Như Thế
TỪ ngày đến đất Mỹ, tôi đã rời nhà ba lần. Mỗi lần rời chỗ, tôi có cảm tưởng như mất mát, hư hao! Đất Mỹ tuy rộng, nhưng quả thực, tìm được một nơi ưng ý, quá khó. Đời sống ở đây, nó kỳ cục lắm. Mỗi ngày qua đi, chẳng để lại gì trong ký ức, ngoài sự nhọc nhằn về thân xác và những bứt rứt không đâu. Nó làm con người mỏi mòn trong những mưu tính, dù rằng mọi mưu tính đều là ảo tưởng. Người ta không thể trải dài dự phóng, vì bất ngờ luôn luôn chờ đợi bên ngoài cánh cửa. Sự được thâu nhận và thải hồi như một trò chơi ú tim, tạo nên sự bất trắc thường trực. Sống trong cái xứ “lao động là vinh quang” này, tôi đã làm khá nhiều nghề để mong phục vụ đời sống riêng tư, nhưng nghề nào đối với tôi, cũng chỉ là tạm bợ, một phần vì không có chuyên môn, một phần, không thích hợp với ý muốn. Số tiền mà tôi phải làm quần quật suốt tám giờ một ngày, chẳng làm cho đời sống được thoải mái, trái lại, muốn khỏi lâm vào tình trạng thiếu hụt, tôi phải tính toán chi ly từng đồng bạc. Chiếc xe Chevrolet cũ, tôi mua với giá năm trăm đồng, to như con voi, uống xăng như uống nước, hư lên, hư xuống, do đó, tôi đi làm thường bị trễ giờ, đôi khi còn nghỉ luôn. Đó, cũng là một, trong những lý do vì sao tôi không làm lâu ở một chỗ bao giờ!
Khi mới nhập cư nước Mỹ, tôi ở nhờ nhà một người bà con để đi học tiếng Mỹ, theo chương trình “oeo-phe”. Sau một năm, sở xã hội bắt buộc tôi, ngoài giờ học, mỗi chiều phải đi làm những công việc có tính cách cỏ-vê như nhặt rác trên bờ xa lộ, chùi hành lang các công sở, rửa cầu tiêu công cộng.v.v... Thấy nhục quá, tôi bỏ luôn “oeo-phe” đi kiếm việc làm tự túc.
Sự thực, vấn đề rời chỗ ở, không phải vì tôi muốn tìm một nơi trú ẩn theo ý muốn mà hoàn cảnh kinh tế buộc như vậy! Sau khi kiếm được việc làm tại khu xây cất những ngôi nhà mới, tôi thuê lại một căn buồng của hai ông bà già, tuy có đông con cháu nhưng đều ở xa. Ông bà cụ theo các con sang đây trước ngày 30-4-75. Nghe nói, những người con, đều thuộc thành phần có chức phận cũ. Có người là Đại Tá, có người là Chánh Sở Quan Thuế Sài-gòn. Nhưng đời sống trên đất Mỹ không giống như ở Việt-Nam, nên sự góp mặt dưới một mái nhà, hoặc ở gần gận qua lại thăm viếng hàng ngày, hàng tuần quả thực hiếm hoi. Cả hai ông bà cụ đều quá tuổi sáu mươi lăm, được hưởng “tiền già”, do vậy, đời sống cũng phong lưu, vả lại, tuổi già không có nhiều nhu cầu, ham muốn. Đây là căn nhà cũ, xây cất đã trên dưới hai mươi năm, tại một khu tương đối nghèo của thành phố. Phía trước có bãi cỏ rộng thênh thang, màu úa vàng vì thiếu nước. Đằng sau bãi cỏ là con đường lớn dẫn vào xa lộ, do vậy, xe chạy ầm ĩ suốt ngày.
Sự có mặt của tôi trong căn nhà cũng làm cho không khí sinh hoạt sống động phần nào. Bà cụ ít nói, ngoài những khi cần. Bà đúng là mẫu người đàn bà Việt-Nam cổ. Dáng nhỏ thó, lúc nào ăn mặc cũng gọn gàng, tươm tất. Mái tóc bạc phơ, nhưng còn dày nên chiếc búi tó to bằng trái ổi Cần Thơ cứ lúc la, lúc lắc, mỗi lần bà di động. Ngoài giờ cơm nước, bà ngồi thu lu trong lòng chiếc ghế bành, giống như con mèo, tay lần tràng hạt, miệng lầm rầm đọc kinh, mắt lim dim nhìn lên bức ảnh Phật treo trên vách. Còn ông cụ trông phương phi, có bộ râu dài ngang ngực, nói suốt ngày, nhất là sau bữa rượu buổi chiều. Tuy nhiên, vì không có bè bạn ở gần, những khi rảnh rỗi, đối thoại với ông cụ cũng vui vui. Có điều tôi không mấy thích thú là ông hay nhắc đi, nhắc lại đến quá khứ mà riêng tôi nghĩ, nó chỉ thuộc riêng ông! Khi còn ở Việt-Nam, ông sống trong căn nhà hai tầng lầu thật sang trọng ở đường Công Lý, nào con cháu, nào họ hàng với những hào quang “oanh liệt” đã tạo thành những ấn tượng cắm rễ tận đáy sâu tâm thức không dễ gì xóa bỏ và ông còn tin rằng nó đẹp hơn cả giấc mơ đẹp nhất!
- Này cậu, tôi càng nghĩ càng hối hận. Tại sao mình lại bỏ quê cha đất tổ mà đi? Tại sao lại bỏ Sài-gòn? Tại sao lại bỏ nhà, bỏ cửa, nơi ta đã đổ bao nhiêu công lao khó nhọc, bao nhiêu mồ hôi nước mắt để đến nơi đây, lạ thung, lạ thổ, lạ cả miếng ăn, tiếng nói? Không biết cậu ra sao, chứ tôi không thể và không bao giờ làm quen được với cuộc sống này. Đã trót thì đành chịu, ngày nào có thể về được, tôi về ngay, không luyến tiếc mảy may. Cậu nghĩ xem, tôi nói có đúng không? Có con cháu cũng như không. Đứa thì Hút-tôn, Tếch dzịt,” đứa thì tiểu bang nọ, tiểu bang kia, xa mút trời! Cả mấy năm, chúng chẳng về thăm mình một lần. Ngày giỗ, chúng chẳng nhớ, chỉ nhớ sinh nhật là giỏi. Mỗi năm đến ngày “Phadơ, Madơ” chúng gửi về tấm thiếp là xong! Có đứa cũng chẳng buồn gửi i Còn những đứa cháu nội ngoại, bây giờ chúng gọi ông bà bằng “U”! Cái nếp sống Việt-Nam đâu như vậy? Càng nghĩ, càng buồn nên tôi dùng rượu để khuây khoả mà rượu ở cái đất này, không thiếu!
Nói dứt câu, ông cụ đưa ly lên môi tợp một hụm, rồi khà một tiếng, xong nhìn chằm chặp vào mặt tôi như chờ đợi sự lên tiếng đồng tình! Nhưng tôi chỉ ậm ừ, gật gừ cái đầu thay câu nói.
Đúng ra, tôi không muốn để ông cụ phiền lòng, vì những gì mà tôi nói có thể đi ngược với nếp suy nghĩ của ông, hoặc ổng không thể hình dung được một cách chính xác về tất cả những sự kiện đã xẩy ra trên quê hương miền Nam Việt-Nam sau ngày 30-4-75. Nếu ông cụ biết rằng, với thành phần như gia đình ông, chắc chắn mấy người con sẽ phải đi học tập cải tạo và căn nhà hai tầng lầu sang trọng ở đường Công Lý sẽ bị tịch thâu, còn ông bà cụ sẽ phải đi vùng kinh tế mới. Nếu ông cụ ngoan cố, chống lại lệnh của Đảng và Nhà nước thì cũng đi cải tạo luôn! Một khi đã đi vùng kinh tế mới coi như cuộc đời bị chìm sâu vào sự cơ cực triền miên, nếu không kham nổi, bỏ trốn về Sài-gòn, chỉ còn cách nằm vỉa hè, sống nhờ dưới mái hiên người khác, không hộ khẩu như trường hợp của bao nhiêu gia đình có danh phận thuộc chế độ cũ, chính mắt tôi đã nhìn thấy hôm nào, ngay giữa thành phố Sài-gòn. Tôi làm sao nói cho ông cụ nghe sự thực về nỗi thống khổ của bao nhiêu kiếp người đã và đang gánh chịu trong các Trại Tập Trung Cải Tạo mà chính bản thân đã trải qua. Ông cụ đã di tản qua đây trước ngày 30-4, cuộc sống dù thuận hay không, nhưng chắc chắn chưa bị đói bữa nào, làm sao ông cụ có thể biết thế nào là cái đói xé ruột từ ngày này qua ngày khác của những người tù thua trận? Tối nào ông cụ cũng nằm ngủ trên chiếc giường hai nệm một cách bình yên, làm sao ông cụ có thể cảm thông được sự chua xót, nhục nhằn của những chiếc lưng gầy quanh năm nằm đất, sau những giờ lao động khổ sai, trước con mắt thù hận, khinh khi của những tên cai ngục! Tôi không muốn, quả tình tôi không muốn, thản hoặc tôi có nói ra, chưa chắc ông cụ đã tin. Vì nghĩ vậy, tôi nói lửng lơ:
- Dạ, thưa Bác, quá khứ thường ra, bao giờ cũng đẹp, cháu cũng có những kỷ niệm từ thời thơ ấu tới lúc trưởng thành ở thành phố Sài-gòn, nơi cháu đã sinh ra, lớn lên, học hành, bè bạn rồi đi lính uýnh lộn với cộng sản.
Ông cụ lại đưa ly lên môi tợp một hụm. Sau tiếng khà, ông nhếch mép cười. Chòm râu bạc rung rung làm khuôn mặt ổng trẻ lại đôi chút:
- Thế cậu đồng ý với tôi, mình phải trở về nếu có cơ hội chứ?
- Dạ, cái đó cũng còn tùy vào chế độ chính trị!
- Tại sao lại tùy? Thế cậu còn định mưu tính chuyện gì ở cái đất Mỹ này? Tôi nói thực cho cậu biết, dù ngày nào cậu có nhập quốc tịch Mỹ đi nữa, cậu vẫn chỉ là tên mất nước, một tên mũi tẹt, da vàng, chạy theo đồng đô-la hộc máu mồm để phục vụ nhu cầu, như mấy thằng con tôi đó! Vì ham bắt đô-la, chúng bỏ mặc bố mẹ nằm chèo khoeo ở đây, nếu không nhờ tuổi già được luật pháp xã hội nước Mỹ cho tiền sống, chờ tụi nó nuôi, còn lâu ạ!
Ông cụ trề môi, tỏ ý chán nản, rồi tiếp:
- Mấy thằng con tôi, sau năm năm, đều trở thành ‘‘sí-tai-dơn-síp” cả rồi đấy. Như vậy, mặc nhiên chúng tôi là bố mẹ, ông bà của tụi Mỹ gốc Việt-Nam, chứ phải chơi đâu! Nhưng, này cậu, tôi vẫn cảm thấy nó làm sao ấy, không ổn. Nhiều đêm không ngủ được, tôi suy nghĩ hoài về chuyện đó. Con mình đẻ dứt ruột, từ thuở lọt lòng, nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa, nuôi nát xương lòi da, nay chúng trở thành kẻ khác, từ nếp sống tới suy nghĩ càng ngày càng xa mình! Càng nghĩ càng đau, cậu ơi!
- Dạ, thưa Bác, chuyện ấy quá thường mà. Ở đây, cháu nghe nói, muốn dễ kiếm job phải có quốc tịch Mỹ. Bác thấy không, như trường hợp của cháu đây, khổ lắm! “ớp-lai" chục nơi, chờ đợi, phỏng vấn, khai báo tùm lum may ra mới kiếm được một chỗ vớ vẩn, hơn bốn đồng một giờ. Tuy vậy cũng chỉ làm được ít lâu, hết việc lại “lai óp", lại ‘‘phai ơ”, tương lai mờ mịt, chả nhìn thấy phương hướng gì cả, chán lắm Bác ơi! Ngày nào, đủ thời gian, cháu cũng xin nhập tịch!
Ông cụ nhíu đôi mày rậm, có nhiều sợi dài phủ xuống mí mắt như những sợi tóc:
- Lại cậu nữa! Các cậu còn trẻ là ham lắm. Nào nhà, nào xe, nào du hí! Nhưng, như cậu là ngoan đấy. Từ ngày cậu đến ở với chúng tôi, ít khi cậu đi chơi qua đêm. Như vậy tốt. Vấn đề con gái ở cái đất Mỹ này là bậy lắm! Tôi nghe nói, có nhiều thứ bệnh mới quái quỷ mà y học chưa tìm ra thuốc chửa! Có đúng thế không cậu?
- Dạ, cháu đâu biết! Cháu làm gì có tiền để du hí. Như cháu đã nói với Bác tất cả sự thật về số tiền cháu kiếm được hàng tháng. Có mấy trăm đồng bạc mà phải chi nào tiền nhà, tiền ăn, tiền xăng nhớt, tiền bảo hiểm, tiền thuế, tiền sửa xe v..v... Tính ra mỗi tháng, cháu còn dư được chừng năm chục đô-la. Số tiền đó, cháu để vào quỹ “xê vinh” phòng khi bị thất nghiệp còn có mà chi dụng, chứ ở cái đất này, vay ai? Còn xin “oeo-phe” nhục lắm Bác ơi, nó bắt mình ngày nào cũng phải đi “ớp-lai" kiếm việc, nếu không tìm ra việc, nó gọi đi nhặt rác, đi cuốc cỏ dại ở hai lề phố v..v... chịu gì nổi? Cháu cũng còn một tý tự ái, hơn nữa, cháu qua đây để tị nạn chính trị chứ đâu để thụ hưởng, nhưng tụi xã hội nó cứ tưởng mình chỉ muốn ăn, không muốn làm! Từ ngày qua, cháu mới gửi về cho vợ con được một thùng quà trị giá hai trăm đô-la. Con vợ cháu nó tưởng sang đến đây, cháu phải làm vương, làm tướng gì, hái ra tiền, lại mèo mỡ gì đó, không gửi tiền về nuôi vợ con, nó viết thư kêu la tùm lum, trách móc hết lời. Cháu nói gì nó cũng không tin, Bác thấy có khổ không?
- Đó, chính vì những lý do ấy, chẳng riêng gì hoàn cảnh của cậu, còn nhiều người khác, nên tôi vẫn cho rằng, khi nào thuận lợi mình phải trở về vì không đâu bằng quê hương ta cả. Cuộc sống ở quê nhà nó có tình, có nghĩa lắm, còn ở đây, chỉ có tiền thôi! Chán lắm! Phía trước, phía sau, quanh quẩn chỗ nào cũng chỉ thấy Mỹ trắng, Mỹ đen, “hai” với “he lô” suốt ngày, chịu không thấu. Tôi nghe nói, khi trước, cậu cũng có chức phận cơ mà!
- Thưa Bác, đi lính với cấp úy quèn, sống ở mặt trận hoài, làm gì có chức phận! Cháu cũng đi tù, qua năm trại cải tạo, nhưng được cái, chỉ ở trong Nam thôi, không bị đưa ra Bắc. Tù được ba năm, thấy lâu và khổ quá, cháu trốn trại rồi tìm đường vượt biên. Vượt mãi mới thoát đó, Bác ơi! Có một lần bị vướng, cháu nằm ấp tại đồn Công An Gành Hào, Bạc Liêu mất nửa tháng, rồi lại trốn!
- Ôi chao, vậy há? Ngó cậu ngơ ngơ vậy mà can đảm ghê! Vào trường hợp cậu, tôi đâu dám! Nhưng này, ở tù mọi người đều khổ như nhau, người ta chịu được, mình chịu được, có gì đâu mà cậu phải liều vậy? Nhỡ bị tụi nó tóm lại, tù mút mùa đó!
Tôi biết, không thể nào nói để ông cụ hiểu rõ cái tâm trạng của tuổi trẻ chúng tôi, khi bị giam cầm và đối xử tàn tệ trong kích thước nhà tù cải tạo mà lỗi không do chúng tôi. Sự thua trận ngày 30-4 hoàn toàn ngoài dự tưởng và kết quả của nó đã đưa đến sự sụp đổ toàn diện! Ngay cả sự sống của tôi hôm nay cũng ngoài dự tưởng! Nếu ông cụ có tha thiết với quê hương, với Việt-Nam cũng chỉ vì một vài kỷ niêm huy hoàng nào đó! Còn tôi, những kỷ niệm nếu có, cũng chỉ như những vết chém đau thương đã thành sẹo ở trong tâm cảm vì ở lứa tuổi chúng tôi, sinh ra rồi lớn lên cùng chiến tranh, một thứ chiến tranh hỏa mù, không lối thoát. Mọi người cố vùng vẫy như bầy thú mắc bẫy, để cuối cùng, một số đào thoát, một số đông bị đầy ải, giam cầm trong không khí oán thù chất ngất, chẳng biết đến bao giờ?„.
Bóng tối đã vây lút toàn diện. Ông cụ đứng dậy bật đèn. Căn phòng trơ trụi vì không có gì, ngoài mấy chiếc bàn ghế. Bà cụ đã vào buồng nằm như mọi tối. Căn nhà này, ông cụ nói, thuê từ ngày mới di tản có hai trăm đồng, đến nay đã phải trả gấp đôi, tuy vậy, hãy còn rẻ nếu so với căn nhà khác cùng tình trạng. Tôi ở đó trên bốn tháng, chưa hề thấy ông bà cụ nhận được lá thư hoặc có ai đến thăm hỏi, điện thoại cũng không. Vì tế nhị, tôi chẳng bao giờ đặt câu hỏi. Tôi đến ở, do sự giới thiệu của một người quen. Sự nhượng lại một căn buồng, tương đối rẻ hơn thuê ở chung cư. Trong tháng đầu, tôi chỉ ở, không ăn. Mỗi ngày, tôi ăn qua loa cho xong bữa, hết Hamburger lại Hot Dog, chán thứ đó, có mì ăn liền. Sau một tháng, chịu không nổi, thèm cơm quá, tôi nói với ông bà cụ cho ăn cơm tháng luôn. Bà cụ vui vẻ nhận lời. Riêng ông cụ thích lắm, vì mỗi bữa, ổng lại có dịp nhắc nhở đến các món ăn quê hương và các loại rau thơm:
- A ha, cậu qua muộn, may mắn lắm! Khi chúng tôi mới tới, một giọt nước mắm cũng không có, thèm muốn chết, còn nói gì đến những thứ khác. Nhưng, này cậu, cậu có nhận thấy bất cứ món gì làm ở trên cái đất Mỹ này cũng không ngon bằng ở quê nhà không? Nhất là các loại rau! Cũng là húng, là ngò, là răm, là xả mà sao không thơm, không có hương vị như rau trồng tại Việt-Nam! Ăn phở mà không có ngò gai, húng quế, coi như không ăn phở. Ăn chả giò, thiếu những loại rau thơm, coi như bỏ! Đúng thế không cậu?
-Dạ cháu thấy cũng vầy vậy thôi. Miễn có là được! Khi đi cải tạo, đói quá cháu ăn cóc nhái, rắn rết nướng trần với mấy hạt muối, vẫn thấy ngon đó Bác!
- Nói như cậu, chán gớm!
Nhưng đến tháng thứ sáu, tôi phải rời đi chỗ khác vì bị thất nghiệp, không còn đủ tiền để trả tiền ăn và ở, dù ông bà cụ có lòng tốt, cho thiếu tới khi nào kiếm được việc làm sẽ trả. Nhưng tôi tự nghĩ, sự thân tình giữa tôi và gia đình ông bà cụ không cho phép như vậy, sẽ gây sự hiểu lầm đáng tiếc nếu tôi bị thất nghiệp dài dài!
Nơi ở thứ hai tôi có mặt, cũng không lâu. Đó là gia đình của một người bạn cùng đơn vị khi trước. Vợ chồng anh bạn sẵn lòng cưu mang, nhưng phải cái tội, họ hay cãi vã quá, hầu như tối nào họ cũng làm khổ nhau vì những chuyện không đâu. Người vợ vì quá thương yêu chồng nên ghen bóng, ghen gió, còn anh chồng tính tình nóng nẩy, nghe vợ nói dai không chịu được, đổ quạu, thế là lời qua tiếng lại ồn ào! Cả hai người đều đi làm, mỗi người một sở. Đứa con nhỏ phải mang gửi “bê-bi-sít” từ sáng tới tối. Đứa bé về đến nhà, đặt đâu ngồi đấy, cho ăn thì ăn, cho uống thì uống như đứa trẻ mất hồn! Hình như nó đã quen sống với giờ khắc nhất định nên chẳng đòi hỏi hoặc nhõng nhẽo như những đứa trẻ ở Việt-Nam. Vì đẻ ở Mỹ nên mặc nhiên nó là công dân Mỹ với cái tên Judy Nguyễn. Bố mẹ nói tiếng Việt, nó không hiểu, phải nói tiếng Mỹ nó mới nghe ra. Buổi tối đến giờ đặt nó vào giường riêng. Cả đêm, tôi không nghe tiếng khóc. Sáng dậy, mẹ nó lại mang gửi với cái túi đựng tả và mấy bình sữa! Cứ như thế nó lớn dần. Nhìn đứa bé, tôi nhớ đến con tôi, khi nó bằng chừng ấy, mẹ nó vẫn ôm nó ngủ hằng đêm, nào săn sóc, vỗ về, chiều chuộng đủ thứ. Nó vừa òa khóc đã vội vạch ngực ấn chiếc vú vào mồm con! Khi nó ấm đầu, mẹ nó đã cuống cuồng đem đi Bác Sĩ, còn kiêng khem gió máy, kiêng cữ đồ nọ, thức kia. Hình như tất cả nguồn sống vui buồn của người mẹ đều do đứa con chi phối. Chỉ riêng chuyện đó thôi, tôi nhận thấy, hai nếp sống tình cảm Mỹ, Việt không bao giờ có thể hòa đồng được. Cũng như tôi không ngạc nhiên khi thấy những người Mỹ già, đa số đến Viện Dưỡng Lão hoặc ở “Mô-biêu-hôm,” sống một đời sống cô đơn, tẻ ngắt vì con cái chúng bỏ, cũng như khi trước họ đã bỏ bố mẹ họ vậy! Còn ở Việt-Nam vô phúc lắm, con cái mới bỏ bố mẹ, nhưng nay, có thể khác!
Sau hơn hai tháng ăn nhờ ở đậu, tôi đã kiếm được việc. Tôi vào nghề làm vườn và cắt cỏ. Công việc này đòi hỏi phải có sự khéo léo ngoài sức khoẻ. Mỗi giờ công là bốn đồng hai mươi lăm xu. Tôi mướn được một chỗ ở tuy chẳng tốt lành gì, nhưng vừa đủ cho hoàn cảnh của riêng tôi. Đó là chiếc ga-ra biến chế, được ngăn thành buồng. Có chiếc bếp điện nhỏ và một nhà cầu bé tí síu, không có buồng tắm. Khi muốn tắm phải lên nhà trên. Ngay sát ga-ra là căn buồng do một anh chàng da đen thuê. Chả biết anh ta làm nghề ngỗng gì mà đi từ mờ sáng tới tối mịt mới về. Vừa về đến nhà, anh ta mở nhạc ầm ĩ tới khuya. Thỉnh thoảng anh ta lại dắt về một cô bạn cùng màu da, tóc soắn như lò-so, thân hình mập mạp như chiếc lu. Những tối đó, tôi mất ngủ vì những tiếng động vọng qua, khi mau, khi chậm. Chủ nhà, một người Mỹ gốc Tàu, đã la lối và cảnh cáo anh ta về chuyện đó và dọa sẽ không cho anh thuê nhà nữa, anh chỉ nhe hàm răng trắng ởn ra với câu: Sorry!
Chính vì sự mất yên tĩnh, tôi có ý định chờ cơ hội kiếm được cái job nào khá hơn lại rời chỗ. Cũng may, gia tài của tôi chả có gì ngoài tấm sleeping bag và chiếc va-li nhỏ, do đó, khi cần di chuyển, tôi vứt tất cả lên xe gọn gàng.
Buổi chiều nay, sau khi tắm rửa xong, ăn bát mì khô, tôi lững thững thả bộ ra Công Viên tìm chỗ ngồi cho thoáng. Tôi ngồi xuống bãi cỏ, nhìn những ngọn đồi giăng dài phía trước. Những ngôi nhà làm trên đỉnh đồi phản chiếu ánh mặt trời trên những khuôn cửa kính, trông lấp lánh như những tấm gương. Màu trời xa thẳm, hun hút. Chiếc trực thăng Cảnh Sát lượn vòng vòng phá tan sự yên tĩnh của không gian. Tôi ngó quanh quất, bãi cỏ rộng mênh mông như tấm thảm xanh với những tàn cây to che rợp từng khoang. Đó đây trai gái nằm ngồi ngổn ngang. Họ ôm nhau hôn hít thật mặn nồng. Những cặp đùi trắng nõn ruỗi dài như những thân chuối đã bóc hết lớp bẹ ngoài. Cái nước Mỹ này lạ thật, họ mặc quần đùi chẽn ngắn, thật ngắn với sú-cheeng đi nghênh ngang ngoài đường, nhiều cô vú vê thỗn thện. Thoạt đầu còn lạ mắt, nay đã quá quen, tôi chẳng muốn nhìn vì quá nhiều, hơn nữa, cũng vậy cả!
Những tia nắng cuối của một chiều mùa hạ còn đọng trên ngọn cây phía xa, ngang lưng đồi làm cảnh trí sinh động. Tôi vẩn vơ ao ước, một ngày nào đó, tôi có một căn nhà nhỏ ở trên sườn đồi trước mặt để mỗi chiều đi làm mệt nhọc về, có chỗ nghỉ ngơi. Ngày nào vợ con tôi qua được, chúng tôi sẽ sống một cuộc đời hạnh phúc ngay trong căn nhà đó. Tôi sẽ trồng thật nhiều hoa hồng. Mỗi sáng thức dậy hương thơm sẽ theo gió bay vào nhà làm ngây ngất. Tôi sẽ vừa đi làm, vừa đi học để có một nghề chuyên môn vì tôi biết, nếu không có nghề, rất khó kiếm việc. Khi có nghề rồi lại phải mua kinh nghiệm nữa. Tờ “ớp-lai” nào cũng đòi hỏi chứng minh quá khứ nghề nghiệp! Khi có tiền, tôi sẽ mua chiếc xe mới để chở vợ con đi chơi cuối tuần. Chúng tôi sẽ thăm những thắng cảnh nổi tiếng của nước Mỹ. Chúng tôi sẽ có một đời sống vững chắc chứ không bấp bênh như bây giờ! Tôi đang sống với mớ dự phóng, một ông Mỹ chạy jogging qua mặt. Chiếc bụng đầy mỡ rún rẩy theo mỗi nhịp chân; hơi thở hổn hển như không còn sức. Tôi nghĩ, ông ta cứ đến Việt-Nam xin làm công dân Xã Hội Chủ Nghĩa một thời gian là bụng xẹp lép ngay, chẳng cần jogging, chẳng cần “đai-ớt”!
Tôi quay mặt ra phía lộ. Những chiếc xe đủ kiểu chạy loang loáng, hình như không lúc nào ngừng. Cái đời sống ở đây, ai vội cứ vội, ai nhởn nha cứ nhởn nha. Bỗng có tiếng thắng xe ken két. Chiếc Mustang kiểu thể thao, bỏ mui, đậu sát lề. Một người đàn bà tóc đen lánh, xõa quá vai, mở cửa bước xuống. Đúng, một người Á Châu, nhưng tôi không đoán được thuộc quốc tịch nào. Mùi nước hoa theo gió bay ngào ngạt. Ở đây, người ta dùng nước hoa quá nhiều. Nếu một ngày nào, không có nước hoa và thuốc hôi nách, chẳng hiểu những người đàn bà Mỹ sẽ có hương vị ra sao? Người đàn bà nhẹ nhàng đi vào bãi cỏ. Cặp giò dài được nâng bởi đôi giầy màu đỏ chói, gót cao lênh khênh. Sự thực, người đàn bà này, ngoài bộ tóc, cũng chẳng có gì khác biệt với những người đàn bà tôi thường gặp hàng ngày và ngay trong Công Viên này, chẳng thiếu gì! Có lẽ, cũng chỉ vì mái tóc và chiếc xe quá đẹp đã làm tôi chú ý.
Người đàn bà ngồi cách chỗ tôi chừng dăm bước chân, lặng lẽ trải chiếc khăn lông màu vàng nhạt trên nền cỏ, rồi từ từ xếp vòng đôi chân ngồi xuống, mở ví lấy thuốc hút. Một làn gió thổi làm làn tóc phủ kín mặt. Hai bàn tay trắng muốt đưa lên vuốt tóc ra phía sau. Đột nhiên, người đàn bà quay mặt về phía tôi, ngó sững. Cái nhìn làm tôi khó chịu, toan đứng dậy, chợt có tiếng nói:
- Xin lỗi, ông, người Việt hé?
- Vâng!
- Nhìn người Việt, tui nhận ra ngay. Ông qua lâu chưa? Trước ngày 30-4 hay vượt biên?
- Dạ, tôi vượt biên, mới được ít năm!
- Ủa, tui trông ông quen quen. Xin lỗi, hồi ở Việt-Nam, ông có ở miệt Tân-Định không hé?
- Có, nhà tôi ở xóm Chùa!
- Ôi, chu choa, xóm Chùa hé? Chèng đéc ơi, nhà tui cũng ở khu đó mà! Tui ngó ông ngờ ngợ! Ông có phải là cậu Dinh đó hôn? Khi trước đi học, cậu lái chiếc Honda nổ máy rần rần lối ngõ, rồi sau cậu đi lính mà!
- Đúng, tôi là Vinh!
Trả lời xong, tôi ngó chằm chằm vào người đàn bà lúc này đã đứng trước mặt, cố nhớ xem ai? Nhưng chỉ phảng phất, hình như tôi đã gặp ở đâu đó!
- Cậu còn nhớ tui hôn? Nhà tui ở gần nhà bà Tư bán bún bò đó, sát chiếc mả đá mà!
A, bà Tư bán bún bò, tôi nhớ bà lắm. Bả người mập lùn; bún bò của bả vừa ngon, vừa rẻ, tôi thường ăn mỗi sáng, trước giờ đi học. Chả lẽ đây là con Năm, đứa con gái nghèo khổ, phụ giúp công việc cho bà Tư, bưng quà cho khách? Tôi có biết, một dạo nó làm gái bán Bar rồi lấy Mỹ! Hơn nữa, tôi còn nhớ, một buổi vì xích mích với một cô gái cùng xóm, cô kia đã chửi nó như vầy: “Bây giờ mầy lấy Mỹ, có nhiều tiền, về xóm làm le với bà con! Mầy quên rồi sao, lúc trước mầy chỉ có một chiếc quần, tối nào giặt, mầy ngủ cởi truồng, ai không biết! Cái thứ điếm Mỹ mà làm tàng!
- A, cô Năm, đúng không? Tôi nói vội vàng.
- Đúng, đúng đó! Cậu có biết vì sao tui nhận ra cậu mau vậy hôn? Tại cái mụt ruồi bên má cậu đó! Nhưng sao mau già vây?
- Đời sống cực quá mà, làm sao trẻ được?
- Lúc này cậu mần công việc gì, ở đâu? Vợ con ra sao? Nói tiếng Mỹ giỏi chưa?
Con Năm bưng bún bò cho khách năm nào, một đứa con gái nghèo khổ chỉ có một chiếc quần lành mặc ra đường, bây giờ nó hỏi tôi như vậy đó. Tự nhiên mặt tôi nóng ran như vừa ở trong lò lửa bước ra. Tôi cố dằn cơn giận:
- Công việc làm ăn vậy vậy, vợ con còn ở Việt-Nam, tiếng Mỹ nói ấm ớ, đủ chữ đi làm cu-li. Còn cô, đời sống chắc tươi lắm, xe đẹp quá hé?
Con Năm cười, chiếc môi tô son đỏ thắm hé ra, để lộ hàm răng đều, trắng muốt:
- Tui theo chồng qua đây lâu rồi, trước ngày ba mươi lận. Đời sống như vậy đó! Thằng chồng tui bận việc đi xa luôn, ở nhà một mình buồn quá, lái xe đi chơi cho dzui mà! Nói xong, con Năm mở ví đưa cho tôi tấm danh thiếp. Tôi mân mê tấm giấy nhỏ trong tay, nhìn xoáy vào một khoảng ngực để trần, màu da hồng như phấn bướm. Trong người tôi, hình như các sợi dây thần kinh đều nở ra và sự ham muốn nào đó làm tâm trí rối loạn. Tiếng con Năm đưa tôi ra khỏi cơn mê:
- Nếu có rảnh, mời lại chơi. Khi tới, nhớ phôn trước! Thôi, bai, bai!
Tiếng đóng cửa đánh rầm. Chiếc xe nổ máy, chồm lên lao vút như con ngựa rừng quen lối. Chỉ một thoáng, nó đã chìm khuất vào mặt lộ thênh thang, mù thẳm!
Escondido 7- 85