ, anh vẫn đối xử với em hết sức trân trọng như với một cô tiểu thư trinh bạch, đoan trang, nề nếp. Điều nầy khiến em vô cùng cảm kích, lần đầu tiên em đã rung động. Em suy nghĩ về anh liên tục, đến độ khi ngủ cũng gặp anh trong giấc chiêm bao.
Anh như tia nắng ấm khiến tảng băng trong em dần tan chảy. Càng biết về anh em càng quý mến thêm. Đã bao lần em định thú thật mọi việc với anh. Đã bao lần em định từ bỏ mục đích tìm kiếm chị Non. Tự xóa nợ cho mình để cùng anh bắt đầu một cuộc đời mới.
Thế nhưng đôi mắt sưng vù và mái tóc rối bù của chị Non lại hiện lên rõ rệt trong đầu em. Em chưa tìm ra được chị Non, món nợ ấy chưa trả xong, em chưa thể yên tâm đáp lại tấm tình của anh.
Hôm qua em nghe một ông khách kể lại rằng, ổng có gặp một cô gái rất đẹp, làm trong quán rượu ở Hải Phòng có biệt tài thổi kèn lá rất hay.
Linh tính cho em biết đó chính là chị Non. Lần nầy em quyết không vuột mất chỉ như bao lần trước. Em tin rằng ơn trên sẽ cảm chứng cho lời cầu xin chân thành của mình, rồi cho em gặp chỉ. Chúng em sẽ có một cái tết ý nghĩa nhất và vui hơn bao giờ hết!
Vì vậy mà em quyết định lên đường ngay hôm nay. Khi anh đọc bức thư nầy chắc em đang ngồi ngủ gục trên một chiếc xe đò đang bon bon Bắc tiến.
Chuyến đi nầy quá vội vàng nên em mang theo rất ít hành lý, thế nhưng lòng em lại hết sức nặng nề bởi mang nặng cảm giác có lỗi với anh. Xin anh hãy tha cho em cái tội nói dối, trêu chọc, giả vờ bất hạnh nhầm thâu tóm lòng thương của anh. Trời đã phạt em rồi! Ngay lúc nầy, em đang cảm thấy vô cùng đau khổ khi sắp phải xa anh.
Có một điều em muốn xin anh. Đó là hãy cố duy trì cái lớp học bụi đời nầy giùm em. Anh hãy làm một ông thầy thật tốt. Hãy giúp học trò của mình một cách tận tình, làm bất cứ điều gì cần thiết chớ không chỉ cho họ những con chữ. Đó là cách mà anh đã đi vào tim em. Đó cũng là cách anh thay em trả nợ.
Em hứa khi tìm gặp chị Non, yên tâm về chỉ rồi, em sẽ về đây cùng anh dạy học.
Thương và kính trọng anh rất nhiều!
Hà
Công vốn có cái nhìn độc lập, không a dua theo những người xung quanh. Chàng cũng không chấp nhận cái thang giá trị mà xã hội đang áp dụng, chàng cho rằng chính nó đã khiến cho người ta trở nên giả dối và chà đạp lên nhau để leo lên càng cao càng tốt. Chàng nhận thấy những người vẫn đứng yên trên mặt đất, chưa đặt chân lên bất cứ bậc thang nào mới chính là người còn tính nhân bản nhất. Và buồn thay những tầng lớp càng cao lại càng dễ bị hủ hóa. Đối với Công những cô gái như Phụng, như Huê đáng được trân trọng hơn những ông Y bà X rất nhiều, bởi họ đáp ứng những nhu cầu của xã hội bằng chính công sức của mình nhưng lại chịu đựng sự bất công nhiều nhất.
Trước đây Công chỉ yêu Hà qua đường mắt, thế nhưng bức thư của Hà khiến chàng nhận ra tâm hồn cô rất đẹp và vô cùng trong sáng.
Bức thư ấy tiêm vào người Công một liều “sống” hết sức dồi dào. Chàng giảng dạy một cách hăng say và hay chú ý đến biểu hiện của từng người. Hể thấy ai có dấu hiệu lo âu, buồn bực là xán đến hỏi thăm liền.
-“Các chị cần bất cứ điều gì cứ cho tui biết nhé, đừng có ngại!“
Câu nói ấy được lập đi lập lại hoài khiến các cô học trò đâm bực, họ vốn ghét bị thương hại. Thế nhưng vẻ chân thành trong giọng nói, ánh mắt của chàng khiến họ cảm động. Họ tự hỏi phải chăng nhờ thất tình mà ông thầy trẻ nầy bỗng có tấm lòng “đại bác” quá cỡ như vậy. Như thể cái con sông tình ấy, không thể trút nước ra biển được nên chảy tràn lan, bao trùm khắp mặt đất.
Mấy chàng trai cũng hết sức ngạc nhiên về thái độ của Công. Trong khi sự vắng mặt của Hà làm cuộc sống đối với họ trở nên nhạt nhẻo như nồi canh thiếu muối, thì gương mặt Công lại lồng lộng một niềm vui.
Họ gặng hỏi nhưng Công cứ chối bay chối biến. Thế là họ hè nhau trói gô chàng lại rồi lục soát tất cả vật dụng và khắp người chàng từ chân tơ kẻ tóc. Họ phát hiện lá thư nằm trong cái ví lép kẹp.
Bức thư ấy được họ tiếp nhận theo hai hướng hoàn toàn khác biệt: Dưới mắt Dự,Tâm, Hà càng đẹp lên bao nhiêu, thì đối với Hy cô càng xấu hơn bấy nhiêu bởi chàng chẳng tin một chữ nào trong đó! Riêng Tánh thì bắt đầu mất dần sự quyết đoán, đâm ra nghi ngờ phải chăng mình là người có tính bi quan.
Một hôm Huê cố tình ra về sau chót và nói với Công:
-Tui có chuyện nầy muốn nhờ, không biết thầy có giúp được không.
Công mừng như bắt được vàng, hỏi liền:
-Chuyện gì vậy? Chị cứ nói đi, tui hứa sẽ dốc hết sức…
Không chờ Công nói dứt, Huê lắc đầu:
-Tui không có nghi ngờ lòng tốt của thầy, chỉ sợ thầy không có khả năng.
Công hỏi tới:
-Chuyện lớn lao cỡ nào? Đâu chị nói thử coi.
Huê thở dài:
-Cái con Nụ bán chè đó, sắp bị bà má nuôi của nó bán qua Hàn Quốc rồi! Nó buồn lắm! Khóc tới sưng húp cặp mắt. Nó nghe đồn có một cô dâu Việt bị ông chồng Hàn đánh chết, nên sợ tới mất hồn, muốn bỏ trốn mà không biết đi đâu.
Ngừng lại và thăm dò phản ứng của Công một lát Huê hỏi:
-Tui nghe thầy nói, nhà thầy chỉ có hai mẹ con…
Huê vừa nói tới đó là Công lấy tay phát vào đùi đánh chách một tiếng rồi la to:
-Đúng rồi! Đúng rồi! Cho cổ về ở với má tui, học nghề may hoặc bán chè tiếp cũng được.
Huê cảm động, hỏi:
-Biết má thầy có chịu nuôi nó hay không?
Công gật đầu lia lịa:
-Chịu, chịu mà. Tui mà nói là má chịu liền. Chị hổng biết chớ má tui thích làm phước lắm!
Vậy là họ bắt tay ngay vào việc soạn thảo kế hoạch giúp Nụ.
Hôm sau khi gánh chè xuất hiện, bà con ngạc nhiên khi thấy ngoài Huê, Phụng, hai vị khách thường trực, còn có Công, ông thầy giáo tuy nhỏ tuổi nhưng chẳng thiếu tác phong mô phạm ấy cũng ngồi húp chè chung với họ.
Cái hình ảnh ngồi ngoài đường ăn mấy cái món của đàn bà nầy làm giảm thể diện của đàn ông dữ lắm, huống chi còn là ông "thầy" hẳn hoi. Cho nên đây có thể coi là sự hy sinh lớn lao nhất của Công!
Đúng với sự trù liệu của mọi người, Nụ mừng như chết đi sống lại.
Cô nói và khóc một lượt:
-Má em biểu nghỉ liền mà trời xui khiến hay sao nên em cứ đòi đi bán cho bằng được. Tính từ giả mấy chị xong là đi mua một vĩ thuốc ngủ về uống, chớ em hết dám sống.
Huê nói:
-Nếu mầy đã tính tới cái nước đó thì phải làm liền tay mới được. Mầy có đem giấy tờ theo không?
Nụ lắc đầu:
-Má em giữ hết rồi. Em chỉ có mỗi một bộ đồ trên mình thôi!
Công hỏi:
-Năm nay Nụ bao nhiêu tuổi?
Nụ đáp:
-Em mới làm chứng minh nhân dân năm ngoái.
Công nói:
-Nhờ Nụ thấp nên thấy còn nhỏ lắm! Nếu về quê tui, có ai hỏi thì nói bớt đi vài tuổi chắc người ta cũng tin, không bị xét giấy tờ đâu.
Huê gật đầu:
-Thầy nói có lý. Cái chuyện cứu người phải đặt lên hàng đầu. Ba cái giấy tờ tới đâu tính tới đó!
Nụ hỏi dồn:
-Hôm nay mình đi luôn được hông chị?
Huê lắc đầu:
-Gấp quá sợ không tiện. Chờ ông thầy báo trước cho bà bác một tiếng, chớ khi không mà a thần phù xông tới chắc…
Công gạt phắt:
-Không sao đâu! Má tui dễ thông cảm lắm! Mấy cô đừng lo!
Mấy cô gái trong xóm thấy họ châu đầu bàn tán rôm rả thì tò mò quá đổi, bèn lấy cớ ăn chè để đến dọ thám, nhờ vậy mà gánh chè bán hết veo.
Năm ấy gia đình dì Năm, má Công, có một cái tết vui vẻ nhứt từ trước đến giờ.
Dì Năm cũng giống như hầu hết những người dân miền đồng bằng sông Cửu, mang tính chất của nước nên luôn hướng về những chỗ trũng. Xúc động trước hoàn cảnh quá đáng thương nên dì xem Nụ như con đẻ. Chiếc áo bà ba của cô càng khiến cảm tình của dì gia tăng gấp bội. Dì lật đật cắt, may liền tù tì cho Nụ thêm hai bộ nữa. Hai bộ đồ mới, một ngôi nhà mới, một bà mẹ mới, một ông anh mới khiến Nụ cũng mới tinh luôn. Những nét lo buồn tăm tối đeo bám mấy hôm trước đã được gột sạch, gương mặt cô bỗng sáng trưng như đồng xu mới!
Ngoài Nụ ra còn có Huê, cô gái giang hồ dày dạn ấy, đã thay đổi tính cách hoàn toàn khiến Công chới với. Chẳng những bỏ cái thái độ khinh bạc, bất cần đời, cái lối nói năng bạt mạng, mà cô còn bỏ gói thuốc lá, vật bất ly thân lại Sài Gòn. Bởi ngoài mục đích đưa Nụ đến tận nơi để tận mắt chứng kiến và an tâm về Nụ, Huê còn muốn nhân dịp nầy, lái cuộc đời mình sang hướng khác.
Chính tấm lòng chơn chất, sự chào đón nhiệt tình của dì Năm đã giúp Huê có một niềm vui, niềm vui đó như một con sóng nâng cô lên cao, vượt qua những trở ngại mà bình thường Huê không thể khắc phục. Cuộc sống bình dị và thiên nhiên ở đây đã xanh hóa cái tâm hồn chớm già héo của cô.
Một hôm, khi tận mắt chiêm ngưỡng cái cảnh vợ chồng con cái quây quần bên mâm cơm chiều của căn nhà kế bên, Huê bỗng xúc động rồi nghe lòng nhoi nhói. Cái hạt mầm của niềm mơ ước như được chan tưới đầm đìa, đang cố đâm vỡ mặt đất để chui lên.
Huê nói với dì Năm, giọng nửa đùa, nửa thật:
-Dì Năm coi ở đây có ông nào còn ở không làm mai cho con một người đi!
Dì Năm hỏi lại:
-Con nói thiệt hay chơi? Đàn ông ế vợ xóm nầy cả đống kìa.
Huê ngạc nhiên:
-Thiệt sao dì?
Dì Năm gật đầu:
-Mấy cô gái bây giờ thích lấy chồng xa không hà, càng xa càng tốt, cho nên trai làng không lọt vô mắt họ nổi.
Dì chắt lưỡi:
-Con đẹp như thế nầy, đang sống ở Sài Gòn sướng gần chết, sao lại…
Huê cười buồn:
-Coi vậy chớ sống ở đó không dễ đâu dì. Cái môi trường cá lớn, cá bé nhốt chung thì bọn cá bé như tụi con bị trầy vi tróc vẫy là điều không thể tránh!
Rồi Huê tâm sự một cách chân thành:
-Con thích ở gần dì lắm! Không cần phải có chồng cũng được. Dì coi có việc gì giúp con kiếm ngày hai bữa cơm là được.
Dì Năm nói:
-Xứ nầy làm giàu thì khó chớ kiếm đủ ăn là dư sức. Miễn chịu cực một chút. Chẳng nói đâu xa, như con mà muốn như vậy thì để dì đi lãnh đồ ở mấy cái tiệm về cho con đơm núc, vắt lai cũng dư sống.
Huê gặng:
-Thiệt không dì?
Dì Năm gật đầu:
-Thiệt chớ! Còn không thôi dì đi mua vải khúc về may đồ con nít rồi đem đi bỏ mấy cái sạp cũng có ăn lắm đó. Cùng lắm thì mình đi làm cỏ, đánh lá mía, tỉa đậu... Ở xóm nầy có mấy người già không có con cháu cũng được bà con chăm sóc, không ai bị chết đói đâu mà sợ!
Cái bờ bến bình yên mờ mịt mà Huê hằng mong mỏi đã bắt đầu xuất hiện ở chân trời.
Niềm mơ ước lấy ông chồng già, giàu có để hưởng gia tài trước kia e rằng sẽ bị lộn ngược hoàn toàn.
Thế rồi cái đám cưới bình dị mà Huê mơ ước cũng trở thành hiện thực. Một người đàn ông trong xóm, không giàu nhưng chăm chỉ, sức khỏe tốt lại còn độc thân đã tình nguyện chui vào chiếc lưới hôn nhân với cô.
Dịp nầy, các cô gái trong xóm "..." được mời tất tần tật. Nhà của Công hôm đó được trang hoàng hết sức đẹp, cái cổng chào được kết bằng bông và lá đủng đỉnh với hình rồng hình phụng khiến cái đám cưới trở nên trang trọng vượt quá lòng mong đợi của Huê.
Thấy trong mắt Huê hiện nét buồn buồn, Nụ hỏi:
-Sao ngó mặt chị hổng được vui vậy?
Huê đáp:
-Tao nhớ con Hà!
Nụ bỗng sụt sùi:
-Em cũng vậy. Chị có mời hông mà hổng thấy chỉ tới?
Huê thở dài:
-Tao có nhờ thầy Công viết thơ báo cho nó biết, không thấy nó hồi âm hổng biết có nhận được hay không?
Nụ an ủi:
-Chắc chỉ sắp tới rồi đó. Hổng chừng ngày mai chỉ có mặt trong nhóm đưa dâu. Tới chừng đó em nhường cái vai dâu phụ nầy lại cho chỉ đó.
Huê ghẹo:
-Vậy là mầy bỏ chú rể phụ luôn hả?
Mặt Nụ đỏ bừng y như cái bông mồng gà.
Từ những ngày đầu tiên đến đây, Nụ đã lọt vào mắt xanh của Do người anh ốm yếu mà Dự thương yêu rất mực.
Ai nói câu"yêu thì ốm mà ôm thì yêu" là xạo! Lấy Do ra làm thí dụ điển hình, mới thấy câu đó trật lất.
Người con trai, nhút nhát, thụ động ấy bỗng trở nên linh hoạt hơn bao giờ hết. Vẻ nhu mì, tính hiền hậu của Nụ đã làm trái tim Do đập rộn rả, khiến máu chạy đều khắp cơ thể rồi gia cố lại mọi chỗ hỏng hóc.
Làn da xanh xao với gương mặt âm u đã biến mất, thay vào đó là nụ cười tươi tắn, ấm áp như đốm lửa khiến mặt mũi Do bừng sáng, hồng hào hẳn lên.
Do vốn nhát gái, vậy mà không hiểu sao ngay lần đầu tiên thấy Nụ anh đã bám dính khắng. Chàng đã mạnh dạn tỏ tình ngay trong lần gặp thứ ba.
Do không nói nhiều, anh mượn việc làm để thể hiện cái tình đang sôi sùng sục của mình. Nhờ quan tâm đến Nụ từ chân tơ kẻ tóc, chàng biết Nụ khao khát việc biết đọc, biết viết nên ngày nào cũng túc trực ở tiệm may để dạy cho nàng.
Lần đầu tiên Nụ được một người con trai đối xử với mình một cách thương yêu, trân trọng nên vô cùng cảm kích. Khi bàn tay Do trùm lên tay Nụ để tập nàng viết con chữ đầu tiên, Nụ đã chới với, đã xúc động đến rưng rưng và đã biết cái vị của tình yêu là như thế nào!
Huê biết vậy nên thường ghẹo:
-Hổng chừng mầy lấy chồng trước tao đó!
Nụ nghe vậy thì đỏ rực cả mặt nhưng không chối đây đẩy như các cô gái khác.
Thế nên ai cũng chắc mẫm là sau cái đám cưới của Huê sẽ là cái đám cưới của Nụ, nào ngờ...
Khi dì Năm, má Công, loan báo cho chàng bằng giọng ngượng ngập rằng bà sẽ bước thêm bước nữa, Công đã mừng đến ràn rụa nước mắt. Chàng thầm cảm ơn các cô gái xóm “..." đã đem lòng mong mỏi một cuộc hôn nhân tốt đẹp ra bàn luận với nhau khiến cái thành trì của má mình bị phá sập.
Sợ Công buồn, dì Năm an ủi:
-Má vẫn ở nhà của mình. Chừng nào con cưới vợ má sẽ truyền nghề cho nó, giao cái tiệm lại cho vợ con rồi mới về nhà của ổng.
Câu nói của dì khiến lòng chàng càng nôn nao. Công hét vang trong lòng:
-Hà ơi! Em ở đâu? Về đây với anh lẹ lên!
HẾT