Lại Mùa Xuân
Tôi đứng như pho tượng, nhìn qua ô kính mờ đục hơi nước, cảnh vật trước mắt tôi không thay đổi sau lớp mưa trải dài, trông giống như chiếc màn làm bằng sữa. Cả một vùng trời nặng chĩu bởi những đám mây màu chì làm không khí vây quanh tăng phần u uất.
Tất cả như bị chìm lắng, khoả lấp vào cơn mơ huyễn hoặc. Tôi biết, bên ngoài trời lạnh lắm, dù nơi đây không có tuyết. Cái sự sống duy nhất, tôi cảm thấy là hang cây trồng ven lộ bị những ngọn gió thổi vật vã, nghiêng ngả như đang lên đồng!
Theo con số ghi trên tờ lịch, hôm nay, ngày ba mươi Tết. Nhưng sự thực, ở không gian này, nó cũng chỉ là một ngày bình thường như mọi ngày! Đã bốn năm rồi đó! Không hiểu sao, cứ mỗi lần gặp lại ngày ba mươi và những giờ phút cuối của một năm sắp qua, trong long tôi lại có sự xáo trộn với hình ảnh của những mùa Xuân cũ trở về như một ám ảnh, tạo nên sự tình bất ổn trong tâm trí. Tôi đảo mắt nhìn quanh. Gian phòng vắng lặng.
Tôi cố gắng suy nghĩ để có một ấn tượng nào đó khả dĩ làm cho lòng tôi nguôi ngoai nỗi nhớ, nhưng thực tế đã mặc khải cho hiểu, cái khung cảnh mà tôi đang hiện hữu, không bao giờ có thể thuộc về mình, không thuộc về cái nếp sống đã cắm rễ sâu vào tiềm thức tôi từ thuở ấu thơ. Cái bàn viết kia, cái ghế đó, cái giường ngủ với chiếc nệm dầy cộm này, cùng bao nhiêu vật dụng khác nữa, hàng ngày gần gũi tôi, nhưng sao lúc này, chúng trở thành trơ trẽn, xa lạ! Chúng có đó, nhưng chỉ là phương tiện. Chúng chưa có đầy đủ quyền năng hoặc hấp lực để buộc tôi phải coi chúng như một nhớ thương đến-chết-chẳng-rời! Tôi có thể vứt bỏ chúng bất cứ lúc nào, không mảy may luyến tiếc! Giữa chúng và tôi chưa có liên hệ sâu xa, chưa có kỷ niệm!
Cũng ngày này, năm ngoái, để nhớ lại cái không khí ngày Tết Việt-Nam, dưới mái gia đình, tôi đã thử biến chiếc bàn viết thành chiếc bàn thờ cúng tổ tiên. Tôi đã mua vải điều phủ kín rồi xếp đặt trên mặt, nào bình hoa, nào đèn cầy với chiếc bình nhang làm bằng vỏ hộp la-de chứa đầy gạo, nào cặp bánh chưng được mua về từ trên trăm dặm, nào hộp mứt ngũ vị với đĩa trái cây cao ngất. Nhưng sau khi thực hiện xong, đứng nhìn ngắm hồi lâu, tôi cảm thấy thất vọng, vì nó không giống và không tạo ở trong tôi một sự sùng kính nào, như chiếc bàn thờ mà tôi đã thấy và đã sống trong một khoảng đời dài rộng! Tôi nhớ đến cái bàn thờ tổ tiên mà cha mẹ tôi đã có công tạo nên, được đặt giữa nhà, nơi khoảng khoát nhất, trông thật uy nghi. Khi gần đến ngày Tết, chiếc bàn thờ được cha tôi cặm cụi lau chùi sạch sẽ. Đôi chân nến và chiếc đỉnh đồng, cha tôi dùng thuốc chà sát, biến cái chất xin xỉn trở thành màu vàng óng ả. Bức hoành phi và đôi câu đối sơn son thếp vàng, trông rực rỡ như mới. Tấm màn nhiễu điều, cất kỹ trong rương cả năm, khi lấy ra dùng còn thơm mùi băng phiến. Để tăng phần trang nghiêm và lộng lẫy, cha tôi còn mắc thêm bức riềm có thêu hình “Lưỡng long chầu nguyệt”, xung quanh có đính những miếng kim khí nhỏ, màu xanh đỏ, lấp lánh mỗi lần có cơn gió lọt vào. Thường ra, năm nào cha tôi cũng lên chợ hoa ở phố Sông Tô Lịch mua một cành đào thật đẹp, cắm trong chiếc độc bình đời Khang Hy và ghé qua chợ Đồng Xuân mua cặp thủy tiên để bày biện trên bàn thờ cho trang trọng. Mẹ tôi có trách nhiệm phải gọt tỉa làm sao cho hoa nở đúng đêm Giao Thừa. Có như vậy, sự làm ăn của gia đình trong năm mới, sẽ được hanh thông. Ở hai bên góc bàn thờ, ngay dưới đôi câu đối, thế nào cũng bày một cặp cúc đại đóa, hoa nở vàng rộ. Trên bàn thờ cũng không thể thiếu những chiếc bánh chưng vuông vắn, dầy cộm, màu lá dong xanh mướt nổi bật giữa màu men trắng ngà của chiếc đĩa Giang-Tây. Ngoài ra, còn những cân mứt hạt sen, ngũ vị, những đĩa chè kho, chè lam và mâm ngũ quả được bàn tay khéo léo của mẹ tôi trình bầy cho sắc màu hòa hợp: Vài trái bưởi Đoan Hùng, dăm trái cam Bố Hạ, mươi trái quít Thanh, một trái phật thủ và nải chuối xanh được xếp đặt thật gọn gàng trên chiếc đĩa thật lớn, có đế cao. Mấy phong pháo Bình Đà, loại điện quang nổ thật ròn, xác pháo hồng thắm, được đặt ngay ngắn ở mép bàn thờ. Ngày xưa, khi còn nhỏ dại, tôi thường lén mở, tháo dây, lấy từng chiếc pháo đốt chơi!
Như một cái lệ bất di dịch, cứ sau ngày hai mươi ba, tiễn ông Táo chầu trời, cha mẹ tôi dành hết thời giờ để sửa soạn ăn Tết, đón Xuân. Ngày Tết, đối với cha mẹ tôi hình như, không ngoài chiếc bàn thờ. Do vậy, nó phải bề thế và trang nghiêm để tạo nên cái không khí đặc biệt vừa đón Xuân, vừa để tỏ bày mối liên hệ tinh thần thầm kín giữa con cháu và các bậc tiền bối đã khuất bóng. Vì thế, ngoài tấm bài vị và các vật dụng thuộc phần lễ nghi, trên bàn thờ còn bầy những bức ảnh truyền thần ông, bà, nội, ngoại. Nhìn ảnh thấy vị nào ngồi cũng ngay ngắn, khăn đóng, áo dài, mắt nhìn thẳng, hai tay xoè rộng, đặt trên đầu gối. Trông thật ngộ! Trong ngày Tết, đèn bàn thờ được thắp cả ngày đêm và hương trầm, hương nhang tỏa nghi ngút thơm nức nhà.
Ngoài chiếc bàn thờ còn chiếc xập gụ chân quỳ, kê ngay trước bàn thờ cũng được trải chiếc chiếu hoa cạp điều còn thơm mùi cói. Chiếc xập dùng làm nơi lễ bái và đặt mâm cơm cúng mỗi ngày, từ chiều ba mươi tới hết ngày mồng bảy, hạ nêu. Khi còn bé, tôi mong đến Tết để được mặc quần áo mới (thường dài và rộng) và tiền mừng tuổi để ăn quà, đánh đáo với mấy thằng bạn đồng trang lứa. Ôi, những đồng xu mới, màu đỏ au sao mà quyến rũ?...
Nhưng rồi dòng đời chuyển dịch theo vòng quay lịch sử. Tôi lớn lên trong bối cảnh chiến tranh và cũng vì chiến tranh gia đình tôi ly tán. Tôi bỏ miền Bắc đi xuống phương Nam, từ đó không bao giờ tôi được sống cái không khí ngày Tết với chiếc bàn thờ của cha mẹ tôi nữa! Tuy vậy, dù hoàn cảnh đời sống có đẩy tôi vào một môi trường khó khăn đến mấy, tôi cũng cố tạo cho bằng được một chiếc bàn thờ, dù bé nhỏ, ở một nơi xứng đáng nhất trong cỗn nhà. Tôi mua sắm những vật dụng cần thiết như chiếc lư trầm, cặp chân nến, chiếc bài vị sơn màu đỏ chói, chiếc bình nhang và bức màn nhiễu điều có riềm kim tuyến, để mỗi dịp Tết có thể nhìn thấy hình ảnh mẹ cha, anh em, họ hàng, tượng trưng cho sự tiếp nối không ngừng của dòng sống gia đình Việt-Nam. Trong mỗi dịp Tết, kẻ mơ ước quần áo mới và tiền mừng tuổi, nay thuộc về thế hệ các con tôi.
Có lẽ, cái nếp sống của cha mẹ đã xâm nhập, ăn sâu vào tiềm thức tôi và tạo thành nỗi dầy vò, ám ảnh mỗi lần thấy Tết. Ngày trước, những chiều cuối năm, khi đi làm về, qua Đại Lộ Lê Lợi, qua chợ Bến Thành thấy nhộn nhịp, người đi, kẻ lại như chảy hội, khi mắt nhìn thấy những chiếc xạp mới dựng xung quanh chợ để buôn bán mấy ngày trước Tết, khi tai nghe rộn rã lời rao hàng từ những chiếc loa phóng thanh ào tới, lòng tôi lại rạo rực, lại bồi hồi như có một sức đẩy kỳ bí làm choáng váng, ngất ngư! Nói cho đúng, Tết chỉ thực sự đến với tôi từ ngày hai mươi ba, sau bữa cơm tiễn Ông Táo. Cũng như cha mẹ tôi, kể từ giờ phút đó, hai vợ chồng mới đi vào chi tiết về nhu cầu ngày Tết. Năm nay, nên mua cành mai hay chậu mai, hoặc cành đào Hong Kong, tuy có đắt, nhưng đẹp. Năm ngoái đã mua cúc và thược được rồi, năm nay nên mua đôi quất, chọn cặp nào thật sai trái cho vui nhà, vui cửa. Sau ngày Tết, trái quất có thể làm mứt được. Nhà mình sẽ gói bao nhiêu chiếc bánh chưng? Mua bao nhiêu ký mứt và kẹo bánh mời khách? Còn đồ ăn, thức uống? Những thứ linh tinh khác? Vì lo xa, nên quần áo của mấy đứa con, vợ tôi đã mua từ tháng trước. Vợ tôi không may sắm gì, nàng cứ nhất định mặc chiếc áo màu hoa cà có thêu mấy bông hồng đen. Da nàng trắng nên mặc cũng “nổi ” lắm! Mỗi lần tôi nhắc đến chuyện may áo mới, nàng cười cười:
- Lương lính mà cứ ham! Cái áo ấy còn mới, mỗi năm xỏ tay một, hai lần, làm sao hư?
Tôi nhăn mặt:
- Thì cũng phải như người ta chứ? Có một cái áo, năm nào cũng đeo làm xấu mặt chồng. Em không nghĩ như vậy sao?
Vợ tôi nhìn về phía tủ áo:
- Không, em chỉ nghĩ làm sao cho anh và các con sung sướng, thế là đủ. Còn anh, tại sao bộ đồ anh may cả dăm năm rồi mà vẫn mặc? Bây giờ họ may kiểu mới rồi, anh không để ý sao?
Tôi nói khật khưỡng:
- Nhà binh mà, nếu bí quá, ngày Tết, anh mặc đồ Đại Lễ, vừa tiện, vừa oai, với mấy hàng huy chương trên ngực, khối người mê!
Vợ tôi nguýt dài: - Ai thèm mê? Nói giỡn hoài! À đêm ba mươi Tết năm nay mình nhớ đi Lăng Ông xin xâm, hái lộc nhé! Năm ngoái không đi lễ nên cả năm làm ăn lụi đụi, chẳng ra sao!...
Rồi thời gian qua đi, từng năm, từng năm, tuổi đời chồng chất và những đắng cay làm hao hụt rạo rực cũng như mơ ước, như chiếc đèn thắp mãi cạn dầu. Nhưng dù sao, chiếc bàn thờ ngày Tết của gia đình tôi không thể thiếu cặp bánh chưng, một cành mai, đôi chậu cúc, một hộp mứt, đĩa trái cây và đèn hương nghi ngút từ chiều ba mươi tới hết mồng ba. Sự thực trong mấy chục năm sống tại miền Nam, cái khí hậu bốn mùa nắng ấm, không tạo cho con người những rung cảm vì thời tiết như miền Bắc. Ngoài miền Bắc có bốn mùa thay đổi và ngày Tết đang mùa lạnh với mưa phùn, gió bấc, công việc gieo mạ Chiêm đã xong, mọi việc đều ngưng đọng, chờ đến ra Giêng, mùa Xuân mới bắt đầu ươm trồng cây trái và cấy vụ lúa tháng năm. Do vậy cái Tết ở miền Bắc thi vị hơn, nhất là ở miền thôn dã với những hội hè, đình đám vui chơi suốt tháng Giêng. Nhưng cái không khí ấy đã qua lâu rồi, đã bị Cộng Sản làm cho ngày Tết mất dần ý nghĩa và bây giờ đến lượt miền Nam đang đi dần vào sự tàn phai của một thời oanh liệt!
Nhưng không, không bao giờ cái Tết riêng biệt của hai miền Nam Bắc có thể phai mờ trong tiềm thức tôi, dù cho cuộc sống có đưa đời tôi đến góc biển, chân trời nào đi nữa! Nó như cơn bệnh định kỳ, mỗi năm một lần tái phát. Nó đeo đuổi dai dẳng và tạo cho tôi những tiếc nuối, tuy buồn bã nhưng vô cùng thích thú! Ngay cả trong thời gian bị giam cầm trong Trại Cải Tạo, mỗi dịp Tết, nhất là đêm ba mươi thường làm tôi mất ngủ! Cộng Sản có thể hành hạ thân xác tôi, nhưng Cộng Sản không có cách nào biết tôi đã và đang nghĩ gì trong lồng sọ. Những đêm Giao Thừa trong tù là những đêm bi thảm nhất của cuộc đời! Tôi đã trải qua năm đêm như vậy. Những chiếc chấn song sắt, những chiếc khoá, những viên đá tảng đã quây kín và giam giữ tôi trong vòng đai tù ngục, nhưng hồn tôi vẫn ào thoát ra không gian bát ngát, bay qua vùng núi rừng trùng điệp của dẫy Hoàng Liên Sơn, qua bao nhiêu dòng sông, ngọn suối, qua bao nhiêu dặm đường dài để trở về miền Nam đón mùa Xuân với nắng vàng chói lọi đang nhảy múa trên cành mai, khóm cúc, trên những lối đi quen thuộc, trên mắt, trên môi của những cô gái Sài-gòn!
Bên ngoài cảnh vật vẫn nằm trên một mặt phẳng sau lớp mưa, mỗi lúc mỗi nặng hạt. Hàng cây ven lộ vẫn vật vã, chao đảo theo chiều gió. Tôi gieo mạnh người vào lòng chiếc ghế xích-đu, đăm đắm nhìn ra.
Chiều ba mươi Tết đó! Không khí quanh tôi vẫn chìm đắm và nhàm chán như một lớp sơn quá cũ! Đời sống của nước Mỹ vẫn chuyển dịch theo một cường độ riêng của nó, cơ hồ như giữa nó và tôi không mảy may liên hệ! Tôi vẫn sống, vẫn ăn, vẫn thở nhưng cái sự sống đó có dư thừa chăng, nếu một buổi nào, cái qui luật của nếp sống này buộc tôi phải từ bỏ những kỷ niệm, những mơ ước bé bỏng là được trở về Việt-Nam để gặp lại mùa Xuân Dân Tộc với chiếc bàn thờ trang nghiêm, khói hương nghi ngút, với mùi băng phiến trong rương quần áo, với cành đào, cành mai, với giò thủy tiên và chậu cúc đại đoá, những tờ giấy hồng điều còn thơm mùi mực sạ, với cái không khí mùa Xuân hằng cửu quê nhà!...