← Quay lại trang sách

Những Đêm Dài Trên Đảo BIDONG

I

TIẾNG sóng biển vỗ vào bờ cát như điệu ru. Nhưng tôi không ngủ được. Trong đời, nhiều lần, tôi sống gần biển, đã nghe tiếng sóng với nhiều cường độ khác nhau. Tôi và trùng dương tuy không chung ước hẹn nhưng tình cờ, đã bao lần đẩy tôi vào vòng tay biển cả để cảm thấy sự nhỏ bé yếu ớt của con người trước sức mạnh đại dương! Đêm dài quá! Không phải đêm thứ nhất trên đảo, tôi mất ngủ. Bên ngoài gió thổi, những tàu dừa đập vào nhau hòa theo tiếng sóng tạo nên một âm thanh mơ hồ, dịu dàng như tiếng hát, vọng đến từ nơi xa xôi nào đó! Tiếng hát tuy nhỏ, nhưng thanh thoát, mơn trớn, vỗ về, mà sao trong lòng tôi lại nổi hằn từng mũi nhọn nhức nhối? Tôi biết, nếu không ngủ được, tôi có thể hất tung chiếc mền mỏng, chạy ra bãi cát vàng óng, mịn màng cách tôi không đầy ba mươi thước, để tự do chạy nhảy một mình giữa đêm khuya!

Một mình và một vùng biển xa lạ tha hồ suy nghĩ về thân phận của kẻ mất quê hương! Quê hương, quê hương, quả thực tôi đã mất quê hương, dù quê hương tôi, chỉ được tượng trưng bằng vài ba người bạn thân, dăm bảy chỗ ngồi quen thuộc! Sự thực, quê hương tôi không thiếu gì vùng biển đẹp, đẹp hơn vùng biển đang quây chặt tôi và nhiều đồng bào tôi cùng sống chen chúc trong kích thước hạn hẹp của một hòn đảo không thuộc về phần đất quê nhà. Tôi đã sống những ngày dài, thật dài với không khí vô cùng sinh động, ồn ào hỗn tạp thoát ra từ những chiếc loa phóng thanh treo cao trên ngọn cây, để phổ biến, kêu gọi mọi người có mặt phải chấp nhận cuộc sống tạm bợ này là một thực thể, không thể chối bỏ.

Càng khuya, tiếng sóng càng rõ vì giờ này thủy triều đang dâng. Có nhịp vỗ cánh của con chim ăn đêm. Tiếng vỗ cánh nhịp nhàng như tiếng thời gian lạnh lùng đang đẩy sự chuyển dịch vào vòng quay bất tận. Chim trên đảo thật hiếm. Thỉnh thoảng vào lúc sáng sớm tôi có được nghe tiếng hót của loài hải điểu. Tôi nhìn lên vòm cao dầy đặc bóng lá. Tiếng hót thảnh thót. Tôi muốn được nghe thật lâu, nhưng nó chỉ cất lên trong khoảng khắc rồi mất hút vào không gian xám lạnh, mờ nhạt!...

Chiếc giường ghép bởi những tấm ván to, nhỏ, dầy, mỏng khác nhau, được đặt trên hai chiếc đà bằng thân cây rừng cong vòng, kêu răng rắc, mỗi lần tôi trở mình.

Trên chiếc giường này, nhiều đêm tôi trằn trọc và suy nghĩ. Tôi suy nghĩ về những gì đã xẩy đến với tôi trong khoảng thời gian gần đây và những ngày sắp tới. Mỗi lần suy nghĩ, mỗi lần tôi cảm thấy như có một khối nặng, đè nặng trên mỗi suy cảm. Biết đến bao giờ tôi mới quên được, những năm tháng tù đầy với bao nhiêu gian khổ, nhục nhằn! Trong đêm dầy đặc, tôi mở mắt nhìn vào khoảng trống, tự nhiên phía trước hiện lên những rào tre nhọn hoắt, những bãi sình lầy đầy muỗi đói và đỉa, những cánh rừng già âm u, bất trắc, những dãy núi tím ngắt, nối tiếp, nối tiếp cao ngất, trùng trùng như những bức tường đá khổng lồ quây chặt từng số phận đang bị đầy ải giữa những thống khổ chồng chất mỗi giờ, mỗi ngày, mỗi tuần, mỗi tháng, mỗi năm! Không gian của trại cải tạo khắc nghiệt quá, bi thảm quá, nó dìm sâu mỗi con người vào đáy tủi hờn, phẫn uất! Tôi nằm đây, nghe sóng biển vỗ nhẹ ngoài kia, nghe gió rì rào trên những ngọn dừa không xa tầm mắt mà sao tự chiều sâu tâm cảm vẫn dấy lên từng cơn mê thảng thốt, từng cay đắng giận dữ đến hung cuồng? Tất cả đang múa lượn chập chờn giữa trạng thái nửa mê, nửa tỉnh! Tôi mong sớm đi vào giấc ngủ. Một giấc ngủ tuy mệt mỏi, rã rời nhưng ít ra, nó cũng có tác dụng làm quên đi những gì không muốn nhớ!

Nhưng các sợi dây thần kinh của mắt cứng đơ, bất động! Tôi vốn phải thức như những đêm trước, cho tới khi quá mỏi mệt, hồn phiêu phiêu đi vào cõi mộng lúc nào không hay!...

Có lẽ, bị ám ảnh quá nhiều bởi những năm tháng sống dưới bạo lực, nên tôi không dễ dàng quên hay dứt bỏ những gì thuộc về quá khứ. Nhiều lúc, giữa đêm khuya, ngồi đối diện với bóng tối, với khoảng trống khủng khiếp của hư vô, tôi vẫn bàng hoàng tưởng như mình còn đang sống trong hoả ngục, và cả thân xác lẫn tâm hồn đang bị siết chặt trong từng từng, lớp lớp kẽm gai giăng mắc suốt dải quê hương.

Tôi rời bỏ quê hương, tức là tôi đã tự cắt đứt sợi dây thiêng liêng từng buộc chặt linh hồn mình vào kỷ niệm từ buổi sơ sinh tới bây giờ. Tôi vĩnh viễn xa rời kỷ niệm, xa rời những gì mà cứ tưởng như không có sức mạnh nào tháo gỡ nổi. Tôi ra đi, tức là tôi đã chấp nhận cuộc chơi, đem hơi thở quý báu của đời mình đổi lấy tự do.

Miền Nam đã vào mùa mưa. Những bước chân cuối đi ra khỏi mảnh đất quê hương thật nặng nề. Tôi đã di chuyển suốt đêm dài dưới cơn mưa tầm tã, khi ngồi thu mình trong lòng chiếc suồng nhỏ trôi êm êm như những con thuyền ma giữa bóng tối mênh mang, khi băng qua những cánh đìa rộng rinh, nước ngập tới đầu gối, khi bước lảo đảo trên những con lộ nhỏ trơn trượt, té lên, ngã xuống như người tập sự vào nghề làm xiếc, khi băng qua hàng chục con kinh nước ngập tới ngực, tới cổ và cuối cùng, trước khi gặp thước nước đầu tiên của biển cả, tôi phải lội xuyên qua bãi “thảo lền” dầy đặc muỗi đói, dài trên cây số. “Thảo lền” là tiếng gọi của dân địa phương để chỉ lớp đất bồi của đại dương đặc ân đành cho miệt biển Bạc Liêu, Cà Mau. Nó là loại bùn lún. Mỗi bước chân đi trên “thảo lền" nặng gấp hai mươi lần trên đất cứng. Khi tôi rút được bàn chân cuối cùng lên khỏi mặt bùn, đặt nó vào lòng nước thì mặt trời đã nhô lên ở phía Đông, chân biển. Từ chỗ tôi đứng, chỉ cách đồn Công An Biên Phòng không đầy bảy cây số đường chim bay. Tôi đứng trơ vơ như một thân cây trụi lá, như một cây mốc trước ống nhòm, như một tấm bia cho những viên đạn A.K. lao tới.

Chiếc ghe có nhiệm vụ đưa tôi ra khỏi quê hương đậu ở xa, quá xa tôi, nó đang nhấp nhớ theo triền sóng. Tuy nhìn thấy, nhưng chẳng cách gì tôi có thể tới gần nó được. Sống và chết chưa bao giờ gần tôi như vậy! Mệt quá tôi ngất đi, mặt úp xuống nước. Nước biển mặn chát ào vô miệng. Tôi ngậm cứng môi ngất đi. Tiếng sóng từ bờ cát thổi dồn dập. Tai tôi không còn phân biệt được tiếng gió và tiếng sóng! Tất cả chìm dần, chìm dần rồi mất hút vào chiều sâu vô thức!...

2

GIỜ thứ nhất của một ngày đã khởi hành bằng bản hành khúc Việt-Nam, Việt-Nam. Kể từ phút này, đời sống của những người tị nạn bị lôi cuốn theo các tin tức được phổ biến qua loa phóng thanh. Tiếng loa họat động từ sáng sớm tới mười giờ tối. Mỗi lần phóng ra để phổ biến một công việc, hoặc kêu gọi đồng bào tham gia công tác, đều kèm theo lời dọa nạt, nhức nhối, khó chịu! Người ta không thể suy nghĩ, không thể tìm được một giây phút yên tĩnh ở không gian này. Sự thực, cũng chẳng có phương cách nào khác, để điều hành công việc, cho một số lượng người quá đông trên đảo. Đồng bào tôi đó! Những con người cương quyết không chịu sống chung với Cộng Sản dưới một vòm trời. Phần lớn, họ không thuộc thành phần có lập trường chính trị rõ rệt, hoặc tham gia vào guồng máy chính quyền trước, mà đa số thuộc dân miền biển với nghề chài lưới cùng đàn bà, trẻ con thuộc gia đình họ. Rồi đến người Việt gốc Hoa và thanh niên trốn nghĩa vụ dưới chế độ Cộng Sản. Sau hết, một thiểu số thuộc các cấp sĩ quan đi học tập cải tạo về cùng trí thức. Số lượng trí thức có tỷ lệ rất thấp. Nó thấp, không phải những người trí thức muốn ở lại Việt-Nam để phục vụ chế độ Cộng Sản, chắc chắn Cộng Sản không ưa gì họ, nhưng chỉ tại họ không có môi trường. Sự ra đi quả thực, cũng chẳng dễ dàng! Tôi ngồi một chỗ, nhìn ngắm đồng bào tôi qua lại. Họ sinh hoạt trong một bối cảnh hạn hẹp nhưng không kém nhiệt tình. Mới mấy hôm trước đây, khi bước chân lên đảo, nhiều cô gái chỉ còn một bộ áo quần dính thân, chân đi đất, mà nay, cũng những con người đó, như có chiếc đũa thần, đã biến đổi họ thành những cô “đầm xã hội" thướt tha trong các bộ “xiêm y cứu trợ.” Tôi nhìn họ đi lượn lờ như đàn bướm muôn màu xuôi ngược theo các con đường mòn quanh sườn đồi. Có cô mặc quần xà-lỏn may theo kiểu Mã-Lai bó chẽn, ngắn tới hông, để lộ cặp đùi trắng ngần như hai chiếc ngà voi nhởn nhơ đi lại. Ở đây, mọi người coi đó như chuyện thường vì mỗi người đều có những suy nghĩ, lo âu riêng về vấn đề định cư! Tất cả đều biết, trước sau gì họ cũng phải rời bỏ hòn đảo này, nhưng họ muốn càng sớm càng tốt. Sự rời đi cũng tùy thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều diện. Khi còn ở Việt-Nam, mọi người chỉ có ý muốn ra đi. Nếu không bị bắt, không bị sóng gió đại dương vùi dập thì đời sống của họ được Liên Hiệp Quốc bảo đảm. Ý nghĩ đơn giản đó, nay đụng chạm trước thực tế trở thành buồn phiền, thắc mắc! Tôi đọc rõ từng nỗi phân vân trên mỗi khuôn mặt. Học sinh ngữ cũng là một trở ngại không nhỏ đối với người dân tị nạn. Có người học ba tháng, không thuộc nổi năm bài đầu, của chương trình bốn mươi bài căn bản. Rồi mai đây khi được định cư ở Đệ tam quốc gia, họ sẽ làm gì để sống, sau khi thời gian trợ cấp xã hội đã mãn? Họ lo âu cũng đúng thôi!

SỐ tàu cặp bến vào mùa này tương đối ít. Vùng biển Việt-Nam đang nằm trong chu kỳ “động”. Số người trên đảo vơi dần vì mỗi ngày có tới bốn đợt rời đảo, mỗi đợt trung bình tám mươi người. Tuy số người rời đảo đông như vậy, nhưng không vì thế, đảo trở nên vắng vẻ. Nó vẫn đông đúc, tấp nập. Ở đây, người ta tiễn đưa nhau bằng bài “Ngàn Trùng Xa Cách ”, bản tình ca của Phạm Duy. Không, tôi nhất định không đồng ý dùng bản tình ca đó làm bài hát tiễn đưa trong hoàn cảnh này, dù bài đó rất hay. Sự biệt ly giữa một cặp tình nhân không thể cùng chung định lý với sự biệt ly của những con người đi tìm tự do. Sự ra đi của những người ty nạn hôm nay, để tạo ngày mai, để mở ra trước mặt một vùng hào quang rực rỡ, để ôm đón vào lòng nguồn hy vọng.

Nó không thê thảm, hãi hùng như sự đổ vỡ của hai tâm hồn! Nhưng dù thích hay không, tôi cũng phải nghe, cũng như phải chứng kiến những gì mình không muốn nhìn, muốn biết!

Trên đảo có một Cao ủy tên Rex, người Mỹ, đặc biệt lo về cô nhi. Ông ta đi đâu, trẻ em theo như một cái đuôi dài. Ông nói khá giỏi tiếng Việt. Sở dĩ ông yêu trẻ Việt-Nam, vì trong thời gian chiến tranh, ông bị Cộng Sản cầm tù bảy năm. Ông đã trốn trại và được mấy trẻ em chỉ đường cho thoát.

Trong lúc rảnh rỗi, tôi hay đi tha thẩn để tìm hiểu một vài sinh hoạt trên đảo. Tất cả tổ chức điều hành trại được sắp xếp khá chặt chẽ, hợp lý. Nhưng vấn đề có hiệu năng hay không lại là chuyện khác. Tôi có nghe nói, nơi đây cũng bè phái, bon chen và tham nhũng qua nhiều hình thức. Từ lâu lắm, tôi mới được nhìn thấy lá quốc kỳ màu vàng ba sọc đỏ được kẻ bằng sơn, trong văn phòng trại, cơ quan đầu não của Cộng Đồng Ty Nạn trên đảo Bidong. Ôi, lá quốc kỳ, trong mấy chục năm, sống ở miền Nam, mỗi sáng thứ hai, tôi đã đứng, rất nghiêm chỉnh, mắt ngước lên, nhìn lá cờ được từ từ kéo cao theo bản quốc ca. Màu vàng tung bay theo hướng gió nói lên niềm kiêu hãnh của một dân tộc. Nay mắt tôi phải nhìn màu vàng với ba sọc đỏ bất động, im lìm trong một khung cảnh không thuộc về đất nước mình, tự nhiên trong lòng như có sợi dây thắt lại. Tôi chợt nghĩ đến ngày 30-4-75, nghĩ đến bao nhiêu đổ vỡ, nhục nhằn mà miền Nam đã gánh chịu trong suốt bảy năm nay và còn kéo dài đến bao giờ? Tôi nghĩ đến những chiến sĩ Phục Quốc đã chiến đấu liên tục dưới mọi hình thức để chứng tỏ cho Cộng Sản cũng như thế giới biết, miền Nam không thể và không bao giờ trở thành mảnh đất của Xã Hội Chủ Nghĩa! Các chiến sĩ dũng cảm của Mặt Trận Phục Quốc, có người đã hy sinh, có người đang bị Cộng Sản cầm giữ tại các trại Tập Trung Cải Tạo và còn rất đông đảo những người khác đang kiên cường chiến đấu trên từng thước đất quê hương, trong từng suy nghĩ của đồng bào miền Nam Việt-Nam để giành lại quê hương đã mất. Tên tuổi họ sẽ được lịch sử tô vàng. Hình ảnh họ sẽ sống mãi trong dòng lịch sử.

Một hình ảnh nữa không kém phần cảm động là tấm huy hiệu bằng gỗ, khắc bản đồ Việt-Nam với chiếc ghe đang tung sóng vượt biên. Tấm huy hiệu, tuy không phải một tác phẩm nghệ thuật, nhưng đã nói lên được sự quyết tâm của nhân dân miền Nam không chịu sống dưới ách thống trị bạo tàn của Cộng Sản. Ôi, Việt-Nam, Việt-Nam, biết đến bao giờ mảnh đất bất hạnh này mới thôi cơn khóc than vật vã qua từng giai đoạn lịch sử bi hùng?

Trên đảo còn có một hiện tượng không kém phần khích động, đó là vấn đề ngừa thai. Những tấm bảng mang chữ “Vì sao lại mang thai trên đảo?” với hình vẽ các loại vòng soắn cùng sự chỉ dẫn cách ngừa thai miễn phí mỗi sáng thứ hai, tại bệnh xá SICK BAY. Chính nhờ vào kế hoạch ngừa thai này, một số thiếu nữ tị nạn đã phóng túng hình hài mà vẫn đàng hoàng đứng đắn trước mắt mọi người! Hơn nữa, Cao Ủy Liên Hiệp Quốc cũng không chấp nhận việc kết hôn trên đảo và mang thai bừa bãi. Nếu ai vi phạm sẽ không được định cư tại Đệ Tam Quốc Gia. Nhưng thực tế, trên đảo vẫn có nhiều chiếc bụng bự! Mỗi đêm, loa phóng thanh đều kêu gọi Bác sĩ và cô đỡ đến bệnh xá vì có sản phụ sắp sinh. Tiếng gọi như lời kêu gào cấp cứu khẩn thiết phá tan giấc ngủ. Hỏi ra mới biết, các ông chồng muốn cho vợ vượt biên một cách an tòan đã “cây giống” trước khi đi, vì cướp Thái-Lan chê các bà mang thai, nếu quá lắm, có bị cưỡng hiếp, cũng chẳng sao, vì bào thai đã có bố đích danh.

Ở đảo chỉ có ba sự việc thật sự quan tâm đối người dân tị nạn. Đó là việc được gọi lên Hội trường để mở hồ sơ ty nạn, sau lên bàn phỏng vấn để được định cư tại Đệ Tam Quốc Gia và thư tín.

Mỗi thứ ba, khi chiếc loa phóng thanh mở mục thư tín, mọi người đều lắng tai, nếu bận việc, nhờ nghe hộ. Thư, đối với người dân ty nạn quả thực có một hấp lực lạ kỳ. Mọi người đều chờ để đón nhận tin tức thân nhân từ nước ngoài gửi đến, có thể là điện tín, có thể là thư bảo đảm, trong đó có tiền hoặc sponsor, có thể là thư thông tin gia đình. Nhưng dù loại nào, mỗi tin tức nhận được từ ngoài vào là nguồn an ủi và nhen nhúm hy vọng trong lòng mỗi người dân ty nạn. Lúc lên đảo, nếu ghe may mắn không bị cướp, giấu giếm được tý vàng, bán đi lấy tiền chi dụng thì đời sống được dễ dàng đôi chút, còn chẳng may ghe bị cướp, chỉ còn hy vọng vào sự chi viện của thân nhân nước ngoài gửi tới. Nhưng đau thay, có những bức thư mang trong ruột nó một khoản tiền, nhưng vì lý do nào đó, chẳng bao giờ đến tay người nhận! Người tị nạn lại tìm mọi cách để gửi thư đi báo tin, cứ thế, kéo dài những ngày chờ đợi!... Hy vọng và thất vọng như hai vòng xích nối liền nhau, quay đều từng nhịp vui, buồn trong tâm hồn người tị nạn!

Vấn đề định cư tại Đệ Tam Quốc Gia có lẽ, là vấn đề gây nhiều xúc động nhất. Khi mọi người đột nhiên nghe thấy từ chiếc loa, phóng ra câu: “Chú ý! Chú ý!” được thốt lên dồn dập kéo dài như tiếng kêu cấp cứu, thì tim mọi người như dừng lại trong sự hồi hộp, đợi chờ!... Tiếng xướng ngôn viên như biểu hiệu nỗi vui mừng! Từng tên và số ghe lần lượt bay vào không gian xao động. Có người reo vui khi thấy có tên trong list định cư; có người ôm mặt khóc rưng rức hay ngất xỉu vì thất vọng sau nhiều tháng sống vật vờ trên đảo, chỉ mong được rời khỏi nơi này. Tôi nghe nói, đã có năm người tự tử vì quá thất vọng, ba người chết, hai người được cứu sống. Có một ông già đã cầm búa tự bổ vào đầu, khi biết phái đòan “sù” mình. Có người đã cướp ghe để đi đâu chẳng biết. Có người ở đảo quá lâu, khi được rời đảo, trước khi xuống tàu đi Sungei Besi đã quỳ ngay trên cây cầu Zetty bé nhỏ, chắp tay lạy bốn phương trời. Hành động này vừa cảm động, vừa tức cười, nhưng là sự thực! Ôi, con người Việt-Nam, những người đã coi thường cái chết đến được đây, tại sao lại không dám chấp nhận thực tế, chấp nhận sự đợi chờ, dù cho sự đợi chờ trong tuyệt vọng! Trái lại, cũng có người can đảm dám nói thẳng với phái đoàn Mỹ: “Tôi không cần sống ở quốc gia ông!” rồi quay gót đi thẳng. Sau đó ít hôm, chính người đó, lại được mời đi định cư ở quốc gia họ vừa từ chối! Đây là ngoại lệ, xin đừng ai nghĩ rằng, mọi người đều có thể làm được như vậy!

Sự sinh hoạt trên đảo sống động và mật thiết quá, đôi khi, làm người ta có cảm tưởng như hòn đảo này thuộc phần đất Việt-Nam, nếu không có đồn Cảnh sát Mã Lai, hiện diện ở ngay đầu cầu Zetty với các binh sĩ Mã thuộc Lực Lượng Đặc Nhiệm ôm súng gác cầu, tượng trưng cho chủ quyền Mã-Lai trên đảo. Lực lượng này đã có những hành động không đẹp với đồng bào tôi qua lời kể của nhiều người. Họ đánh đập đồng bào tôi như đánh trống và cạo trọc đầu vì đã vi phạm những gì họ cấm như uống rượu, cờ bạc, hái dừa, uýnh lộn, chụp hình, bắt cá.V..V... Đánh, quả thực tôi chưa nhìn, nhưng cạo đầu, tôi có thấy.

Gần căn nhà tôi ở, có chuyện cãi lộn giữa gã đàn ông và mụ đàn bà. Sau một hồi nói qua nói lại, gã nổi nóng, văng tục, chửi thề. Mụ kia không chịu thua, trả miếng nặng nề hơn. Sau cùng, mụ đi thưa tại đồn Cảnh sát Mã-Lai. Một tên Cảnh sát Mã đến bắt gã đàn ông. Lát sau, gã trở về với cái đầu trọc lốc! Tôi nhìn gã, không nhận ra. Trong lòng tôi như có lửa đốt và có nhiều mũi nhọn ghim vào!...

Đồng bào tôi, sự thật là một khối hỗn tạp. Có nhiều người trẻ tuổi, kết bè lập “băng” gây những hành động bất xứng, kể cả chụyện giết người cướp của, nấu rượu lậu, đĩ điếm..v..v... Còn các tên Cộng sản vượt biên, một khi đồng bào tìm thấy dấu vết, được thanh toán bằng những trận đòn hội chợ. Nạn nhân biến thành một con mồi trước nanh vuốt của hận thù! Có tên Cộng sản sợ quá đã khóc lóc lạy như tế sao xin tha tội chết! Nhưng chẳng phải như vậy là hết, còn chuyện tiền bạc không sòng phẳng trong chuyến vượt biên cũng được cộng, trừ bằng võ lực. Tất cả như bị cuốn hút vào cơn mê loạn trong một khung cảnh không kém bi thương! Có lẽ, vì Bidong có nhiều chuyện không may, nên đồng bào đổi tên là “Bi đát”. Như vậy, vấn đề an ninh trên đảo, nhà chức trách Mã-Lai có chú ý tới cũng không phải chuyện thừa.

3

MỖI buổi trưa, nhạc sĩ Tuấn Khanh, tác giả Chiếc Lá Cuối Cùng, Quán Nửa Khuya... mời tôi lên thăm đồi cao. Anh mới sáng tác được bản nhạc mang tựa đề Hạ Buồn. Anh cho biết một vài anh em có list rời đảo, muốn tổ chức một bữa ăn thân mật để đánh dấu ngày giã biệt. Sự ra đi, coi như vĩnh biệt vì không lần nào nữa có thể quay lại; nhân dịp giới thiệu bản Hạ Buồn.

Một ngôi nhà xinh xinh nằm chênh vênh trên sườn đồi. Có lẽ, căn nhà này cao nhất đảo. Chủ nhân căn nhà, một người hùng chống cướp Thái-Lan đã rời đảo tháng trước. Tôi đứng trên bao-lơn, có treo một dò phong lan thả những chiếc lá xanh dài cong mềm, đung đưa theo chiều gió. Từ cao độ này, tôi nhìn xuống tòan khu trại.

Những căn nhà xập xệ đủ kiểu, làm bằng cây rừng, mái phủ tôn, tường được quây kín bằng những tấm nylon đủ mầu, tơi tả! Một vài dẫy nhà gỗ có tên gọi “long house” tương đối cao ráo, vững chãi, có đủ sức chịu đựng mưa gió. Tôi thấy đồng bào tôi di chuyển phía dưới như đàn kiến trên mọi ngả đường. Trại khá rộng, được chia làm bảy khu, cũng được tổ chức với hệ thống Khu Trưởng, Liên Gia Trưởng, có số nhà và có sổ gia đình y như tổ chức của thành phố Sàigòn khi trước. Những căn nhà nơi đây chỉ được dùng để che mưa nắng chứ không kín đáo, nhà nọ có thể nhìn qua nhà kia, do đó, các sinh hoạt đều có tính cách công khai. Mọi người đều phải làm quen với nếp sống này.

Tôi ngó thẳng phía trước mặt. Một khoảng biển xanh ngắt trải trước tầm nhìn. Ôi! đại dương, mỗi lần nhìn thấy, mỗi lần mạch máu tôi lại xôn xao như vừa uống xong ly rượu mạnh! Vài chiếc ghe chài Mã Lai chạy lập lờ giữa khối nước mênh mông, trông thật là buồn. Nắng đổ từ trên cao xuống, những đốm nắng loang lổ di động trên nền đất lẫn đá, làm cảnh vật thêm phần sinh động. Tôi nghe rõ tiếng nước chảy từ một khe suối nhỏ trên núi đổ róc rách ngay dưới chân. Dòng nước trắng ngần ném xuống phía dưới, làm tung những đốm nước lóng lánh như muôn ngàn giọt pha lê. Ngay cạnh đó, một bông hoa dại, màu đỏ chói, xoè tung cánh, đẹp như môi người thiếu nữ đang cười!

Bữa ăn trưa nơi đây mang màu sắc và hương vị quê hương như bánh xèo, bánh cuốn, xôi đậu xanh. Trừ món xôi, còn hai thứ bánh kia đều thiếu gia vị cần thiết, nhưng chúng tôi ăn vẫn ngon vì mỗi miếng, đều có cảm tưởng như đang nuốt vào cơ thể mình hương vị quê hương. Xin cảm ơn những bàn tay khéo léo của những cô gái Việt tị nạn. Các thực khách ngoài số anh em quen thuộc còn có vị Cao ủy Trưởng người Pháp mãn nhiệm kỳ sắp về nước và chị Tú Khương, Cao Ủy chuyên về công tác xã hội. Cao Ủy Tú Khương, người đàn bà Việt-Nam duy nhất trong tổ chức Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc tại Pulau Bidong. Quê chị ở Biên Hòa; chị qua Thụy Sĩ từ năm 1972 và nhập tịch quốc gia này. Chị nói thạo tiếng Pháp và Anh. Chị ăn mặc xuềnh xoàng, giản dị gần như không cần chú ý tới bề ngoài. Chị mang đôi kính trắng thật to, nói chuyện có duyên vui vẻ. Mọi người đều quý mến chị. Có chị trong tổ chức Cao Ủy, những người Việt tị nạn nơi đây như tìm được nguồn an ủi. Bữa ăn chấm dứt, phần văn nghệ bắt đầu. Lúc này trời bên ngoài đang nắng gắt, nhưng nhờ căn nhà ở trên cao nên luôn luôn có gió, làm mọi người cảm thấy dễ chịu. Tuấn Khanh đứng lên nói vài lời về nội dung bản Hạ Buồn. Anh sáng tác ca khúc này để bày tỏ nỗi nhớ thương người yêu còn ở lại quê nhà và nỗi đau của con người khi bắt buộc phải lìa bỏ quê hương!

Tiếng hát trôi dần lướt nhẹ vào không gian từng giọt âm thanh trầm buồn đứt nuối. Giọng hát Thanh Trúc, tuy không phải ca sĩ có tuổi nghề cao và điêu luyện, nhưng cũng đủ sức làm rung động những tâm hồn nhậy cảm. Lời ca khi vút cao như cánh chim xé gió, khi trầm lắng như từng đợt sóng mơn man bờ cát. Giọng hát được nhịp đàn của Linh và Hiếu dìu đi, nhưng nó không thoát khỏi không gian nhỏ hẹp này.

Nó quấn quít, trửng giỡn, chập chờn, qụyến rũ làm say mê, say mê...

Sau bản Hạ Buồn, các bài ca khác được tiếp nối với giọng hát của Diễm và Hiếu. Tiếng hát và âm thanh như có ma lực hút chặt vào nhau đi tới vùng trời siêu thoát!...

Khi tôi bước xuống đồi, mặt trời đã xuyên ngang tầm mắt. Vừa đi, tôi vừa cảm ơn Tự Do, vì chỉ có ở mảnh đất Tự Do, người ta mới có thể thực hiện được những gì gọi là nghệ thuật. Đối với Cộng Sản, nó là thoái hoá, đồi trụy! Nói đến Cộng Sản là nói đến đấu tranh, đến sắt máu, chỉ có Đảng và Nhà Nước!...

Sau bữa cơm chiều, tôi ngồi nhìn ra biển. Mặt biển phẳng lừ như dòng sông. Màu nước không xanh, nó bềnh bệch như da người bệnh lâu ngày. Không khí oi ả, bực bội. Tôi nhìn lên ngọn dừa. Những tầu lá rũ xuống im phắc. Cả những ngọn cây cao nhất cũng bất động. Một vài người bơi lội phía xa. Bãi biển Bidong có nhiều đá ngầm và dơ dáy vì rác rến không biết từ đâu trôi giạt về đây, vì vậy ít người tắm, trừ trẻ con và những ai rảnh rỗi, không biết làm gì cho hết ngày giờ!...

Dãy núi phía xa, miền cực Bắc Mã Lai đột nhiên bị che phủ bởi một lớp sa mù. Trời và nước không còn phân lằn ranh cách biệt. Màu trời càng lúc càng xám nặng. Mặt biển bắt đầu chao động. Những con sóng từ xa dồn vào bờ cao dần, đuổi nhau với tốc độ mau hơn. Gió thổi mạnh dần. Những tầu dừa đập vào nhau xào xạc. Nhiều chiếc lá khô bay theo chiều gió rơi đầy mặt đất. Tôi nhìn ra xa. Một màn mưa dầy đặc phủ kín khoang trời. Ánh sáng mờ mờ thoi thóp. Khi trời bắt đầu tối, Cơn mưa cũng vừa ập tới đảo và gió cũng thổi từ biển vào từng cơn dữ dội. Căn nhà tôi ở đung đưa như chiếc võng. Mái tôn run rẩy như lên cơn sốt rét. Ánh đèn trại bật sáng. Mưa đan mau và dầy hạt qua ánh đèn. Những thân dừa vật vã. Gió thổi bứt những cành cây to, ném xa cả chục thước. Hàng cột vặn mình kêu răng rắc. Trời bắt đầu giông. Gió thổi soáy như hút cuốn những gì có thể bẻ gẫy hay lấy đi. Tôi chợt nghĩ đến những chiếc ghe vượt biển đang lênh đênh giữa đại dương giông bão giờ này!...

Trong chuyến đi, đã hai lần ghe tôi gặp cơn giông. Cả hai lần may mắn, chúng tôi đều thoát. Hỡi, những ai đã vượt biển Đông, chẳng may gặp giông bão mới cảm thấy nỗi lo sợ là thế nào? Chiếc ghe nằm giữa cơn giông, chẳng khác gì một trò chơi của Tạo Hóa. Giữa đại dương rộng lớn, chỉ có trời, nước, tuyệt nhiên không có một vật nào trước tầm nhìn. Nếu có chăng, chỉ là đoàn cá nược to lớn, đưa những chiếc lưng đen ngòm bóng láng như những chiếc tầu ngầm phóng xuyên suốt đại dương chẳng kể gì sóng gió. Tôi ngồi trong ghe nhìn lên, vòm trời như một chiếc vung vĩ đại úp chụp xuống đại dương. Một vệt mây đen nổi lên ở cuối chân trời. Vệt đen đó lớn dần, lớn dần và chuyển động với tốc độ rất nhanh. Sóng biển cũng chuyển động theo. Từng đợt, từng đợt nhô cao, trải rộng, tạo nên những lõm sâu thăm thẳm. Từ đám mây đen đó, thả xuống một làn khói mỏng, rồi làn khói đó đậm đặc dần, di chuyển theo tốc độ gió. Chỉ một loáng, chiếc ghe nhỏ bé của chúng tôi đã lọt thỏm vào trung tâm cơn giông tràn ngập mưa gió. Chiếc ghe bị nhồi lên, dìm xuống như chiếc lá khô giữa những lượng sóng. Có lúc, tôi bị đưa vút lên cao rồi hạ thực nhanh xuống chiếc vực rộng lớn sâu hoắm, lúc ấy chỉ cần một ngọn sóng ào vô, là đại dương đã nuốt gọn con mồi. Chúng tôi đùa với tử thần trên ba tiếng đồng hồ, không phải một, mà hai buổi chiều liên tiếp. Nhưng đại dương, đôi khi cũng bao dung và hiền hậu nên số người vượt biển nhờ đó mà sống sót!

Buổi chiều nay, tôi ngồi đây, nhìn cơn giông đang gào thét hung hãn bẻ gẫy những thân cây to lớn như bẻ chiếc que nhỏ mà lo sợ giùm cho số phận những chiếc ghe chưa tới bến. Cơn mưa như thác nước trút xuống, xuống mãi chẳng muốn ngừng. Bãi biển lúc này tối đen, thỉnh thoảng loé sáng qua ánh chóp như ảo ảnh. Tiếng sấm nặng nề ầm ỉ vang động. Mưa và gió đã khoả lấp nhịp sóng biển, tuy tôi biết, nó vẫn chuyển động ngoài kia, đang tung cao sức mạnh đập vào ghềnh đá, đập vào xác những chiếc ghe nằm rải rác đó đây trên bờ cát, trong đó có chiếc ghe dài tám thước chở mười một đồng bào vượt biển, hàng ngày vẫn ép mình bên bờ đá, bềnh bồng theo dòng thủy triều lên xuống, nhất định không chịu chìm!...

Đã nhiều buổi chiều, tôi đi lang thang trên nền cát mịn, tôi nhìn những mảnh gỗ, những khối sắt sét rỉ vì bị nước biển ăn lâu ngày. Tôi nghĩ đến bao nhiêu sinh mạng, đến nhiều nỗi thống khổ đớn đau và những tiếng kêu gào thảm thiết hãi hùng vang lên trong đêm sâu dầy đặc, câm nín, lạnh lùng, tuyệt vọng! Chiếc tầu sắt, nặng hàng ngàn tấn, nằm chơ vơ trên nền cát, mới chỉ có mấy mùa mưa nắng, nay đã hoàn toàn hư hại. Chiếc tầu mang số TV.148, đã chở trên tám trăm đồng bào tôi vượt biên đến đảo Bidong này mấy năm trước đây. Nhưng chiếc tầu không may đó đã bị Lực Lượng Mã Lai kéo ra khơi. Nó cố gắng quay trở vào đảo, lại bị kéo ra. Như vây, trong mấy ngày liền, số người trên tầu chết gần hết vì đói khát và mệt, chỉ còn lại một ông già và cô gái. Ông già đã nhảy xuống nước bơi được vào bờ, nhưng vì thương con, ông lại bơi trở ra để cứu. Sau khi dìu được cô gái vào gần bờ, ông già đã đuổi sức. Một đợt sóng to xô đến. Đầu cô gái đập vào tảng đá; cô chìm dần xuống nước. Ông già cố kéo lên, nhưng sau cùng, ông cũng không còn sức nữa, để mặc cho những đợt sóng vô tình xô ông chìm theo cô gái. Chiếc tầu sau đó đã bị kéo ra khơi nhiều lần để đánh chìm, nhưng không hiểu sao, nó lại quay về bến cũ, nơi đầu tiên nó đến và nằm đổ như một chứng tích bi thương, phẫn uất! Sự kiện này, tôi chỉ được nghe kể lại. Một tượng đài được dựng lên ngay nơi ông già và cô gái chết để kỷ niệm, do những người vượt biển sau thực hiện.

Ôi, đại dương! Buổi chiều nay mưa gió đang trút từng cơn phẫn nộ trên hòn đảo nhỏ bé này, cũng là nơi tạm dừng chân của những người Việt-Nam tị nạn. Nước đại dương đang quây kín hòn đảo bằng muôn ngàn đợt sóng. Chúng tôi sống ở đây đôi lúc có cảm tưởng như đang sống trong Trại Tập Trung Cải Tạo vì đời sống của chúng tôi chỉ quẩn quanh trong kích thước hạn chế của hòn đảo nhỏ bé, được ghi nhận trên bản đồ bằng một cái chân nhỏ síu. Các quán cà-phê ngoài bãi biển đã tụ tập đông đảo thanh niên đến nơi đây để nghe nhạc, những bản nhạc vàng bị cấm dưới chế độ Cộng Sản. Dưới làn ánh sáng mờ mờ của quán, những bàn ghế đóng thô sơ được bày ngay trên cát, các ẩm khách đều là thanh niên tóc dài, mặc T- shirt, quần xà-lỏn. Các thiếu nữ tuy không son phấn, nhưng cũng rực rỡ trong những chiếc “áo đầm xã hội!” Những ai không tiền, cứ ngồi trên cát! Không khí quán cà-phê nơi đây nhắc lại không khí của phòng trà Saigon ngày trước, vẫn những ngọn đèn mờ ảo, những bản tình ca và giọng hát quen thuộc. Từng chuỗi âm thanh nức nở, nghẹn ngào thoát qua những chiếc loa, như tiếng than van ngàn kiếp khôn nguôi, như một ứ nghẹn, một giận hờn, buồn bã! Không khí bãi biển có lúc sôi động vì những bản nhạc Jazz. Tiếng trống, tiếng kèn dồn dập theo giọng ca gào thét điên cuồng làm át cả tiếng sóng. Cứ thế, cứ thế, mỗi đêm những thanh niên tị nạn chi phí khoảng thời gian chờ đợi định cư vào sự giải trí duy nhất đó, nếu không nói đến những câu chuyện tình trên đảo và nhưng cuộc vui có tính cách thu hẹp trong số bạn bè thân thiết. Nói cho đúng, Khối Thông Tin của Trại mỗi tối đều có chương trình phát thanh chuyên biệt về tôn giáo, về văn nghệ như Tiếng Hát Cho Người Vượt Biển, nhạc chiều thứ Bảy..v..v... nhưng các chương trình này ít được chú ý, vì các nghệ sĩ trình bầy phần lớn thiếu khả năng chuyên môn.

Mưa bắt đầu nhẹ hạt, gió cũng dịu bớt cường độ. Tôi nhìn bên ngoài. Một vài khu tối om vì hỏng điện. Những xác cây ngổn ngang như nhưng con quái vật. Toàn thể Trại trông tiêu điều, ủ rũ sau cơn giông gió!

4

Sau đêm giông, buổi sáng nay trời rất đẹp, gió thổi hây hây đủ mát. Màu mây xanh nhàn nhạt như sắc thu quê nhà. Sóng biển vỗ về bờ cát. Nhưng đời sống của người dân tị nạn không phải để nhìn và thưởng thức cái đẹp của đất trời mà mọi người đều có bổn phận và nhiệm vụ riêng. Tôi đến Hội trường để làm vài thủ tục cần thiết cho việc định cư. Không khí nơi này nhộn nhịp khác thường. Tất cả như bị cuốn hút vào guồng máy. Trên nét mặt mỗi người tị nạn đều in hằn nỗi băn khoăn bồn chồn như những thí sinh sắp vào thi vấn đáp. Trên chiếc ghế dài, tôi nhìn thấy sáu cô gái trẻ măng chưa ai quá hai mươi tuổi. Một người bạn nói nhỏ cho biết, đó là sáu cô gái đã bị hải tặc bắt đi hiếp mấy ngày, sau chúng mang đến một hòn đảo thuộc Mã-Lai và các cô được một ghe chài Mã đưa đến đảo. Còn chiếc ghe bị chúng phá máy, hiện chưa biết trôi giạt nơi đâu giữa vùng biển Thái Lan. Tôi sững nhìn, không phải vì tò mò, nhưng để đọc trên sáu nét mặt ngây thơ đó những gì gọi là tủi nhục, phẫn nộ và căm thù! Đã đành, những ai vượt biên đều phải chấp nhận tất cả rủi ro, ngay cả cái chết! Nhưng thà chết, chứ con người còn có chút lương tri không thể và không bao giờ thừa nhận sự cưỡng hiếp thân xác là một hành động tự nhiên. Đây, không phải trường hợp duy nhất, mà trong những năm gần đây, biết bao nhiêu thiếu nữ Việt-Nam đã bị hải tặc Thái Lan hãm hiếp? Dân tộc Thái Lan vẫn tự hào, có nền văn hoá cao, có kinh đô Bangkok rộng lớn, đầy đủ tiện nghi theo đà tiến hoá của nhân loại, có cung điện nguy nga, có những ngôi chùa rất uy nghiêm tráng lệ, có những bức tượng Phật mạ vàng dài mấy chục thước, có một tín ngưỡng lâu đời và tôn trọng đạo lý mà giờ này, Thái Lan vẫn còn có những tên hải tặc, những con quỷ làm nhơ bẩn cả vương quốc Thái! Tiếc thay dân tộc Thái chẳng nói gì và Thế Giới cũng bất lực trước sự sỉ nhục lương tâm này!... Chiếc ghe của chúng tôi vượt biển sau hai ngày giông gió, đến chiều ngày thứ ba cũng bị hai chiếc ghe Thái Lan cướp. Tôi nhìn thấy chúng tự xa, linh tính cho biết, đó là ghe cướp. Ghe của bọn cướp rất tốt, chạy với tốc độ khá nhanh. Từ hai đốm nhỏ ở cuối biển mà chỉ nửa giờ sau, chúng đã quây chúng tôi vào giữa. Chúng ra lệnh cho ghe chúng tôi áp gần, tung dây cho chúng tôi neo, áp vào ghe chúng, rồi ra dấu cho mọi người leo qua, xong bắt ngồi xuống. Trong khi ấy, chiếc ghe thứ hai dang xa như đề phòng phản ứng. Sau đó chúng dẫn từng người đến cuối ghe, ở đấy, chờ sẵn hai tên lo việc khám xét, lấy hết những gì có thể lấy được. Trong khi đó, mấy tên cướp khác nhẩy qua ghe của chúng tôi để tìm kiếm những của cải giấu giếm. May mắn thay, chúng chỉ lấy của, không đánh đập, hãm hiếp! Sau, chúng cho cơm cá, nước uống, rồi chỉ hướng đi. Chính nhờ sự chỉ hướng này, chiếc ghe của chúng tôi đã rút ngắn được nhiều dặm hải trình. Chiếc ghe đang bình yên lướt sóng, bỗng anh tài công reo lên khi nhìn thấy ở cuối biển cây tháp của giàn khoan dầu. Mọi người đều vui mừng như gặp được cứu tinh. Cũng vừa lúc ấy, máy ngừng chạy. Biển mênh mông vây lút bốn bề không một bóng thuyền. Những cánh chim bay sà mặt biển báo cho chúng tôi biết, ghe không xa đất liền bao nhiêu. Anh “tài cải” lao xuống hầm máy. Lát sau anh cho biết: bể hộp số! Tim chúng tôi như dừng lại. Tôi nhìn chằm chặp về phía cuối trời như nhìn thấy đời sống của mình và những người cùng cảnh ngộ, treo trên đầu ngọn tháp xa vời. Chiếc ghe im lìm, lắc lư theo triền sóng. Nét mặt những người trong ghe chảy dài, im sững như những khuôn mặt bằng sáp bị hơ lửa.

Chiều nay Chủ Nhật. Nắng vàng chói lọi phủ đầy trên cảnh vật. Màu biển xanh ngăn ngắt xa thẳm. Tôi và Hòa, người bạn đời dũng cảm, trèo lên ngọn đồi Tôn Giáo, nơi tập trung đức tin! Có nhiều ngả đường dẫn lên đồi, nhưng chúng tôi muốn đi bằng ngả trước, qua xác con tàu sắt TV-148 đã hoàn toàn hư hại. Tôi nhìn nó như nhìn một chứng tích bi thương, uất hận! Chúng tôi lần theo những nhịp cầu gỗ bắc qua vùng cát thấp trước khi leo lên đồi. Tôi ngẩng mặt nhìn lên. Những bậc thang to nhỏ, cao thấp không đều dẫn tới nhà thờ. Tôi leo từng bước mệt mỏi. Cây thánh giá in trên nền trời như một thách đố đã gần hai ngàn năm, qua bao nhiêu biến thiên vĩ đại của lịch sử nhân loại, Chúa vẫn còn đó! Tôi đứng ngoài nhìn vào. Căn nhà thờ tuy được dựng sơ sài nhưng cũng vừa đủ để nói lên sự tôn nghiêm. Những hàng ghế cầu nguyện được xếp ngay hàng, thứ tự. Anh các vị Thánh treo rải rác trên những cây cột gỗ lâu ngày đã trở màu nâu xỉn. Nơi chính giữa là bàn thờ với đầy đủ nghi thức tôn giáo. Chúa có đó, đang bị đóng đinh trên cây Thập Tự Giá to, sơn đen, trông vừa bi thương, vừa kinh dị. Tuy không có đạo, nhưng trong lòng tôi cũng dâng lên lời cầu xin cứu rỗi! Phía bên trái nhà thờ là đài Tạ ơn Đức Mẹ Maria. Đài Tạ ơn được xây bằng những tảng đá xếp cao trên một mũi thuyền, tượng trưng cho con thuyền vượt biển. Trên chóp ngọn đài, đặt tượng Đức Mẹ Maria. Trên những khối đá gài đầy những tấm bảng ghi lời cảm ơn Đức Mẹ đã giúp cho các con của Mẹ vượt biển bình yên. Chúng tôi ra khỏi khu nhà thờ đến bên đài kỷ niệm những thuyền nhân không may đã nằm xuống đáy đại dương! Đài xây trên chiếc bệ cao hình tròn, có năm khối xi-măng dựng đứng, tượng trưng cho những cánh buồm, đâm thẳng lên vòm trời, ở giữa, một bình hương lớn đầy chân nhang đỏ chói. Từ nơi đó, tôi nhìn xuống, qua những bụi cây nhỏ xíu, mảnh mai như cỏ, màu tím hồng mọc xen lẫn cỏ dại, chạy dài xuống bức tượng kỷ niệm, ông già đang kéo cô gái lên khỏi mặt sóng. Theo lời những người ở lâu trên đảo, loại cây đó mới mọc sau ngày bức tượng được dựng lên và chỉ mọc ở đây, toàn đảo không có. Mỗi chiều khi mặt trời xuống thấp, màu tím trở nên rực rỡ phản chiếu ánh nắng trông lóng lánh như màu máu đọng và mỗi khi trời xấu, biển sắp động, màu đỏ xẫm lung linh ma quái một cách dễ sợ! Phải chăng vẫn có sự gì huyền bí, sống động, xung quanh ta? Tôi đứng dưới chân bức tượng, xung quanh là biển cả vây lút. Tiếng sóng vỗ vào đá ầm ì liên tục phía dưới. Tác phẩm điêu khắc của anh Nguyễn văn Thành tuy không vĩ đại, chưa phải một kiệt tác, nhưng nó đã nói lên được phần nào tình thương và sức phấn đấu vô biên của con người trước nghịch cảnh! Bức tượng là một chứng tích, mai sau đây sẽ đánh thức lương tri của dân tộc Mã Lai về hành động của một số người Mã quá cứng dắn đối với những người tị nạn Việt-Nam hôm trước!

Chúng tôi lại men dọc lối mòn, bước dần theo từng khối đá lên đồi. Nhà Thờ Tin Lành là chiếc gạch nối giữa ngôi nhà thờ và chùa. Chiếc tháp chuông của nhà thờ Tin Lành với cây thánh giá cao vút, được quét vôi trắng toát. Kiến trúc rất giản dị mang nhiều sắc thái Tây phương. Qua khu Tin Lành, chúng tôi sang chùa. Chùa trông thẳng ra biển. Bức tượng Phật Bà Quan Âm được dựng ở phía bên mặt chính điện. Đức Phật dù ở nơi nào cũng vậy, vẫn những nét hiền hậu, bao dung. Dưới bóng đức Phật, con người luôn luôn cảm thấy sự bình an của tâm hồn và muôn vàn khổ lụy của kiếp nhân sinh hình như tan rã dưới bóng Từ Bi. Chúng tôi vào thăm chùa. Cảnh sắc vắng lạnh, tuy hương khói vẫn nghi ngút, nhưng toàn diện như đượm sắc u buồn, thiếu linh động, thiếu bàn tay và khối óc để tạo nên sinh khí trang nghiêm của một nơi thờ tự. Tôi hỏi, mới biết các thầy trụ trì đã rời đảo hết, hiện chùa do vài em trong gia đình Phật tử chăm sóc. Các em còn trẻ quá, làm sao nắm vững được đạo lý và đạo pháp để điều hành nghi thức tôn giáo.

Hòa thắp hương lễ Phật để tạ ơn!

Xen lẫn vào khu thờ phượng, có những ngôi nhà dạy Anh ngữ. Tiếng đọc bài âm vang làm mất đi phần nào cái không khí uy nghi cần phải có, của một khu vực chí tôn, chí thánh!

Chúng tôi lững thững ra phía trước, nhìn biển khơi, Hòn đảo ‘‘Cá Mập” chắn ngang tầm nhìn. Trông hòn đảo giống con cá mập đang nổi trên mặt nước. Nó nhỏ và khô khan. Một bãi cát bé síu nơi cuối đảo, xơ xác vài cây dừa nhô lên, nghiêng ngả theo chiều gió. Những người tị nạn đầu tiên đã khôn ngoan từ chối không chịu đặt chân lên hòn đảo “Cá Mập” vì nơi này không có sự sống. Tôi rời tầm mắt quay sang phía trái. Ở trên mỏm đất cao, sát mé biển, thuộc khu F đảo Bidong là nghĩa trang của dân tị nạn. Những chiếc thánh giá và mộ bia mọc lô nhô trên mặt đất tuy không nhiều, nhưng cũng đủ nói lên nỗi đau của những con người đã gánh chịu bao nhiêu nguy hiểm để đến được chốn này, lại bỏ xác nơi đây trước khi tìm thấy Tự Do. Trong lòng tôi dâng lên nỗi u hoài! Những người đã ra đi rồi nằm lại đây, đêm đêm hồn có phiêu phiêu trôi giạt theo từng ngọn sóng để tiếc thương và oán hờn định mệnh?...

Mặt trời đã chết đuối ở cuối đại dương. Chúng tôi xuống đồi, bàn chân nghiêng nghiêng theo nhịp bước.

5

Tôi đã phải sống trên hòn đảo kỳ cục, số lượng chuột nhiều hơn người tị nạn, phá phách mỗi đêm, coi sự có mặt của con người chẳng ra gì. Đêm nay tôi lại trằn trọc trên những mảnh ván khấp khểnh cũng như tôi đã sống những ngày dài, thật dài trên đảo Bidong. Từng đêm tôi đã thức trắng để suy nghĩ về đời sống, về thân phận của những người tị nạn. Có nhiều điều cần nói nhưng vì lý do này, lý do khác, chưa hoặc không thể nói ra. Tôi đã chán mì ăn liền và hộp thịt gà nhỏ síu phải ăn trong ba ngày, trên thực tế, ăn chưa đủ một bữa. Không, không, tôi không cần gì, muốn gì, ngoài vấn đề được rời đảo sớm ngày nào hay ngày đó. Tôi đã bị cầm tù, bị mất tự do nhiều năm, bây giờ tôi chẳng còn nhiều thì giờ để mất thêm nữa. Tôi cũng biết, hòn đảo Bidong nhỏ bé này mới chỉ là cửa ải thứ nhất, còn nhiều cửa ải khác được “Thế Giới Tự Do” mở ra với nhiều khó khăn đang chờ đón tôi, trước khi tìm được sự yên ổn, thoải mái cho đời sống riêng tư nơi Đệ Tam Quốc Gia.

Trong niềm thao thức, tự nhiên hình ảnh chiếc sà-lan chở dầu của Anh quốc hiên lên thật rõ ràng trong tiềm thức. Xin cảm ơn, cảm ơn tình thương vô biên giữa những con người tuy không cùng chung màu da, nòi giống, nhưng không thiếu lòng vị tha. Tôi chợt nghĩ đến đồng bào tôi, cùng chung tiếng nói, phong tục, tập quán mà đã săn đuổi, giết chóc nhau vô cùng tàn nhẫn trên từng thước đất quê hương trong mấy chục năm qua và đến hôm nay, tuy máu không đổ, nhưng sự giam cầm, đầy đọa, sỉ nhục còn tàn nhẫn hơn thú dữ! Vì không chịu nổi những nhục nhằn, uất hận dưới chế độ Cộng Sản, tôi đã đánh đổi cả đời mình lẫn sự nghiệp để lấy hai chữ Tự Do. Nhưng khi bước chân đầu tiên của tôi đặt lên mảnh đất tượng trưng cho tự do trên hòn đảo Bidong, tâm hồn tôi như bị một bàn tay vô hình bóp chặt lại, rồi có những chiếc móng sắc, nhọn cào xé làm cho rã rời, tan nát!... Tất cả mọi người trên ghe đều bị đối xử như những kẻ phạm tội qua lệnh của viên Đại Tá Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Độc Nhiệm Mã-Lai, mọi người phải ngồi xổm trên nền đất, xếp hàng ngay ngắn, không được nói chuyện, nếu không, có thể bị đánh đập hay bị sỉ nhục!

Sau một thời gian chờ đợi, mọi người lần lượt đứng lên trình diện, để cho một người thuộc Ban Trật Tự “check in”, khám xét trước sự chứng kiến của viên Đại Tá Mã-Lai. Việc khám xét khá kỹ lưỡng, cũng lần lưng nắn túi, mở tung từng thứ để tịch thu những gì mà họ nghĩ rằng có thể nguy hiểm cho an ninh trên đảo. Nhưng người dân tị nạn còn có gì ngoài vóc dáng tiều tụy, bơ phờ với vài ba manh áo quần không đáng giá! Cảnh tượng này giống hệt cảnh tượng trong trại Cải Tạo Cộng Sản mỗi lần Công An khám xét tù nhân chụyển trại. A, thế ra con người một khi đã mất chỗ đứng của mình, đều phải gánh chịu những thiệt thòi minh bạch về tinh thần cũng như vật chất, đôi khi mất luôn cả nhân phẩm. Sau khi khám xét xong, mọi người đều phải chích ngừa và khai báo lý lịch. Nội dung khai báo cũng chẳng khác bản tự khai của tù nhân trong trại Tập Trung Cải Tạo bao nhiêu!

Qua sự kiện trên, tôi càng vững tin, con người dù sống dưới chế độ Cộng Sản hay Tự Do đều là đối tượng chính trị của chế độ mình có mặt.

Tôi trở mình, cạnh gỗ chạm nhau tạo nên một chuỗi tiếng động, nghe rất rõ trong đêm tối. Từ sự việc “check in’’ tôi liên tưởng đến “check out”. Cảnh tượng “check out’’ tuy không ô nhục như “check in’’ nhưng Lực Lượng Đặc Nhiệm Mã Lai khám xét cũng không thiếu kỹ càng để thu lại những gì mà họ không muốn cho người dân tị nạn mang ra khỏi đảo như: giấy trắng, mền, thư từ nhờ nhau mang qua Kuala Lumpur để gửi cho dễ dàng. Có những người dân tị nạn lúc vượt biên mang theo mền lên đảo hoặc được tàu vớt tặng, nhưng lúc rời đảo, bị lấy lại hết vì Cảnh Sát Mã-Lai cho rằng, người dân tị nạn khi lên đảo chỉ có hai bàn tay trắng, nay rời đảo, dĩ nhiên, cũng phải trắng tay! Đã vài lần, tôi tiễn bạn bè rời đảo đi Trenganu để đến trại Sungei Besi, đã vài lần, tôi chứng kiến cảnh đó trên cây cầu Zetty bé nhỏ với chiếc Tàu Bludard sơn màu trắng toát, vượt biển với tốc độ khá nhanh, có ghế nệm, ngồi thoải mái, sang trọng, mà Liên Hiệp Quốc phải thuê của Chính Phủ Mã-Lai để chở dân tị nạn rời đảo.

Tôi quay mặt nhìn đăm đăm ra phía ngoài, Toàn trại chỉ còn thấp thoáng vài ngọn đèn. Tiếng sóng vổ rồn rập từ xa vọng vào nghe rất rõ. Đêm đã vào khuya, tôi muốn vùng dậy, chạy ra bãi cát, để tâm hồn được thanh thoát cùng sóng gió đại dương, nhưng sực nhớ, Lực Lượng Đặc Nhiệm Mã-Lai vừa ban hành lệnh giới nghiêm toàn đảo, từ mười một giờ đêm đến năm giờ sáng!...

Pulau Bidong 7-1982,