← Quay lại trang sách

Trong Vùng Ảo Giác

KHÔNG thể ước đoán bao lâu nữa, tôi còn có mặt trong kích thước này, một kích thước tù túng, quen thuộc. Từ trên mỏm đất cao thuộc khu B, tôi nhìn qua hai lớp rào kẽm, trông xuống những con đường giăng mắc phía dưới, như những nhánh cây chẩy xuôi ra cửa biển. Dãy núi đồi bao quanh, tuy không cao, nhưng cũng đủ tạo nên ngăn cách tầm nhìn. Tôi biết, đằng sau rặng cây đang chao động trên đỉnh dẫy đồi núi kia là thành phố Kuala Lumpur, một thành phố đang được hiện đại hoá với những cao ốc mấy chục tầng. Tôi đã nhìn thấy nó trong một sáng trời cao và trong, khi tôi đưa người tình đi nằm viện. Thành phố vừa thức giấc sau giấc ngủ ngắn. Tùng dòng ánh nắng chảy chan hòa trên đại lộ, trên các “đường cầu vồng,” ở giữa thành phố, như những cánh tay đang vươn ra đón nhận nhịp sống. Những khuôn cửa sơn đủ màu sặc sỡ và những chiếc bao lơn phơi đầy quần áo, như bất cứ thành phố nào có nhiều người Trung Hoa cư ngụ. Thành phố khá sạch và đẹp, nhưng bên cạnh đó cũng không thiếu những mái tôn sét rỉ, những vách ván cũ kỹ, những thân hình tiều tụy đi vật vờ trong các lối ngõ tối tăm!

Tôi cũng đã được nhìn thành phố này lúc sáng đèn, khi chiếc xe của ‘‘Hội Trăng Lưỡi Liềm Đỏ’’ đưa tôi từ Trengganu đến Sungei Besi. Chiếc xe chạy chầm chậm xuyên qua từng ngả phố. Những ngọn đèn muôn màu từ nóc các cao ốc sáng rực rỡ, làm cho Kuala Lumpur trở nên huyền ảo. Các đại lộ đông đặc xe cộ, chảy dài như dòng suối động cơ vô tận. Tiếng kèn trống vọng ra từ các hộp đêm như mời gọi. Những bộ xiêm y tha thướt rất đặc biệt của các cô gái Mã Lai làm chết sững mắt nhìn. Bao nhiêu quyến rũ và chào đón! Nhưng tất cả, đều ở ngoài tôi. Tôi đang ngồi đây nghe thời gian di động qua từng kẽ hở của cuộc sống chao động đầy bất trắc. Tôi, một người tị nạn đã bị Mỹ, Úc Đại Lợi, Canada từ chối vì không đủ ‘‘tiêu chuẩn tị nạn.” Gần một năm qua, tôi sống vật vờ như một con thú hoang giữa khu rừng âm u không lối thoát. Tuy không bị săn đuổi, nhưng chẳng lúc nào tôi tìm thấy ở đáy sâu tâm cảm sự lắng đọng, bình yên, thoải mái. Có lẽ, tôi đã nói không đúng lắm về hoàn cảnh đích thực, khi chính bản thân, không biết rõ vì sao mình trở thành một trái banh trao qua, đá lại, giữa các cầu thủ quốc tế? Phái đoàn Úc Đại Lợi “xù” vì lý do tôi đã trốn nghĩa vụ quân sự ở Việt-Nam, như thế có nghĩa Quốc Gia này muốn tôi phải cầm súng chiến đấu dưới lá cờ đỏ sao vàng qua Campuchia đánh chiếm, để phục vụ cho chế độ phi nhân, độc tài, đảng trị? Phái đoàn Canada ‘‘xù” vì tôi không đủ “tiêu chuẩn” vào nước họ; lý do này tuy mơ hồ, nhưng tôi cũng chẳng có cách nào chứng minh được sự hữu lý của mình cả! Có lẽ họ vừa nhìn thấy thân hình tôi ốm yếu, không đủ sức chịu đựng với cái rét bao la, đầy tuyết trắng của mùa đông lê thê kéo dài cả 6 tháng? Lồng ngực tôi, mai đây sẽ chứa đầy vi trùng Koch, làm ô nhiễm cả một vùng đất bao la rộng bằng nước Mỹ, nhưng dân số chỉ bằng một phần trên hai mươi! Phái đoàn Hoa Kỳ “xù” vì tôi đã không trả lời được câu hỏi: vì lý do nào anh rời khỏi Việt-Nam? Câu hỏi thực giản đơn, chẳng có chút gì khúc mắc, mà sao, lại khó trả lời như vậy? Tôi khẳng định: vì không ưa Cộng Sản, không muốn nhìn những chiếc nón cối, những đôi dép lốp, tôi muốn tự do!

Tôi cũng đã cố gắng moi óc để tìm những nguyên nhân vững chắc khác, có cơ sở lý luận đầy đủ, nhưng rốt cuộc “case” của tôi vẫn nhận chiếc “mộc xù” to tổ bố! Nhìn chiếc mộc giơ cao rồi ấn xuống, như chiếc búa ngàn cân bổ thẳng xuống đầu, làm tôi choáng váng. Trước khi rời khỏi căn buồng, với những nét lạnh lùng ẩn khuất đó đây, tôi muốn hỏi lại phái đoàn một câu, tương tự như họ đã hỏi tôi: vì sao các ông đã chạy khỏi Việt-Nam trước ngày 30-4-75? Nhưng đó chỉ là ý nghĩ, nó vừa bùng lên lại tắt ngúm ngay như ngọn lửa nhỏ giữa cơn bão lớn!

Tôi tiếc, mình không bị tàn phế, để có thể xin định cư tại Phần-Lan, vì quốc gia này có nhiều nhà khoa học đang thất nghiệp! Còn vài quốc gia khác muốn cứu vớt người tị nạn, nhưng vì lý do này, lý do khác, tôi tự nhận biết, dù có nộp đơn, thì thời gian chờ đợi cũng làm cho nản chí. Thế giới, có trên một trăm quốc gia, trừ vài nước Cộng Sản, mà sao giờ đây tôi không tìm ra thước đất dung thân, dưới bóng mát của vị “Nữ Thần Tự Do” đang giơ cao ngọn đuốc tại New York, bên bờ Đại Tây Dương?

Lúc này ở Việt-Nam, vợ con tôi đang chờ đợi gói quà. Đã mấy tháng, tôi không viết thư về nhà, vì biết viết gì trong hoàn cảnh nhoè nhoẹt đầy tuyệt vọng? Cái trại tị nạn Sungei Besi này, tôi đã thuộc nó từng phân vuông. Tôi đã chứng kiến biết bao chuyện vui buồn? Chuyện đến, chuyện đi và những cuộc tình đã diễn ra hỗn loạn trong vòng đai hạn hẹp, chen chúc bao nhiêu số phận bấp bênh!

Nhiều lúc suy nghĩ, tôi không hiểu vì lý do nào, tôi đã dùng hai lượng vàng, một phần do đồ cưới, phần còn lại, vay mượn họ hàng để mua một chỗ ngồi chật hẹp trên chiếc ghe dài mười hai thước rưỡi, máy một bloc, chứa gần trăm người, vượt biển Đông để trở thành người tị nạn đang cư trú bất hợp pháp trong ô đất Mã-Lai. Nhìn bản đồ, không xa bao nhiêu, mà phải mất hơn mười ngày lênh đênh trên biển cả, qua mấy cơn giông gió, một lần bị cướp, chiếc ghe mới tới được thước đất đầu tiên, báo hiệu sự sống! Chắc không bao giờ tôi quên được hình ảnh những tên hải tặc Thái-Lan hung hãn đã cướp bóc và hãm hiếp người tị nạn. Chúng lấy tất cả những gì có thể lấy được và hãm hiếp tàn bạo như lũ thú vật. Tôi đã nhìn thấy những cô gái sau khi thân xác bị cưỡng bức, mặt mày bơ phờ, đầu tóc rũ rượi, ôm mặt khóc nức nở, như vừa trải qua một tai nạn vô cùng khủng khiếp! Cũng như tôi đã nhìn rõ từng nét đau khổ, oán hờn, trên khuôn mặt anh chồng khi bắt buộc phải chứng kiến người vợ trẻ bị hải tặc lôi xuống hầm tầu cùng tiếng van xin uất nghẹn! Tất cả, như một cuốn phim vừa bi thương, vừa sống động, nó khắc sâu vào tâm khảm tôi như một chứng tích ô nhục không bao giờ phai lạt. Tôi thấy xấu hổ khi thấy mình bất lực trước những gì đã xảy ra. Tôi gục đầu, trốn tránh mặc cảm. Lần thứ nhất, tôi biết, thế nào là thù hận!

Những ngày và đêm dài sống trên chiếc ghe nhỏ bé, tôi đã chịu đựng bao nhiêu khổ cực, thiếu cơm, thiếu nước, thiếu giấc ngủ bình yên, thoải mái. Tôi đã ngửa cổ mỗi ngày hai lần để nhận vài ba giọt nước do một người cầm chiếc ống nhỏ, bơm vô miệng. Tôi tưởng không cách nào kinh qua được những giờ phút cực kỳ bi thảm. Đôi lúc quá chán nản, tôi muốn nhảy xuống đại dương để kết thúc đời sống, còn hơn phải kéo dài từng phút tuyệt vọng. Nhưng bản năng sinh tồn đã kìm giữ, nên tôi vẫn còn sống.

Sau khi đặt chân lên đảo, tưởng xong, vì cuộc vượt biên coi như đã trả giá, Thế Giới Tự Do sẽ đón tiếp tôi trong vòng tay êm ấm tình người. Nhưng không, tôi vẫn còn gặp nhiều khó khăn trên vấn đề tị nạn. Bị Phái đoàn Úc Đại Lợi và Canda xù nhưng tôi được Phái đoàn Hoa Kỳ nhận đơn, sau hơn hai tháng sống vật vờ trên đảo. Một sáng, chiếc Bludard đã đưa tôi từ đảo Bidong qua Trengganu từ đó xe hơi đưa tôi vượt qua sáu, bảy trăm cây số đường dài đến trại Sungei Besi trong một chiều oi bức. Những “căn nhà hộp” và những dãy “long house” che kín khuôn đất rộng. Cảnh sống ở đây tù túng hơn ở đảo. Nó thu hẹp tầm nhìn làm con người cảm thấy bực bội, vướng mắc! Từ phút đầu, tôi đã chán nó, nhưng định mệnh lại buộc chặt tôi vào nó, chẳng biết đến bao giờ mới gỡ bỏ.

Khí hậu Mã-Lai, nóng bức suốt ngày. Những cơn mưa xả xuống dữ dội rồi chợt tạnh, giống như cơn mưa miền Nam nước Việt. Vì là trại chuyển tiếp nên sự đến, đi làm không khí luôn luôn sinh động. Những khuôn mặt vừa nhìn thấy bữa qua, hôm nay đã biến mất. Tiếng loa rủ suốt ngày đêm làm tinh thần luôn luôn căng thẳng. Tất cả như bị cuốn hút vào guồng máy từ bảy giờ sáng, tới hai mươi hai giờ rưỡi mỗi ngày.

Vấn đề vượt biên quả thực không dễ dàng. Người đi cả chục lần không thoát. Người tù lên tù xuống mà sao vẫn qụyết ra đi, vì họ tin, nếu thoát khỏi tầm súng của Công An biên phòng, nếu không nằm dưới đáy đại dương, cuộc sống sẽ thăng hoa trong những bàn tay nhân ái! Nhưng thực tế đã mặc khải cho họ cũng như tôi, những gì ta mơ ước, không phải tự trời cao rớt xuống, nó cũng cay đắng và gai góc lắm! Mỗi ngày, tôi nâng chén cơm do lòng từ thiện của Cao ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc cứu giúp, do nhà thầu Mã-Lai thực hiện, thấy tủi nhục vô cùng! Tôi nuốt, như nuốt từng nỗi ưu phiền! Dù không muốn, nhưng chẳng cách nào từ chối một ly sữa loãng mỗi sáng, một con cá nhỏ buổi trưa và một miếng thịt gà kho hoặc rán, to bằng ngón tay, mỗi chiều. Từng buổi, tôi đứng xếp hàng chờ lãnh cơm, cái “đuôi” dài thậm thượt. Đôi khi lơ đễnh đứng chệch hàng, tôi bị giám thị Mã-Lai đá vào ổng quyển. Có người ăn chuối vô ý vứt bỏ bừa bãi bị giám thị bắt nhặt lên nuốt luôn. Tất cả những bí ẩn của Trại đều được phổ biến tại đây, có lẽ nhằm quên đi những phút đợi chờ! Câu chuyện bắt trộm đêm qua tại Trại B, là trại dành riêng cho những người tị nạn đi Âu Châu, nghe hoang đường, nhưng có thực. Theo lời kể, tên trộm mò vô mùng, cỏi quần người đàn bà; chị này tưởng chồng mò tiền ăn nhậu, nên để nguyên. Tên trộm hành động vụng về sao đó, người chồng thức giấc. Nó hốt hoảng chạy mất giữa tiếng nói: - Em cứ tưởng mình chứ? Mọi người cười ồ. Một chị trạc ba mươi, trông phốp pháp, mái tóc dài phủ ngang vai, phát biểu bâng quơ: - Vô lý, “khác”... là biết ngay!

Buổi lĩnh cơm nào cũng có những tin vui, kể cả chuyện ái tình lẩm cẩm thường xảy ra trong dẫy “long house” mới cất, nhưng chưa người ở. Tôi biết nhiều về nó, vì đôi lần, tôi cũng đã đưa người tình vào để khoả lấp “nỗi buồn tị nạn.’’ Cho tới hôm nay, ngồi trên mỏm đất này, tôi cũng không hiểu vì sao và từ lúc nào, tôi trở thành kẻ nói dối. Tôi đã nói dối để thoả mãn những nhu cầu thấp hèn do dục vọng đẩy đưa. Có lẽ, hoàn cảnh đã biến tôi thành con người khác. Hình ảnh vợ con nhạt nhòa sau mỗi ngày chờ đợi hao hụt. Chao ôi! người vợ trẻ, chẳng hiểu giờ này nàng đang nghĩ gì, đang chờ đợi gì ở dưới khung trời chứa chấp nhiều u uất, phiền muộn? Người đưa thư vẫn qua lại mỗi ngày trên chiếc xe đạp, nhưng chắc hắn không dừng lại trước căn nhà tồi tàn, có người đàn bà trẻ ôm đứa con nhỏ, chờ đợi một phiếu báo quà. Tôi biết, mỗi lần nhìn thấy hắn đạp xe qua nhà không dừng lại, nàng sẽ khóc! Nhưng lúc này tôi không muốn nhớ, muốn nghĩ đến nữa. Tôi muốn buông xuôi tất cả vì không có gì, còn gì để mơ ước!

Người đàn bà yêu tôi, đã có chồng, hiện đang còn học tập cải tạo. Tôi gặp nàng trong buổi lãnh cơm; chúng tôi đến trước giờ. Nàng mặc chiếc váy đầm xã hội. Thân hình tròn vo như chiếc thùng phuy. Mái tóc đen lánh, ôm gọn khuôn mặt bầu bầu. Người yêu tôi, không có vẻ đẹp cách biệt, nó chung chung như mọi người đàn bà có mặt, chẳng có gì hấp dẫn. Nhưng vì xa vợ lâu ngày, tôi chẳng có nhiều thì giờ để đắn đo suy nghĩ.

- Cô đi đâu? Tôi hôi hững hờ cho có chuyện.

- Mỹ! Nàng trả lời buông sống.

- Cô lên bàn chưa?

- Chưa!

- Chuyển trại bao giờ?

- Trên hai tháng!

- Sao lâu quá vậy? Diện gì?

- Chồng là sĩ quan, đang học tập cải tạo!

- Cấp gì?

- Đại Úy Biệt Kích Dù. Còn anh, lên bàn chưa?

- Bị Úc, Canada, Mỹ cùng xù!

-À, trước anh không đi lính sao? Có thân nhân ở nước ngoài chưa?

- Chưa, khi Cộng Sản vô chiếm Sài-gòn, tôi đang đi học!

- Anh ở đây bao lâu rồi?

- Gần hai mươi thẻ cơm!

- Anh vượt biên có vợ con không?

- Không, tôi chưa vợ!

Nghe tôi trả lời, tự nhiên mắt nàng sáng long lanh, nhìn chăm chăm như dò xét. Chẳng hiểu sao, tôi thấy bình thản, không sượng sùng khi trả lời như vậy. Vì tôi hãy còn trẻ, chưa ngoài ba mươi tuổi, nên có nói gì, cũng không tạo nên nghi hoặc! Hình ảnh vợ tôi thoáng hiện trong đầu, tôi vội xóa ngay bằng ý nghĩ: chuyện đùa cho vui mà, trong lúc đời buồn quá!

Nhưng sự thực, đây không phải là chuyện đùa, khi những buổi sau, tôi và nàng đã trở thành đôi bạn tình. Chúng tôi đã hò hẹn và hằng đêm, chúng tôi đã ngồi trên bờ cỏ tối để trụyền nhau hơi thở và đã dùng chiếc “long house” mới cất, chưa có người ở, để thoả mãn sự đòi hỏi của thân xác. Trong những giây phút ấy, tôi không còn là tôi, quên cả hoàn cảnh đích thực của mình, đang sống một đời sống vô định, không biết bấu víu vào đâu, chờ ngày “hốt rác’’! Nhưng nhờ có nàng, đời sống cũng phần nào hứng thú. Chúng tôi đã lãnh ăn cơm chung, ở cùng buồng, trong căn “nhà hộp”.

Đời sống trong căn ‘‘nhà hộp” quá xô bồ, ồn ào từ sáng tới đêm. Khi tôi đến ở, căn nhà này cũng có đôi tình nhân. Cô gái đã có chồng di tản qua Mỹ trước ngày 30-4. Anh này “xù” vợ và đã lập gia đình với người khác có làm hôn thú tại Mỹ. Cô gái vượt biên đi với cha già năm 81. Khi sang tới đảo, cô khai có chồng hiện đang ở Mỹ. Vì hoàn cảnh đặc biệt nên phái đoàn Mỹ chưa giải quyết, tuy cô cũng được rời đảo theo list định cư tại Hoa Kỳ. Cô gái có khuôn mặt khả ái nhưng buồn bã! Đôi mắt lúc nào cũng đắm chìm vào cỗi mơ hồ nào đó. Thân hình mảnh mai với đôi bàn tay nõn nà thon nhỏ như mười chiếc búp non. Cô, con chiên ngoan đạo. Mỗi sáng, mỗi chiều đều đi lễ và hằng đêm, trước khi đi ngủ, tôi còn nghe tiếng đọc kinh rì rầm! Sợi dây thánh giá luôn luôn đeo tòn ten trước ngực. Màu đen của cây thánh giá nổi bật giữa vùng ngực trắng muốt. Người bố già đã chết sau mấy tháng nằm bệnh trên đất Mã. Xác ông cụ được hỏa thiêu. Nắm tro tàn đựng trong chiếc hũ sành, cô đem gửi tại nhà thờ, dưới chân Chúa. Do cô đơn, buồn tủi, và có giọng hát dễ thương, cô thường tìm quên trong những tối có party tiễn đưa người rời trại. Mọi người dễ quen và cũng dễ trở nên người bạn tình, trong các dịp đó. Người tình của cô gái là một nhà “tu xuất” còn trẻ. Nghe đâu, anh ta đã tu tới chức thầy ba hoặc tư gì đó và đã xuất vào năm 79. Anh có chiếc trán cao nhẵn thín, những sợi tóc rủ sau gáy như bức màn thưa. Sau ngày xuất, anh đi dạy học. Anh cũng như tôi, vượt biên một mình. Anh đã được phái đoàn Mỹ cho tuyên thệ, chờ đi Bataan. Hình như cuộc tình của họ gặp nhiều sóng gió và gây khá nhiều dư luận! Họ bị lên án, bị giáo hội săn đuổi như những con thú hoang lạc giữa vùng đất cấm. Nhưng càng bị săn đuổi, họ càng bíu chặt lấy nhau để cùng chống đỡ với những bất trắc và nguy hiểm đang quây chặt họ trong từng mắt lưới. Lắm lúc, tôi nhìn họ, rồi nhìn lại thân phận mình, tuy không bị săn đuổi, nhưng tôi biết, cái mối tình do tôi dẫn dắt cũng không thể kéo dài. Nàng đã được lên bàn tuyên thệ, như vậy, ngày tôi trở về cô đơn không còn xa. Tôi cầu trời cho nàng mang bệnh, để ở lại đây lâu, cho tôi đỡ cô đơn, nhưng không, sau khi ICM chụp X Ray, chờ cả tuần không thấy kêu tên nàng tái chụp. Vì biết, trước sau gì cũng mất nàng, nên tôi sống vội, cố vơ hết vào mình những gì, tưởng như có lợi. Tôi vẫn nghĩ, nàng không phải vợ, nên dù chuyện gì xảy ra, tôi vẫn là kẻ thắng. Nhưng “Long House” cũng không phải là nơi ẩn nấp an toàn cho hạnh phúc bất chính; có thể, một phút bất ngờ nào đó, chúng tôi sẽ bị đưa về Task Force để hưởng cái án cạo đầu, nếu họ bắt gặp quả tang chúng tôi đang có mật trong “vùng đất cấm”. Quả thực, tôi cũng chẳng hiểu nàng có chút hối hận nào không, khi thân xác đã ngã vào vòng tay tôi, trong lúc người chồng còn đang gánh chịu bao nhiêu nhục nhằn giữa vòng đai cải tạo? Nhiều đêm khó ngủ, tôi cảm thấy mình là kẻ bất lương, không kìm nổi thú tính đã tạo nên nghiệp chướng. Nếu ngày nào được nghe tin, vợ tôi đi với một tên “cối xanh” “cối vàng” nào đó, vì lý do tôi không gửi quà về, chắc cũng không ngạc nhiên, vì tôi đã gieo gió! Những tên hải tặc Thái Lan cưỡng hiếp người tị nạn vì không cùng dòng giống, còn tôi, tuy không cưỡng hiếp nhưng hành động của tôi, xét ra, còn khốn nạn hơn chúng. Chẳng hiểu sao, tôi có thể nói, tôi yêu nàng bằng tất cả tâm hồn, bằng những gì cao quí nhất của đời sống? Chao ôi! người đàn bà đã có chồng đang tù tội, vượt biển đến đây, để phụ thuộc vào tôi, bằng những chiếc hôn kéo dài, bằng níu kéo rã rời, qua lời nói dối!

Nhưng buổi nay, thực tế đã buộc tôi phải chấp nhận sự ra đi của nàng là một mất mát. Chiếc sân rộng lớn của trại đã đầy ứ người tiễn đưa nhau. Ca khúc Nghìn Trùng Xa Cách lại cất lên nức nở và bài Tiễn Đưa được đọc lên, qua dòng điện nghe thảm thiết như lời vĩnh biệt! Không phải lần thứ nhất tôi nghe và nhìn thấy cảnh này, mà ở đây, thường như vậy. Đi và đến như những vòng xích đan kết làm cho cuộc sống ở Trại có cái gì vừa mong manh, vừa sinh động. Chúng tôi như hai pho tượng đứng trơ vơ ở góc sân. Bóng tối đã khoả lấp làm nhoè nhoẹt những hình thể đang chao động trước mắt như những con múa rối. Những thân xác hiện diện nơi đây, hay nơi nào khác trong vòng đai Trại cũng chỉ được hình dung như những kẻ khốn cùng, ngửa tay cầu xin ân huệ...

Tôi ôm chặt nàng trong vòng tay lần cuối. Tiếng loa đã kéo chúng tôi ra khỏi cơn u mê và nàng đã xa, vĩnh viễn xa tôi, như chưa bao giờ gặp. Cái mối tình tị nạn như vậy đó. Tôi phải chấp nhận nó như sự có mặt của tôi trong vòng đai trại tị nạn này là sự thực!

Tối nay một mình lang thang trên các lối đi ngang dọc phân chia từng khu, chưa bao giờ tôi thấy buồn vậy! Không phải tôi đã mất nàng, vì ngoài nàng ra, đâu có thiếu đàn bà “đói tình” đang chờ đón!...

Tự nhiên hình ảnh vợ con lại hiện về trong tâm trí. Người vợ trẻ mà tôi hằng thương mến giờ này đang làm gì dưới ánh đèn, trong một kích thước khốn khó của một Sài-gòn đã chết! Từ lâu, không nhận được thư từ nên chẳng rõ hoàn cảnh đích thực của gia đình tôi ra sao, sau những tháng dài miệt mài chờ đợi. Trước khi đi, tôi đã hứa đủ điều, nào thương yêu, chung thủy và sẽ gửi ngay và gửi thật nhiều quà, để cho vợ con tôi có một đời sống đầy đủ, chờ ngày đi bảo lãnh. Vợ tôi, người đàn bà chưa có chút kinh nghiệm nào về cuộc sống. Chúng tôi đã kết hôn khi cả hai đứa vừa thôi học. Dưới chế độ mới, gia đình bên vợ thuộc thành phần phản động. Ông già vợ hiện còn cải tạo tại miền Thanh-Nghệ-Tĩnh, kể từ ngày miền Nam bị Cộng sản xâm chiếm; cũng kể từ đó, gia đình vợ tôi xuống dốc. Sau những năm tháng dài chịu đựng, bà già vợ đã trút hơi thở giã từ cuộc đời, để lại đàn con bốn đứa, vợ tôi, con đầu lòng, ba người em đều còn nhỏ đã phải bung ra để kiếm sống. Đứa lớn nhất mười chín tuổi, buôn thuốc tây ở chợ trời, đứa thứ nhì ngồi đầu đường sửa xe đạp, đứa bé đi nhặt bao nylon cũ ở các đống rác tràn đầy khắp thành phố. Mỗi ngày nó đi từ sáng sớm đến chiều tối mới về. Tương lai của những đứa em vợ tôi đen ngòm. Vợ chồng tôi cũng chẳng hơn gì, nếu tình trạng cứ kéo dài. Tôi cũng ‘‘buôn chui” để sống qua ngày. Nhưng khó khăn cứ xiết dần từng nút.

Sau những tính toán, vợ tôi quyết định hy sinh để tôi vượt biên, vì buôn bán ngày được ngày thua, lâu dần hết vốn. Nhưng vợ tôi đâu ngờ, tôi đã bị ba phái đoàn nhận người tị nạn nhiều nhất “xù”, và tôi đang sống vất vưởng trong trại tị nạn như một vật thừa. Nếu biết trước, sẽ gặp trường hợp này, có lẽ tôi không dám đi và nhiều người chắc cũng nghĩ như tôi, thà chết đói dưới bàn tay khắc nghiệt của Cộng sản còn hơn phải gánh chịu cái nhục ăn xin, mất nhân phẩm!

Tôi trở về buồng khi chiếc loa đã phóng ra lời kêu gọi của Ban Giám Thị: “Bây giờ là hai mươi ba giờ, giờ qui định, xin tất cả đồng bào đi rong chơi hoặc tụ tập nơi công cộng, hãy trở về buồng, tắt đèn đi nghỉ. Sau đó Ban Giám Thị sẽ đi kiểm soát”. Tôi biết, tới giờ giới nghiêm, nếu lớ ngớ, có thể bị “thụt dầu” ít nhất trăm lần và bị ăn đòn nếu gặp giám thị nào hung dữ.

Căn buồng đã tắt đèn tối om. Nơi ngủ của tôi tối nay buồn tênh vì nàng đã ra đi. Cặp tình nhân lầm rầm, tôi không hiểu họ cầu kinh hay nói chuyện? Căn buồng tôi ở, ngoài đôi tình nhân, còn có một “lô ca” gồm hai vợ chồng, một đứa con nhõ, một người em trai và đứa cháu gái gầy như chiếc que. Họ đi Canada, nhưng cả trên năm, vẫn chưa đi được vì người em trai bị bịnh phổi. Tuy bị bệnh, nhưng loay hoay làm sao không biết, anh ta cho cô cháu mang bầu, đã kẹt lại kẹt thêm. Do đó, họ thường dần vặt, đay nghiến nhau mỗi ngày.

Thêm vào đấy có cô gái và bà mẹ già, hai mẹ con chiều nào cũng cãi nhau về vấn đề tiền bạc.

- Mày tiêu gì dữ vậy? Hay mày mê thằng nào, mày nuôi nó? Nay nã tiền, mai nã tiền, tiền đâu lắm thế?

- Con yêu ai kệ con, tiền của con làm ra khi còn ở Sài-gòn, má giữ, nay con cần, má không đưa, thế là nghĩa làm sao?

- Nếu tao không giấu kịp, cướp nó lấy mất ở giữa biển, lấy đâu mà đòi? Tao không đưa, mày làm gì được?

- Má không đưa, con cứ đòi!

- Cái tổ bố mày, đồ con gái thối thây!

Cô gái ôm mặt khóc rưng rức, vừa khóc vừa kể lể. Khóc chán cô ngủ ngay trên sàn nhà, chiếc quần soọc chật và cao tới háng để lộ cặp đùi no tròn như hai cây chuối non. Chiếc áo thung nhô cao, phập phồng theo từng nhịp thở. Tối nay, khi tôi về, hai mẹ con cô đã ngủ, nhưng tôi để ý hình như chỗ cô nằm, mới có thêm người nữa.

Khi thức giấc, ánh nắng đã tràn vào buồng. Giờ lãnh phần ăn sáng đã hết. Tôi vùng dậy hốt hoảng, nhưng có tiếng nói:

- Gớm cậu ngủ say như chết, tôi gọi hoài không tỉnh. Chắc tối qua mất ngủ. Tôi nhìn thấy ông Mậu đang ngồi trên sàn nhà với ly sữa loãng vơi quá nửa. Bên cạnh đấy, có gói mì ăn liền và ly sữa còn nguyên.

- Dạ, đêm qua sao khó ngủ, chắc tại lũ mèo từ đâu tới kêu gào thảm thiết quá!

Vừa nói, tôi vừa ngó qua cô gái và gã thanh niên trạc tuổi tôi, lạ hoắc. Không hiểu hắn dậy từ lúc nào mà đầu tóc đã gọn gàng, tươm tất. Cô gái nhìn tôi như thách thức. Quả thực, tôi cũng không hiểu vì sao cô lại nhìn tôi bằng cái nhìn thiếu thiện cảm đó? Có lẽ, khi tôi đến đây ở với người tình, cô còn cô đơn, nay trái lại, tôi trở về đơn côi, cô lại có người tình bên cạnh. Trông cô sáng nay hình như đẹp hẳn lên, tuy hằng ngày tôi vốn nhìn thấy cô có đó. Đôi mắt lá răm và chiếc mũi gẫy, đôi môi mỏng dính như hai sợi chỉ, tương phản với khuôn mặt no tròn bầu bĩnh. Bà cụ xoay lưng trông ra ngoài.

- Đây, phần ăn sáng của cậu, tôi đã lấy giùm.

Tôi cảm ơn ông Mậu, xong đứng dậy cuốn mùng, đi đánh răng, rửa mặt.

Trong căn buồng này có vợ chồng ông Mậu nhiều tuổi nhất. Ông bà qua đây vì đã có con ở Mỹ. Đáng lẽ hai ông bà đi định cư từ lâu, nhưng ICM đã nghi ông bà có bệnh phổi nên giữ lại. Tôi cũng không hiểu sao, ông Mậu lại sợ ICM đến thế. Mỗi ngày, khi ICM gọi đồng bào khám bệnh là mặt ổng tái đi. Ông nghe ngóng cho tới khi nào giới chức ICM ra về mới thôi. Có iẽ, ông sợ ICM còn hơn sợ Cộng sản! Ông đã bị ICM gọi chụp và tái chụp phổi tới bảy lần, thử đàm năm lần trong vòng bốn tháng vẫn chưa tìm ra bệnh. Mỗi lần tái chụp hay tái thử đàm về, ông Mậu lại chửi đổng: “Đù má nó chứ, bắt nuốt khói hóa học làm ho sặc sụa, chảy cả nước mắt, nước mũi, cứ như vậy, không bệnh cũng thành bệnh, chịu thế chó nào được!” Cả hai ông bà như hai con thú nhốt lồng lộn trong chuồng, cố tìm cách thoát ra.

ICM là vị hung thần đối với những ai có bệnh. Không hiểu sao, lại có nhiều người tị nạn có bệnh phổi như vậy? Tuy bệnh phổi hôm nay, không phải bệnh nan y, nhưng vẫn là trở ngại chính cho việc định cư sớm hay muộn.

Tôi nuốt từng sợi mì như nuốt vào dạ dầy mình từng nỗi buồn. Vì đã ăn mấy trăm buổi sáng, nên chán ngấy, cũng như tôi đã chán cái không khí hỗn tạp nơi đây. Mỗi ngày qua đi không vơi nhẹ, hình như nó trở thành nặng nề, nhức nhối làm dễ phẫn chí. Ăn vội cho xong, Tôi ra ngoài đi làm công tác cộng đồng. Vì không có khả năng sinh ngữ nên tôi xung vào Ban Vệ Sinh. Mỗi sáng, quét dọn đường mương, nhặt rác và đôi khi quét nhà cầu. Làm việc ít phút để trả nợ ba bữa ăn, tuy chẳng ra gì, nhưng cũng đủ nuôi sống con người. Sau công việc lao động phất phơ, tôi lại la cà đây đó để tiêu hết khoảng thời gian còn lại. Bữa nọ, tinh cờ tôi nói chuyện với một vị sĩ quan đã đi học tập cải tạo sáu năm; khi vừa được tha về ít hôm, ông ta vượt biên. Ông ta nói cho tôi biết về những nhục nhằn mà mỗi người tù phải gánh chịu trong Trại Cải Tạo. Tôi nghe, lòng bồn chồn khi nghĩ tới người đàn bà đã ngã vào vòng tay tôi mấy bữa trước đây. Nhưng tuổi trẻ vốn dễ quên, vả lại, lỗi không phải do mình tôi tạo nên, nếu không có sự thoả thuận của kẻ khác.

Trưa nay, tôi lại “làm đuôi” để lãnh cơm. Câu chuyện lọt vào tai, nói về chuyện cô gái tự tử đêm qua đã được cứu sống. Người cho rằng cô gái tự tử vì vấn đề ái tình, người cho cô ta chán đời vì bị Phái đoàn các nước “xù." Tôi không biết cô gái ra sao và lý do đích thực của nó, nhưng nếu cô gái có ý tự hủy cũng là điều không đáng ngạc nhiên.

Cách đây mấy tháng cũng có một anh chán đời vì đã ở quá lâu trong Trại Tị Nạn. Khi vượt biên, tôi đã có ý nhảy xuống đại dương nay lại muốn tự giải quyết một lần nữa cho xong, nhưng vấn đề khai bệnh, xin thuốc an thần lúc này rất khó khăn. Tôi nghe nói có nhiều anh vì quá chán cuộc sống tị nạn đã nói thẳng với Phái đoàn khi bị từ chối: “Nếu các ông “xù” tôi sẽ tự tử!”

- A, tự tử là quyền ông, còn nhận hay không là quyền của chúng tôi.

Sau khi nghe câu đó, anh kia sợ chăng, nên tôi vẫn thấy anh mỗi ngày, “làm đuôi” chờ lãnh miếng cơm, khoanh cá. Trường hợp tôi cũng không phải là trường hợp duy nhất; nó xảy ra cho nhiều số phận. Nhưng cũng có nhiều người, không hiểu sao, họ đi một cách dễ dàng, dù tôi biết, sự có mặt của họ ở đây hay ở một nơi nào khác cũng vậy thôi.

Buổi chiều nay trời đổ mưa. Cơn mưa to chưa từng thấy trên bầu trời Sungei Besi. Tôi ngồi trong căn ‘‘nhà hộp’’ nhìn ra bên ngoài, những hạt mưa đan mau làm nhạt nhòa cảnh vật. Dãy núi đồi bao quanh không còn hình dáng. Mưa tạt vào vách tôn dào dạt. Vì không có ai đã ở nước ngoài trước nên tôi hoàn toàn không nhận được thư cũng như chi viện. Tôi sống nhờ vào tổ chức Cao Ủy Liên Hiệp Quốc. Nhiều lúc thèm thuốc hút quá, tôi phải đi nhặt từng mẩu thuốc vứt bừa bãi đó dây. Khi tôi đang được yêu, nàng đã mua thuốc hút và quà bánh cho ăn. Ngày rời Trại, nàng có để lại cho tôi mười đồng Mã, nhưng nay đã hết. Tôi đành chịu. Thỉnh thoảng ông Mậu có cho một điếu, nhưng mỗi lần cầm, tôi cảm thấy ngượng ngùng. Từ phía bên kia, ông Mậu đang hút, khói thuốc toả ra đưa vào mũi, làm tôi xao xuyến. Trời mưa như thế này, ngồi giữa trại tị nạn, trong căn ‘‘nhà hộp" có một điếu thuốc hút, khoái vô cùng. Chẳng hiểu sao bữa nay, ông Mậu không mời, mà xin, tôi không muốn!

Tôi đưa mắt nhìn quanh buồng. Đôi tình nhân đang dựa vai thì thào. Bàn tay họ lồng vào nhau như chẳng muốn rời. Một vài người ngủ trên chiếc giường đôi. Những tấm nệm cũ kỹ, rách nát, dùng quá lâu ngày, màu vải thâm xịt, loang lổ vì thấm mồ hôi. Tôi nghe nói, trong căn buồng này, trước đây, thường xảy ra chuyện uýnh lộn giữa hai gã đàn ông tranh nhau một cô gái trẻ đẹp. Cô yêu cả hai anh, nhưng hai anh, không ai chịu nhường, do đó có chuyện lủng củng. Họ đã đi định cư tất cả ở Mỹ, chẳng biết rồi họ giải quyết ra sao, khi ở Hoa Kỳ dễ mua súng!

Hai mẹ con cô gái lại bắt đầu gây chuyện về vấn đề tiền. Gã con trai đến ngủ tối qua đi đâu mất! Trong một kích thước nhỏ hẹp của căn buồng, mọi người nhìn nhau hằng ngày, quá quen thuộc chẳng những hình dáng mà còn cả tính tình, nếp sống, dù có người mới từ Bidong chuyển đến. Mỗi người, một hoàn cảnh, một trường hợp định cư. Số dân tị nạn trong trại, lúc nào cũng trên dưới ba ngàn người. Mấy ngàn miệng ăn, không sản xuất, lao động gì nên trên các lối đi và chiếc sân rộng, đông nghẹt người rong chơi mỗi chiều. Ông Mậu ngồi hút hết điếu thuốc này đến điếu khác, tuy đang bị ICM nghi có bệnh phổi. Thỉnh thoảng ông ta lại lẩm bẩm như chửi rủa ai đó. Có lẽ õng chửi ICM, vì giới chức này đã làm khó ông trong vấn đề định cư. Tôi tuy chưa có may mắn được giới chức ICM sờ tới, nhưng tôi cũng nghi ngờ chiếc ngực của mình, vì sống bảy năm trời dưới chế độ Cộng sản, ăn uống thiếu dinh dưỡng, làm việc quần quật, lo nghĩ triền miên, làm sao vi trùng Kock tha được? Tôi cứ ngồi trơ trơ như cục đá, trong khi bên ngoài cơn mưa đã ngớt hạt, bóng tối cũng sập xuống. Căn buồng nhá nhem, bôi nhọ các khuôn mặt, chẳng ai muốn bật đèn. Tôi đứng lên kéo chiếc dây thả tự trần nhà. Căn buồng sáng bừng. Vì có ánh sáng nên các khuôn mặt tự nhiên linh động hẳn. Đôi tình nhân đã buông tay nhau, dù sao, cũng chẳng muốn để ai nhìn thấy sự yêu thương quá lộ liễu.

Vì không chịu nổi không khí ngột ngạt của gian buồng trên hai mươi thước vuông, chứa mười sáu người, tôi đi ra ngoài. Sau cơn mưa, tiết trời chùng xuống, không còn oi bức. Các vũng nước lấp lánh dưới ánh đèn như những chiếc gương. Chân tôi dẫm lên vùng ẩm ướt. Đôi dép cao-su lê sèn sẹt trên mặt con lộ đất. Tôi muốn đến chùa tối nay để cầu nguyện. Sự thực, tôi không hoàn toàn đặt đời sống tinh thần của mình vào niềm tin, vì Đức Phật có đó, không phải để thỏa mãn tất cả những đòi hỏi của chúng sinh. Người ta đi lễ chùa hay nhà thờ, thường để cầu xin cho mình những ân huệ. Ở trong mỗi con người đều có một ông Phật hay ông Jésus, mỗi lần thất vọng! Tôi nghĩ, ai đến đây, đều mang theo sẵn trong lòng niềm ước vọng nào đó, như được “lên bàn’’, hoặc sớm có list định cư! Nếu chậm trễ, họ cầu xin Phật, Chúa giúp đỡ cho nhanh, cũng như khi vượt biển Đông, họ đã cầu xin cho tới được bến bờ an lành! Do đó, đài kỷ niệm Đức Mẹ Maria trên ngọn đồi Tôn Giáo ở Bidong, gài đầy lời cảm tạ ân sủng thiêng liêng! Tôi tin, có một cõi nhiệm mầu nào đó ở ngoài ta, nhưng không phải cái cõi đó sẽ giải quyết thỏa đáng lời yêu cầu của mỗi con người tị nạn! Ông Mậu, một Phật tử thuần thành, tối nào hai ông bà cũng lên chùa khấn vái mà ICM vẫn hành hạ họ qua chiếc máy quang tuyến X.

Buổi tối nay, tôi quỳ dưới chân Đức Phật, tôi không cầu xin gì ở Ngài, tôi ngước nhìn lên khuôn mặt từ bi, hiền hậu để nhìn thấy sự thấp hèn của kiếp người, trước cái cao cả, vĩ đại mà đã trên hai ngàn năm qua, Đức Phật cũng từng cảm thấy như tôi, buổi tối nay. Mùi nhang tỏa hương thơm huyền ảo; xung quanh có nhiều người quỳ lạy, lâm râm cầu khẩn. Tôi đứng lên, lặng lẽ đi ra. Không khí mát rượi. Tôi nhìn về phía những chiếc “long house” chưa có người ở, tối om. Trong đầu tôi, hình ảnh “nàng’’ lại chiếu rọi, sáng rực trong trí nhớ. Giờ này ở dưới vùng trời Bataan, nàng đang nằm gọn trong vòng tay nào? Từ ngày đi, tôi không nhận được thư, có lẽ nàng đã quên! Tôi lững thững đi sâu vào vùng bóng tối. Vài dáng người ẩn hiện trong những khoảng vắng làm máu tôi rạo rực. Tôi cứ đi như kẻ mộng du, không ý thức được sự có mặt của mình là thực hay giả. Tôi ngước nhìn lên. Vùng trời đầy sao, xa thẳm. Dãy núi đồi đen xẫm đang trải dài sau hai lớp rào kia, nó có đấy, nhưng vô cùng cách biệt! Tôi, kẻ tị nạn không đất đứng; ngay cả nơi đây, tôi chỉ là người cư trú bất hợp pháp, chính quyền Mã Lai vì lòng nhân đạo cho tá túc chờ ngày định cư tại một quốc gia nào khác. Nhưng nay, Phái đoàn ba nước đã từ chối việc định cư của tôi, và những thước đất Mã-Lai có tôi đang góp mặt, còn chứa chấp cho đến bao giờ? Ngay xung quanh, một đống người đang sống chen chúc trong các căn “nhà hộp” trong những chiếc “long house” cũ kỹ, đang kéo dài một đời sống nhục nhằn, có nghĩ gì về ngày mai, về những bất trắc đang chờ đợi họ ở mỗi thước đường tị nạn? Tôi lê từng bước chân, mỗi bước chân như đeo một khối chì. Một vũng tối đen như miệng huyệt mở rộng với những ý nghĩ điên cuồng. Có một cái gì vừa mong manh, vừa ghê rợn a vào trí não. Đây không phải quê hương, biết vậy, nhưng cái không khí đang sinh động xung quanh vẫn cho cảm tưởng, tôi có và còn Việt-Nam trong hơi thở, trong ngôn ngữ.

- Ê, anh bạn, đi đâu vậy? Lơ ngơ ở đây để mang họa sao?

Tôi quay nhìn:

- A, Ông lên bàn chưa?

- Rồi, nhưng bị “rì-fơ” rồi!

- Sao, lại “rì-fơ"? Ông là sĩ quan đã từng chiến đấu mấy chục năm, đã bị Cộng sản cầm tù 6 năm đằng đẵng. Đời nào Phái đoàn "xù,” ông cứ nói đùa!

- Cái đó mới lạ, tôi mới lên bàn một và ba bữa qua, chiều nay được kêu lên bàn bốn. Phái đoàn đòi phải có giấy tờ chứng minh về đời binh nghiệp hoặc giấy ra trại vì tôi đã khai ở Bidong, còn giấy tờ chứng minh, họ bảo tôi gửi thư về Việt-Nam. Khi nào có giấy tờ, Phái đoàn sẽ cho tuyên thệ.

Tôi nói bâng quơ:

- Lạ quá nhĩ. Tôi sống ở đây gần một năm rồi, lần thứ nhất thấy như vậy. Các ông sĩ quan sang đến đây là “zọt" lẹ lắm. Binh nhì còn đi nữa là! Nhưng lỗi cũng do ông!

- Tôi nản quá, thư từ về Việt-Nam đâu có dễ. Từ ngày vượt biên, tôi gửi cả mấy chục lá, chẳng nhận được hồi âm! Tôi xin họ ‘‘xù” để nộp đơn đi Úc vì bên ấy, tôi có một người yêu, nhưng họ không chịu “xù” chỉ “rì-fơ” thôi, cái đó mới đau chứ? Đù mẹ, sáu năm tù Cộng sản, nay lại tù tị nạn, sống thế chó nào được, chán ghê!

- Sao ông liều vậy? Họ “xù” mình được, mình “xù" họ, đời khốn nạn đó. Tôi có biết, một người “xù” Mỹ để xin đi nước khác, chờ đến hôm nay, trên nửa năm rồi, vẫn còn nằm đây, chẳng nước nào chịu nhận! Nhưng này, ông đã khai trong “lô ca” tên tuổi vị hôn thê chưa?

- Tôi chưa khai!

- Cái đó, khó à!

Nghe tôi nói, ông ta có vẻ buồn, cúi mặt nhìn xuống nền đất đen kịt, rồi lặng lẽ đi khuất sau bức vách dài thuộc khối Giáo Dục, lúc này đã tắt đèn, trông ảm đạm như căn nhà hoang.

Tôi quay về, cũng chẳng thích thú gì, nhưng đi mãi cũng nản. Chiếc sân volley rộng lớn vẫn đông người như mọi chiều. Chiếc máy Tivi sáng rực đang phát hình. Một đám người xúm quanh theo dõi với tiếng cười nói ồn ào.

Khi tôi về đến nhà chỉ còn có hai mẹ con cô gái đang ngồi, mỗi người quay mặt về một phía. Cô gái mắt đỏ khé dưới ánh đèn, chắc vừa khóc sau trận đấu khẩu với mẹ glà. Vừa thấy tôi, bà cụ nói như phân trần:

- Này cậu, từ ngày đến đây, cậu có thấy đứa con gái nào mất nết như con tôi không?

Tôi sững người vì không ngờ bà cụ hỏi như vậy. Tôi nào có đứng đắn gì, hạnh kiểm ra sao, chắc bà cụ đâu lạ, trong thời gian tôi liên hệ với nàng! Tôi đứng như cây cột.

- Ai đời nó đưa trai về ăn nằm ngay trước mặt mọi người, như vậy nó bôi tro trát chấu vào mặt tôi còn gì? Này Cúc, nếu mày muốn, đưa nhau xuống ‘‘long hao” mà ở, đừng có giở cái trò khốn nạn đó ra trước mặt tao!

Cô gái có lẽ không dằn được cãi:

- Con đã lớn rồi, má không có quyền ngăn cấm! Con ăn nằm với anh ấy vì con yêu, con yêu, má biết chưa?

- Này, tao không cần biết, cái đồ thối thây. Nó có vợ con đùm đề cả đống ở Việt-Nam, ham cái nỗi gì?

- Ai nói cho má biết, anh ấy có vợ con?

- Tao đi hỏi “lô ca” nó ở Ban Hồ Sơ Cao ủy!

Nghe vậy, cô gái gục đầu xuống gối, hai vai rung lên! Không muốn chứng kiến màn bi kịch đó, tôi đi đến phía-giường, gieo mạnh người xuống, quay mặt vào vách, nhắm mắt lại.

Ông bà Mậu bữa nay vui vì đã được ICM giải tỏa bệnh. Ông đưa bao thuốc White Horse mời tôi:

- Này cậu, hút đi. Ngực tôi bằng thép mà. Lúc còn trẻ như cậu, tôi tập dữ lắm! Vi trùng làm gì nổi? Có thế chứ, chờ list là đi thôi.

Lúc này ông Mậu giống như đứa bé được người lớn tha tội! Tự nhiên tôi thấy ông trẻ ra, tuy bình thường người ông trông như trái táo khô, còn bà Mậu, tròn vo như cái lu.

- Lạ lắm, vi trùng Kock nó chọn người cậu ạ! Lắm người trông to lớn, hồng hào mà lại bị “cầm ly” đó.

- “Cầm ly" là gì ông?

- À, à, “cầm ly" để uống thuốc phổi đó! Mỗi ngày người bệnh phải đến Hội trường A để uống thuốc ngay trước mặt ICM. Nghe nói, họ buộc như vậy, vì có nhiều người uống thuốc lâu, chán quá nên đã vứt vào sọt rác!

Căn buồng tôi ở sao bữa nay toàn tin vui. Ông thầy tu xuất mấy hôm nữa đi Bataan vì đã có list. Cô gái, tuy buồn nhưng cũng chẳng làm cách nào để giữ lại người tình. Tối nay, họ tổ chức party mời toàn buồng và vài người quen thân. Cô gái cố làm ra vui vẻ, lăng xăng thu xếp, tính toán phải mua bán những gì? Ở đây, người ta tiễn đưa nhau bằng vài chiếc bánh quy, ly cà-phê và chụp vài “pô” ảnh để kỷ niệm. Những tấm ảnh được gửi về Việt-Nam. Anh em, họ hàng bè bạn nhìn thấy, mê quá, tìm cách vượt biên. Cứ như thế, như thế! Cũng có người cầu kỳ tự làm lấy bánh trái. Mấy tháng trước, tổ chức party không sao, nhưng hồi gần đây, phải làm đơn xin phép Task Force. Nếu tổ chức lén, họ bắt được là thụt dầu. Cách đây vài hôm, buồng hai, dãy 18 tổ chức lén, bị Task Force bắt, tất cả mấy chục người đang vui chơi ca hát, bị gọi ra sân “thụt dầu” gần chết. Cuộc vui tan trong những cái nhìn buồn bã.

Căn buồng tối nay có không khí khác hẳn. Không thấy ai buông mùng sớm. Hai mẹ con cô gái cũng không cãi qua cãi lại như mọi tối. Ông bà Mậu ăn vận chỉnh tề đi lại trong căn buồng như chính mình tổ chức. Mùi bánh thơm phức từ trong chiếc chảo đầy dầu bốc lên làm bắt thèm! Đã hai tuần lễ nay, tôi nhịn ăn sáng để lấy mì đem bán, mua thuốc hút. Tám gói mì một đồng, trong khi một gói thuốc White Horse hạng bét cũng bảy mươi xu. Như vậy, tôi phải nhịn ăn sáng cả tháng mới mua được hơn năm gói thuốc. Mỗi bao, hút tần tiện lắm, ba ngày cũng hết, ấy chưa kể mời qua mời lại. Càng buồn, càng hút, nhưng số thuốc có hạn nên tôi cố gắng chịu đựng tới khi nào không cưỡng được, mới rút ra một điếu. Nhưng tối nay có party, tha hồ hút thuốc ngon vì tôi đã nhìn thấy năm bao Dunhill đỏ chói để trên mặt năm chiếc đĩa men trắng, đặt rải rác trên sàn nhà cùng các đĩa bánh ngọt.

Tôi không ngờ, không bao giờ ngờ có ngày tôi phải chịu đựng một cuộc sống nặng nhọc như hôm nay? Tại sao những người đã ra đi, không ai nói sự nhục nhằn này cho những ai còn ở lại Việt-Nam, chắc họ nghĩ, có nói thực, cũng chẳng ai tin, và có thể cho rằng, mình bịa ra để làm nản lòng những ai muốn vượt biên; người đã thoát muốn hưởng sung sướng một mình!

Tôi tính nhẩm từ nay đến cuối tháng, tôi sẽ còn được dự hai party nữa của ông bà Mậu đi Mỹ và hai mẹ con cô gái đi Úc. Bữa nọ bà cụ có nói: Nếu có list đi, tôi mở party ngay.

Nói cho đúng, bà cụ không xấu gì trong cách cư xử với mọi người, nhưng có lẽ, tất cả những người già đều khó tính, nên sự thông cảm giữa bà cụ và cô gái coi như không bao giờ giàn xếp được. Cái môi trường sống hôm nay, giữa trại tị nạn này, không phải cái môi trường mà bà cụ đã sống ở Việt-Nam những năm, trước khi Cộng sản có mặt.

Căn buồng ồn ào tiếng nói cười. Mấy chục người, ngồi quây thành chiếc vòng tròn lớn, những đĩa bánh bích-qui và bánh chiên phồng, vàng óng trên rắc đường trắng tinh, trông hấp dẫn. Sau vài lời nói xã giao qua lại, mọi người ăn bánh, uống nước. Một anh ôm cây đàn guitare, nẩy vài cung bậc. Tiếng đàn chìm lắng vào tiếng nói cười rộn rã. Cô gái cất tiếng hát buồn bã vì sắp ly biệt người tình, rồi tiếp nối bằng nhiều giọng ca khác theo yêu cầu. Toàn những bài ca lẩm cẩm, ướt át! Cái party nào cũng vậy, có ngần ấy tiết mục, vì ở lâu, nên party nào đối với tôi cũng là cơ hội để ăn bánh ngọt và hút thuốc bù vào những lúc thiếu thốn!

Cuộc vui tàn theo điếu thuốc và chiếc bánh cuối cùng; những chiếc hộp đựng tàn thuốc lá đầy nghẹt! Lúc này đã gần tới giờ qui định. Biết vậy, tôi vẫn đi ra ngoài để hưởng chút gió mát vì sau mấy giờ ngồi trong căn buồng ngột ngạt hơi người, khói thuốc. Nụ cười của một cô gái mặc chiếc áo Polo và chiếc quần soọc ngồi bên, ám ảnh tôi hoài. Cô ở D-10, buồng 5, trước đây một vài lần, tôi và cô ta có dịp nói chuyện. Có lẽ tôi phải nói dối nửa, chứ buồn mãi chịu sao nổi? Nghe nói, cô ta cũng đang bị giới chức ICM làm khó. Bộ ngực cô lép kẹp, da mặt tái mét thiếu máu, nhưng đôi mắt cô sáng long lanh, sắc sảo lạ thường. Tôi có nghe nói những người có bệnh lao, mắt đều sáng như vậy. Nhưng lúc này, tôi chẳng cần, dù nàng có mắc bệnh lao thật. Nhưng việc gì tới sẽ tới. Tôi và cô gái đã trở thành bạn tình. Chúng tôi lại ngụp lặn trong đam mê để khoả lấp “nỗi buồn tị nạn”. Không bao giờ tôi có thế ước đoán được những gì sẽ xẩỵ tới trong ngày mai? Tôi đã gửi thư khiếu nại lên Cao Ủy, tôi đã tìm đủ mọi cách để ra khỏi nơi đây, nhưng lúc nào, tôi cũng nhận được câu trả lời: “Chờ, Cao Ủy sẽ giới thiệu đi nước khác!” Chờ, chờ đến bao giờ?...

Buổi chiều nay, tôi ngồi đây, trên mỏm đất này thuộc khu B nhìn ra ngoài. Tôi đã đưa người tình đi nằm bệnh tại Kuaia Lumpur từ hơn tuần lễ để điều trị bệnh phổi. Tôi lại tiếp tục sống những ngày dài vô vọng. Bạn bè cùng ghe đã đi hết; số ghe đã bị thời gian nhận chìm vào quên lãng. Tôi không còn nghe thấy dù là gọi để nhận thư.

Những con lộ vươn dài như những nhánh sông, lúc này đã sáng rực do ánh đèn pha chiếu liên tục. Dãy đồi núi chập chùng, giăng mắc phía trước đã trở thành một khối đen đậm đặc, lẫn vào bóng đêm. Không gian trước mặt bao la mù mịt. Xung quanh tôi lúc này hoàn toàn vắng lặng. Những ngọn đèn đã bật sáng vòng quanh trại, làm trông rõ hai lớp rào kẽm, giống như một trại giam. Trong các dãy “long house" hai tầng, với dòng điện mờ ảo, nhiều bóng người chen chúc ra vào. Những chiếc cầu thang lộ thiên nằm chênh vênh, trơ trụi. Chỉ còn lại tôi với “nỗi buồn tị nạn” gậm nhấm. Chưa bao giờ tôi cảm thấy cô đơn như chiều nay, tuy không cô độc. Xung quanh tôi, dòng sống vẫn có và còn đó, bao nhiêu thân phận đang khắc khoải, đợi chờ, mơ ước! Sự đợi chờ và mơ ước làm con người mòn mỏi, nhưng ở hoàn cảnh này chẳng biết làm gì để vượt thoát nó.

Tôi gục đầu xuống nhìn màu đất xám ngoét. Bỗng nhiên, thân xác tôi chơi vơi như có một sức mạnh hụyền bí nào đưa bổng lên cao. Tôi cảm thấy hình như mình trôi vào một vùng trời mới lạ, chưa hề nhìn thấy. Nó ẩn hiện, lẩn khuất sau lớp sương mù hư ảo. Tôi bay lượn giữa vùng trời đó, màu sắc biến đổi khôn lường như trở về giấc mơ nào xa xôi lắm, khi còn thơ dại. Bao nhiêu phiền muộn tiêu tan hết. Tôi như con chim non đang bay trên tuyến đường thứ nhất để tìm hiểu chiều rộng không gian. Đôi cánh chập chờn, chơi vơi, choáng váng giữa một cõi mênh mông, sáng rực, lấp lánh như một khối kim cương vĩ đại. Hàng triệu triệu đóa hoa lung linh, muôn màu, muôn sắc, chập chờn, quấn quít như dìu tôi vào một cảnh trí vữ cùng huyễn hoặc. Nó có đó, nhưng lại xa vời, mù thẳm! Từng đốm lửa lân tinh cháy le lói giữa một vùng trời hoang vắng, bát ngát, mà có lần tôi đã nhìn thấy trong vùng ảo giác! Tôi bỗng hôn mê bởi mùi hương quái dị. Tôi đuổi bắt từng làn ánh sáng thoáng còn, thoáng mất đang chờn vờn, múa lượn trước mặt. Không một ràng buộc, níu kéo nào làm cho đau đớn bàng hòang. Hình như tôi đang sống, đang hiện diện giữa mảnh đất quê hương ngàn đời yêu dấu! Vợ con tôi có đó. Tôi ôm người vợ trẻ vào lòng. Thân hình nàng nhẹ như tơ. Nàng ngước đôi mắt dại khờ nhìn tôi, nửa van xin, nửa trìu mến. Dòng tóc đen lánh, quấn chặt thân hình tôi như chiếc lưới. Ôi, những sợi tóc mịn màng mà tôi đã bao lần ve vuốt! Đứa con tôi, vô cùng trong trắng, áp má vào mặt tôi âu yếm. Mùi da thơm thơm hơi sữa mẹ, làm hồn tôi lâng lâng như được tắm mát trong một dòng suối thanh khiết, chảy từ trời cao. Căn nhà quen thuộc, tôi đã sống, đã yêu thương, đã cho tôi bao nhiêu vui buồn, giờ này đang trong tầm tay, khỏi cần thương nhớ! Chuyện vượt biên chỉ là giấc mơ! Giây phút tôi đang sống đây là sự thực. Cuộc đời đẹp như vậy, sao nỡ bỏ ra đi! Có tiếng gõ cửa gấp gáp, tôi đi ra. Một tên Công An cầm khẩu AK đi xộc vào, quắc mắt nhìn, nói lạnh lùng: “Anh theo tôi đến trụ sởn ngay!” Tôi hoảng hốt, toan chạy trốn. Giữa lúc đó, tiếng loa vọng đến tai: “Yêu cầu đồng bào từ Trại A qua Trại B về ngay, vì đã đến giờ qui định!”

Sungei Besi tháng 3-1983.