Kẻ Đi Tìm Mùa Xuân
CHIẾC phi cơ của hãng hàng không Delta hạ cánh êm ái trên phi đạo, từ từ tiến vào phi cảng, nơi có chiếc hành lang xếp, nhô ra sân, để từ đó, hành khách đi lần lượt vào lòng một kiến trúc, tuy không lộng lẫy to lớn như các phi cảng J.F. Kennedy ở New York, O’- Hare ở Chicago hoặc Los Angeles, nhưng nó cũng mang những nét độc đáo của một phi cảng quốc tế: Honolulu.
Sau khi lấy hành lý xong, tôi lừng lững đi ra phía cổng, nơi có đặt máy điện thoại công cộng, kêu Taxi về khách sạn. Gió từ ngoài khơi thổi vào làm khứu giác tôi lại bắt gặp mùi mặn nồng quen thuộc! Cái nóng âm âm dù đứng dưới bóng mát, làm tôi nhớ đến khí hậu miền Nam nước Việt. Trong lòng bỗng nôn nao như muốn tìm kiếm ngay ở quanh quất đâu đây chút hơi thở quen thuộc mà tôi đã đánh mất từ lâu, có lẽ từ ngày vượt biên, trốn tránh như một tên đào thoát! Trong thời gian sống xa quê hương, tôi thường có những phút cuồng điên như vậy. Cũng chính vì những ám ảnh đó, hôm nay tôi có một trên hòn đảo Oahu này với mục đích để mong gặp lại một phần nào sự quen thuộc, mến thương tưởng đã phai nhòa cùng năm tháng lưu đầy! Nhưng không đúng, từng kỷ niệm, chúng vẫn sống động ẩn khuất, rồi chợt bùng lên như cơn giông gió bất ngờ thổi ào ạt vào trí nhớ! Tôi biết, mùa Xuân của nước Mỹ theo tờ lịch, đã qua từ trên một tháng. Những cây thông đã tàn úa được ném vào thùng rác từ lâu, sau mùa Giáng Sinh rực rỡ, nhưng cái mùa Xuân đích thực do Đất Trời cấu tạo và vận hành, nó chưa bắt đầu, hình như nó đi song hành với nhịp Xuân của quê hương tôi, bên kia bờ Thái Bình Dương thì phải. Sự thực, căn nhà tôi trú ngụ ở gần biển, nên ngày nào tôi cũng nhìn thấy màu nước xanh biếc chạy dài trước tầm nhìn. Tuy sống gần, nhưng ít khi ra biển, trừ hôm nào nhớ quê hương, tôi một mình ngồi trên kè đá đăm đắm nhìn về phía Đông, mà tôi đoán chừng, ở nơi xa tít mù tắp kia: quê hương tôi đó, nơi có rất nhiều bãi biển tuyệt đẹp như Vũng Tàu, Long Hải, Nha Trang, Đồng Đế.v..v... hoặc ở miền Bắc với các bãi Đồ Sơn, Sầm Sơn chẳng hạn! Tất cả những nơi đó, đã in dấu chân tôi. Tôi đã biết chúng từ thuở còn thanh niên, đã thuộc lòng từng vùng biển với độ nông, sâu của mỗi bãi. Tôi biết ở bãi sau Vũng Tàu có một vùng cát lún rất nguy hiểm cho những ai chưa bơi giỏi, nhưng có nhiều người vẫn thích tắm ở đó vì phong cảnh đẹp với những lượng sóng cao ngất đập vào ghềnh đá tung bọt trắng xóa, liên tiếp, liên tiếp!...
Chiếc Taxi đưa tôi về khách sạn. Tôi ra khỏi lòng xe, nhìn lên một tòa nhà building cao ngất trông ra bãi biển Waikiki, do tôi đã lựa chọn từ lúc mua vé đi Honolulu, thủ phủ của Hawaii, qua hãng du lịch. Điều làm tôi chú ý trước tiên, trên đảo có quá nhiều xe hơi đủ loại, nhưng bị hạn chế tốc độ nên chạy rất chậm; đường phố lại nhỏ, chứ không lớn như ở đất liền. Vì cũng là một Tiểu Bang của nước Mỹ, nên tất cả mọi tiện nghi cũng như con người sống nơi đây đều mang sắc thái của một nước Mỹ vĩ đại trên phương diện đất đai và kiến trúc. Đi đâu, đến đâu cũng chỉ nhìn thấy những tòa nhà cao ngất làm cho du khách khó có nhận thức mình đang sống trên một hòn đảo nhỏ nằm giữa Thái Bình Dương mênh mông, nếu không bắt gặp đó đây những thân dừa lả ngọn, những tàng cây lớn, có bóng mát che rợp cả khu phố, nếu không có màu cát vàng óng ánh phía xa xa với những lượng sóng xô đuổi nhau trên bờ cát, chắc chắn mọi du khách đều có cảm nghĩ mình đang ở một thành phố nào đó trên lục địa Mỹ.
Tôi đứng trong lòng thang máy đưa lên tầng cao nhất của khách sạn. Tuy toàn bộ phòng ngủ đã được hệ thống điều hòa không khí tỏa hơi mát vừa đủ, nhưng riêng tôi, vẫn cảm thấy nóng vì mình vừa từ một vùng lạnh tới, với mục đích đi tìm mùa Xuân trên hòn đảo thuộc miền nhiệt đới có khí hậu tương tự như khí hậu của miền Nam nước Việt. Đáng lẽ, tôi, người miền Bắc, phải đi tìm mùa Xuân ở những nơi nào có mưa phùn, gió Bấc, có sắc hoa đào phơn phớt trên má trên môi các cô gái dậy thì mới phải, nhưng tại sao tôi lại đi tìm mùa Xuân dưới cái nóng, dưới ánh mặt trời đỏ lửa từ sớm tới chiều? Điều này cũng dễ hiểu vì tôi yêu miền Nam Việt-Nam và cái khí hậu hai mùa mưa nắng nó làm con người quen dần, sau trên ba mươi năm sống, đã trở thành tình nghĩa keo sơn như máu với thịt xương khắng khít!
Mùa Xuân ở miền Nam nước Việt tuy không thơ mộng, thắm thiết như mùa Xuân đất Bắc, nhưng nó cởi mở hơn, nhất là con người không bị lệ thuộc quá nhiều vào thủ tục cổ truyền. Có điều lạ, khi đang sống ở miền Nam, mỗi độ Xuân về, tôi thường hướng tâm hồn mình ra đất Bắc với những kỷ niệm ấu thơ, hoặc ở tuổi hoa niên với bao nhiêu mộng đời tươi thắm, nhưng trong những ngày tháng lưu vong, tâm hồn tôi lại hướng về miền Nam với cảnh Tết chợ Bến Thành, chợ hoa đường Nguyễn Huệ với những cành mai nở hoa vàng choé, những chậu cúc, chậu thược dược cùng nhiều loại cây kiểng khác được bày kín một lòng phố rộng, dài từ bồn phun nước ở ngã tư Lê Lợi, Nguyễn Huệ tới cửa Nha Ngân Khố.
Đã lâu rồi, kể từ ngày đánh mất quê hương, không bao giờ tôi tìm lại được cái không khí Tết như vậy và mùa Xuân nào đó, đến rồi đi một cách hững hờ trên đất Mỹ, chẳng làm lòng tôi rung động mảy may.
Chính vì lẽ đó, nên mùa Xuân này, tôi nhất định đến một vùng có khí hậu tương tự như miền Nam, để may ra, nhờ đó, tâm hồn tôi chùng xuống, vơi đi được phần nào ray rứt! Trong khoảng thời gian hơn bảy năm lưu lạc nơi đất khách, tôi đã có mặt ở khắp các bãi biển miền Nam Cali, nhưng không nơi nào gợi trong tôi chút kỷ niệm hoặc phảng phất “hương gây mùi nhớ”! Cái màu cát đen sỉn mà bao nhiêu tấm thân ngà ngọc nằm dài phơi nắng sau mỗi mùa lạnh qua đi, cũng không đủ sức hấp dẫn, bắt tôi phải thừa nhận nó đẹp, nó nên thơ! Không, dù cho các nàng kiều nữ Mỹ có thân hình nở nang, cân đối, có màu da trắng như ngà ngọc, có những đường cong mời gọi, nhưng cái màu cát ấy và độ lạnh của nước biển không làm sao tôi mê được!
Tôi đứng trên bao-lơn, tầng cao khách sạn, nhìn xuống thành phố, xe cộ chạy như đan lưới. Phía trước mặt, một bãi cát vàng trải rộng với những chiếc bikini lượn lờ, qua lại. Nước đại dương xanh thẳm mênh mông! Vài cánh buồm phơ phất đong đưa theo triền sóng từ xa đang hướng vô bờ!...
Tôi đến đảo đúng vào một chiều thứ Bảy, nên con đường chạy song song với bãi biển Waikiki, đông nghẹt người qua lại. Phần đông là du khách, họ mặc đủ kiểu, đủ lối theo thời trang. Tôi thả bộ dọc theo con lộ dài dằng đặc, chỉ thấy toàn cửa hàng buôn bán, xen kẽ những tiệm ăn sang trọng với những khách sạn cao ngất. Có thể nói, một phần lớn dân trên đảo sống nhờ vào du khách, ai cũng muốn có một chút kỷ niệm của Hawaii mà!
Tôi cứ đi như kẻ mộng du giữa dòng người đông đảo lên, xuống. Đèn đuốc sáng chói từ lòng cửa tiệm hắt ra. Buổi tối, trời không nóng nhờ có gió biển, cũng giống như Sài-gòn vậy. Tôi đi loanh quanh, vòng qua, đảo lại mãi cũng chán vì mắt tôi không nhận thấy sự khác biệt nào giữa thành phố này với các thành phố của nước Mỹ mà tôi đã biết, ngoài cái khí hậu như miền nhiệt đới. Tôi quay về khách sạn vì cảm thấy mỏi mệt, cần một giấc ngủ!
Khi tôi thức giấc, mặt trời đã chói chang xuyên qua khe màn không khép kín. Tôi vùng dậy, kéo cánh màn cho nắng tràn ngập căn phòng. Tiếng máy lạnh chạy xè xè buồn nản. Tôi vô phòng tắm vặn vòi nước. Dòng nước mát rượi chảy tràn trề làm tỉnh hẳn cơn ngái ngủ, toàn thân thấy khoan khoái, dễ chịu.
Tôi xuống nhà, nơi làm việc của quản lý, nhờ thuê giùm một chiếc xe có tài xế, đưa tôi đi thăm đảo cho biết sự tình. Việc này quá dễ, miễn có tiền! Chờ chừng nửa tiếng, một chiếc xe mới tinh đến đón tôi. Gã tài xế, người Mỹ gốc đảo, không biết thổ ngữ.
Tôi nói trước, cuộc đi chơi này do gã hướng dẫn, gã có toàn quyền muốn đưa đi đâu cũng được. Nghe tôi nói vậy, gã chịu quá, nói OK và cười toe toét! Chiếc xe ra khỏi lòng thành phố chạy vòng quanh đảo, nơi nào cây cối cũng tươi tốt, hoa lá đua vui. Ngoài bãi biển Waikiki ra, bãi nào tương đối cũng đẹp, cũng nên thơ với màu cát vàng óng như tơ, với màu nước xanh trong vắt như thủy tinh!
Sau đó, gã đưa tôi vào một con đường cây cối um tùm như một khu rừng rậm, ánh nắng không xuyên qua nổi, không khí ẩm ướt với mùi lá mục. Đó là đường Pali cú (Pali Old Road). Sau khi đi xuyên qua, xe chạy một khoảng không xa bao nhiêu, mà sao gió nhiều thế. Mây bay la đà, khí hậu lạnh cóng. Nơi đó gọi là Pali Look Out. Ở nơi này du khách có thể nhìn thấy một vùng bao la của đảo. Mặt trời vẫn chói chang ở ngoài xa, nhưng nơi đây không có ánh nắng, mây giăng âm u như sắp đổ cơn mưa lớn.
Vì không chịu nổi gió lạnh, tôi trở lại bãi đậu xe. Gã tài xế vẫn ngồi ở tay lái, mồm ngậm điếu thuốc thở khói khét lẹt. Thấy tôi, anh quăng mẩu thuốc ra xa, hỏi tôi muốn đến thăm Trân Châu Cảng không? Tôi gật đầu bằng lòng, vì sự thực, tôi cũng có ý định đến thăm một di tích lịch sử từ hồi Đệ Nhị Thế Chiến. Hải cảng quân sự này, đã bị những chiếc phi cơ của không quân Nhật Hoàng bất ngờ tấn công vào một sớm tinh mơ làm Hải Quân Mỹ bị thiệt hại nặng nề. Ngoài một số lớn thương vong, còn có một chiến hạm khổng lồ USS. Arizona bị chìm. Cũng kể từ ngày đó, Chính Phủ Mỹ lao hẳn vào cuộc chiến cùng với Anh, Pháp, Nga v…v... quyết đánh tan phe Trục: Đức, Ý và Nhật.
Khi đến nơi, tôi đã thấy đông đảo du khách tới trước. Có một phái đoàn Nhật đông tới gần một trăm người, do một nữ Hướng Dẫn Viên duyên dáng, thân hình cao lớn không thua con gái Mỹ, nói tiếng Anh trôi chảy. Cô ta thông dịch sang tiếng Nhật những câu của người Sĩ Quan Mỹ có trách nhiệm hướng dẫn đến thăm khu vực lịch sử. Mọi người đi xem được phát một tấm thẻ, tượng trưng cho chuyến đi. Chờ chừng nửa giờ, chúng tôi được hướng dẫn vào một phòng chiếu phim thật rộng với màn ảnh Đại Vỹ Tuyến. Trước khi chiếu, vị Sĩ Quan nêu câu hỏi, xem có bao nhiêu thành phần thuộc mỗi Quốc Gia có mặt. Phái Đoàn Nhật giơ tay đông nhất. Vị Sĩ Quan phụ trách chiếu phim thực khéo, nói trước: “Cuốn phim này chỉ ghi lại những sự kiện lịch sử. Chúng tôi cho chiếu để quý vị thưởng lãm, chứ không phải để gây căm thù vì nước Mỹ và nước Nhật lúc này là bạn!”
Khi vừa dứt lời, phim bắt đầu chiếu, trước tiên, cảnh sinh hoạt bình thường của quân cảng, sau đó vài giây là tiếng rú của những chiếc phi cơ Nhật lao vào các chiếc tàu để thả bom và tiếng súng nặng của tàu chiến trả đũa ngăn chặn, gây cho người xem một cảnh tượng hãi hùng. Sau cùng có những chiếc phi cơ mang bom lao thẳng vào ống khói của chiến hạm Arizona làm cho chiếc này bị chìm dần xuống đáy biển với những đám cháy ngút trời! Riêng tôi, đã được xem cuốn phim này trên TV, nên không có xúc động nào hết, chả biết những người Nhật hiện diện nơi đây, họ nghĩ gì, khi chính vì trận chiến này đã đưa đến sự tan nát của hai thành phố Hiroshima và Nagasaki do hai trái bom nguyên tử thả xuống. Tôi cũng được xem chiếc B.29 thu nhỏ lại, bốn động cơ, có tầm bay xa và cao, đã mang hai trái bom khủng khiếp đó!
Sau khi chiếu phim, mọi người được hướng dẫn xuống chiếc tàu nhỏ, đủ chỗ cho số thẻ được phát ra khi nãy, để ra thăm chiếc USS Arizona đã được trục lên gần sát mặt biển, ngay bên trên có xây một đài kỷ niệm với tên của các thủy thủ Mỹ đã hy sinh trong trận chiến đó. Chiếc chiến hạm bị ngâm dưới nước biển lâu ngày, nên bị rỉ sét và rong rêu bám đầy trông như con quái vật khổng lồ! Ở gần, còn có chiếc tầu ngầm đã đánh đắm rất nhiều tàu chiến của đối phương ngoài khơi Thái Bình Dương. Ai muốn xuống coi phải trả sáu đô-la. Do vậy cũng ít ai xem!
Trên lối đi ra bãi đậu xe, tôi ngỏ ý với gã tài xế, muốn đi thăm ngôi chùa Nhật Bản, nổi tiếng vì kiến trúc cầu kỳ. Gã gật đầu OK. Không cần bản đồ, gã lái xe về hướng khác, chừng một giờ sau, tôi đã nhìn thấy màu đỏ rất đặc biệt ẩn khuất sau nhưng tàng cây. Trước khi tới Chùa, tôi thấy một Nghĩa Trang của người Nhật, tất cả những ai đã nằm xuống đều quay đầu vào Chùa, những chiếc mộ bia cũng vậy! Gã tài xế bỗng cất tiếng: “Người Nhật, đi đâu, đến đâu cũng thế, không bao giờ họ lìa bỏ những tập tục cổ truyền” và còn cho biết, trên hòn đảo nhỏ bé này, người Nhật có rất nhiều cơ sở làm ăn cũng như đất đai không thua gì người Mỹ trắng!
Tôi đứng im sững như pho tượng, nhìn vào cái lối kiến trúc cầu kỳ rất đặc biệt Nhật Bản. Phía sau ngôi Chùa là núi cao với những đám mây giăng la đà làm không khí tăng phần thoát tục. Tôi đặt từng bước chân gượng nhẹ trên sỏi đá, trên chiếc cầu gỗ uốn cong trên dòng nước. Tôi nhìn từng ngọn cây lá cỏ, từng nhánh hoa mầu đỏ tía hoặc phớt hồng lả bóng xuống ven hồ. Tất cả những gì có mặt, hình như được nhưng khối óc và những bàn tay khéo léo sắp đặt, điều hòa cho cái đẹp chung của ngôi Chùa trang nghiêm cổ kính mà tôi đã có cơ may nhìn thấy tại nước Nhật cách đây hai mươi năm trong thời gian đi tham dự Hội Chợ Quốc Tế Osaka. Nó không trộn lẫn, không hòa tan. Nó là một cái gì rất đặc biệt và cách biệt, của riêng nước Nhật!
Thấm thoát đã tới chiều, tôi bảo gã tài xế trở về thành phố để ăn cơm. Tôi mời gã vào ăn mì tại một tiệm Nhật. Mì Nhật có mùi vị khác hẳn mì Trung-Hoa hoặc Đại-Hàn. Tô mì rất to, ăn không hết tuy bụng đói. Giá cũng rẻ thôi, có vài đồng bạc. Ăn xong, tôi bảo gã đưa ra bãi biển để nhìn hoàng hôn chết đuối dưới chân Đại Dương. Rời khỏi lòng xe, tôi bảo gã tài xế, sáng mai đến khách sạn đón tôi vào khoảng mười giờ.
Tôi đi thẳng ra biển, qua một bãi cỏ thênh thang có những cây mọc lâu đời, tàng lá trải rộng, thật rộng, che rợp một khoảng lớn, dưới bóng mát có đặt chiếc ghế gỗ dài và chiếc bàn cho những người đi pic-nic, dùng làm bàn ăn. Tôi suy nghĩ vẩn vơ, trước khi có mặt người Mỹ với nền văn minh cơ khí thì nơi đây, chắc toàn rừng rậm chạy sát tới mé biển, chứ làm gì có bãi cỏ xanh mơn mởn với những vòi nước ngọt, những căn nhà Restroom khang trang để du khách tiện sử dụng.
Tôi đến một ghế trống, nằm dài trên đó. Chiếc mũ vải úp lên mặt, lắng nghe tiếng sóng Đại Dương vỗ ngoài xa như lời ru thì thầm. Buổi chiều nay, ngày áp Tết, chắc Sài-gòn đang nhộn nhịp mua bán đón Xuân theo tục lệ, nhưng dưới sự cai trị bạo tàn của Cộng Sản, sau mười mấy năm, chắc cũng chẳng còn nhiều vui thú để mơ ước. Mỗi dịp đón Xuân với tiếng pháo nổ ròn rã để mừng chiến tranh đã tàn phai trong ký ức, nhưng cuộc sống đó, mỗi ngày mỗi tồi tệ hơn, trên sáu mươi triệu ngươi, chỉ có trên một triệu Đảng Viên được hưởng đặc quyền, đặc lợi, còn tuyệt đại đa số văn khố rách áo ôm, sống bằng mánh mung, lường gạt, sống bằng những uất nghẹn chẳng dám hé môi, sống bằng tủi nhục, câm nín trong chờ đợi, đến ngày nào có phép lạ xẩy ra, lại được sống cho ra con người với hạnh phúc trong tay, dù bé nhỏ, chứ cứ kéo dài mãi sự mỏi mòn này sẽ làm rã mục hy vọng, làm băng hoại ước mơ, do vậy, tiếng pháo đón Xuân, ngày nào đó, sẽ trở thành tiếng súng, đòi lại quê hương, đòi lại những gì đã mất do Cộng Sản lấy đi! Tôi vẫn thường nghĩ, mọi vật trên thế gian này đều có linh hồn, biết đâu, tiếng sóng đang dào dạt vỗ vào bờ cát ngoài kia lại chẳng mang những lời nói thầm kín riêng của bãi phía Đông gửi qua phía Tây, bãi phía Bắc gửi xuống phía Nam? Mỗi bờ cát là một trạm tin, ở đó, có rất nhiều tín hiệu ngày đêm hoạt động liên tục để nói năng, kể lể nỗi niềm của từng vùng vui tươi hay đau đớn! Tôi nằm đây, hình như nghe được những tín hiệu ấy do linh giác cảm nhận. Nhưng tôi đau khổ bao nhiêu khi trong trí tưởng lại hình dung thấy những dày vò, tủi nhục của bao nhiêu con người giờ đây đang đón Xuân trong tiếng khóc nghẹn ngào vì đời sống khó khăn đã xô họ xuống tận đáy sâu Địa Ngục Trần Gian. Chợ Bến Thành vẫn còn đó, đường Lê Lợi vẫn ngàn năm phơi mình trong hai mùa mưa nắng, chợ hoa Nguyễn Huệ vẫn có những cành mai nở hoa vàng óng với những chậu cúc, chậu quất, thược dược đủ màu, nhưng những thứ đó giờ này không còn thuộc về người dân cần cù làm ăn lương thiện mà nó thuộc về giai cấp lãnh đạo, chuyên nghề tham những, hà hiếp, mới có dư giả tiền bạc để mua sắm cho ngày Tết thêm phong phú, thi vị! Tôi bàng hoàng cảm thấy lòng mình thắt lại khi mường tượng đến những oan trái mà người dân miền Nam phải gánh chịu đã hơn mười năm qua. Còn thời gian cứ lạnh lùng trôi đi, trôi đi, tiếp nối!...
- Sao, bữa nay ông định đi đâu? Gã tài xế hỏi tôi với nụ cười xã giao. Tôi nói, muốn đi thăm nơi nào có nhiều người Mỹ gốc thổ dân sinh sống. Gã tài xế không nói gì, lặng lẽ đề máy, rú ga. Chiếc xe chạy xuyên thành phố rồi quẹo vào một con lộ có rất nhiều biệt thự sang trọng nằm sát bờ biển. Gã tài xế cho biết, khu nhà giàu này đều do người Mỹ trắng hoặc Nhật làm chủ. Chiếc xe ra khỏi Exit để vào xa lộ duy nhất; xuyên xéo qua đảo. Tôi nhìn sang hai bên thấy phong cảnh không khác miền Nam mấy tý, nhất là những mái nhà ẩn khuất sau bờ cây, khóm chuối, thỉnh thoảng dọc theo các con lộ nhỏ mà gã tài xế bỏ xa lộ để đưa tôi đến những khu có người Mỹ gốc thổ dân cư ngụ. Tôi thấy vài quán hàng treo lơ lửng dăm ba nải chuối; mươi trái khóm; vài trái dừa khô.v..v... Nhìn thấy cái cung cách sinh hoạt đó, tôi bỗng nhớ đến những quán hàng rải rác trên các trục lộ giao thông ở miền Nam nước Việt. Tôi cứ để mặc gả tài xế muốn đưa tôi đi đâu cũng được, miễn anh phải đưa tôi đến địa điểm Luau Village trước năm giờ chiều, để thăm một ngôi làng tượng trưng của dân đảo tự ngàn xưa với các sinh hoạt cổ truyền kể cả những màn vũ đặc biệt. Gã tài xế cười nhe hàm răng trắng bóc, có lẽ; gã cảm thấy thoải mái, coi cuộc du ngoạn này do chính gã thực hiện. Nhìn đồng hồ còn sớm, gã đưa tôi đến khu trồng mía với diện tích bạt ngàn cũng như nơi trồng trái thơm mênh mông. Tôi nhìn màu đất đỏ au, bỗng nhớ đến Ban Mê Thuột. Cũng màu đất y hệt thế này, nhưng Ban Mê Thuột nhiều đồi núi nên không trồng mía hoặc trái thơm mà chỉ trồng cà-phê cùng những loại cây khác, hợp với phong thổ thôi. Cũng chính cái địa danh này đã khởi đầu cuộc chiến, kể từ đó; miền Nam cứ rả dần từng mảng, đi đến kết quả bi thảm: Ngày 30-4-75, ngày đầu hàng Cộng Sản, sau năm mươi tám ngày đêm chạy dài tán loạn!
Nhìn đồng hồ đã gần một giờ chiều, giờ địa phương (múi giờ chậm hơn ba giờ, đối với đất liền) tôi bảo gã tài xế kiếm chỗ ăn cơm. Gã lái một hồi lâu đưa tôi đến một quán ăn “seo-sẹc”, nơi đây có Viện Bảo Tàng về Hải Dương Học. Suốt bữa ăn, tôi nghe tiếng hải cẩu kêu không ngớt. Quán rất đông thực khách, mọi người có vẻ ăn uống vội vã vì còn mải đi thăm các nơi khác, còn tôi, sau bữa ăn, đã thấm mệt nên tìm một nơi khuất có bóng mát, nằm lăn trên bãi cỏ úp mũ lên mặt làm một giấc dài.
Tôi giật mình thức giấc, gã tài xế đã đứng bên tự hồi nào và cho biết cần đi ngay, nếu không sẽ muộn. Tôi theo gã ra bãi đậu xe. Bãi đậu vắng hoe vì du khách đã đi hết. Gã tài xế rồ ga, de lui rồi quẹo nhanh ra lộ. Nhưng xe cũng không chạy nhanh được vì tốc độ bị hạn chế tối đa. Nhưng rồi cũng tới nơi khi mặt trời còn cao khoảng một con sào. Tôi ngỏ lời mời gã tài xế vào xem chung, tôi trả tiền vé, nhưng gã khiêm tốn từ chối vì đã biết quá nhiều. Thế là chỉ mình tôi với tấm vé 40 đô-la vô cửa. Vừa qua khỏi chiếc cổng làm bằng cây đơn sơ, tôi đã bị một cô gái ăn mặc theo kiểu thổ dân, mình trần, ngực đeo hai mảnh dừa khô đen bóng, hồn nhiên đến khoác tay chụp ảnh (khi về, muốn lấy ảnh, phải trả tiền). Tôi biết, ngôi làng tượng trưng này, được dựng lên với mục đích thương mại, nhưng dù sao, qua nó, các du khách cũng được biết một phần nào lề lối, cung cách sinh hoạt lâu đời của người dân sống trên đảo. Làng được phân chia thành nhiều khu vực, với hệ thống dây chuyền, để du khách với một thời gian ngắn, có thể ý thức được phần nào về phong tục, tập quán xa xưa, trước khi nền văn minh cơ khí tràn vào. Họ biểu diễn cách lưới cá ở ngay ven biển với bãi dừa dầy đặc. Họ vừa kéo lưới vừa hò reo, du khách cũng hò theo cho vui. Tiếp theo, đoàn thuyền độc mộc từ ngoài khơi cập bến. Một đám con gái mình trần, mặc váy tua bằng sợi nylon, đón đoàn thuyền qua vũ điệu ngoáy mông rất khêu gợi. Tôi được người dân trên đảo dạy cách sâu hoa bằng sợi chỉ tước ra bởi thân cây rừng. Tôi đến căn nhà trưng bầy những công cụ săn đuổi thú rừng với những chiếc lao có tẩm thuốc độc để giết thú dữ. Tôi được xem nghi thức ngày hội của dân tộc Poiynesian, qua tiếng trống lớn với các nhạc khí cổ truyền và cách nướng heo dưới hầm đất để ăn mừng. Tôi đi thăm những chiếc lều mái lá, vách bằng cây rừng rất đơn sơ, nơi trú ngụ của người dân đảo thuở trước. Tôi đến thăm khu chợ bày bán những dụng cụ làm bằng tay cũng những chiếc sarong màu sặc sỡ cho đến khi trời tắt nắng, cũng là khởi đầu của màn trình diễn có tính cách then chốt, trên một sân khấu lộ thiên rộng rãi.
Trước khi xem trình diễn, các du khách được mời đi lấy cơm tại một căn nhà riêng. Ngoài cơm, thức ăn toàn món địa phương như thịt heo nướng trui, ăn toàn mùi khói, mấy khoanh trái thơm để nguyên vỏ, các thứ rau trộn tùm lum. Còn nước uống, một thứ rượu pha chế theo cung cách cổ truyền, nước ngọt cũng vậy, rất khó uống nếu không quen, tuy nhiên ai muốn uống rượu mạnh, hoặc la-de, Coca, Pepsi đều có; riêng rượu mạnh phải trả thêm tiền. Tất cả khu vực trình diễn sáng rực dưới ánh đèn pha chiếu từ bốn phía. Trước khi chính thức trình diễn, các du khách được mời nhảy với các vũ công. Sau đó, du khách vừa ăn, vừa xem. Đây là cuộc trình diễn nhà nghề, có tổ chức, nên mất đi hầu hết cái ý nghĩa cao đẹp và nên thơ của phong tục, tập quán dân tộc Polynesian. Chương trình được giới thiệu bằng tiếng Mỹ, do người Mỹ điều khiển. Trong lòng tôi bỗng dấy lên mối u hoài khi nhìn các vũ công, vũ những điệu cổ truyền trên sân khấu với các dụng cụ văn minh hiện đại. Không, không, tôi nhất định từ chối cái lối vũ nhà nghề này, cũng như tôi không chấp nhận chiếc thuyền độc mộc làm bằng ván ép, bôi xanh đỏ loè loẹt và cây Totem được khắc quá nhẵn nhụi, quá tinh vi, chắc chắn tự ngàn xưa, người dân đảo không có phương tiện để thực hiện như vậy!
Mắt tôi vẫn mở, tai tôi vẫn nghe từng nhịp chân đập rầm rập xuống sàn gỗ, nhưng hồn tôi lại đang trở về với nếp sống cổ xưa của người dân trên đảo, và những thân hình nở nang, đen xạm vì nắng gió biển khơi kia, phải được che phủ bằng lá cây, hoa rừng thơm ngát. Những đôi chân, những chiếc mông no tròn kia phải nhảy trên mặt cát, dưới ánh trăng hoặc dưới những cây đuốc chứ không phải dưới ánh đèn pha hàng nghìn nến!
Mắt tôi bỗng mờ đi, tai không còn nghe thấy tiếng nhạc nữa. Trong đầu tôi, nổi lên nhưng đợt sóng êm êm hôn trên bờ cát, hồi tưởng đến những mùa Xuân xa cũ, người dân Sài-gòn đi trốn cái nắng rực lửa của mấy ngày Tết đến, họ thường ra Long-Hải, Vũng Tàu đùa vui cùng trời biển, để rồi sau đó, lại lao đời mình vào trách nhiệm, tùy theo hoàn cảnh mỗi gia đình, mỗi cá nhân.
Tôi biết đêm nay mình đang có mặt tại Honolulu, nơi quê nhà đúng ngày ba mươi Tết Âm lịch. Tôi gửi hồn tôi theo con nước thủy triều, biết đâu những làn sóng đang vỗ vào bờ cát ngoài kia chẳng truyền đi tiếng nói của hồn tôi gửi qua bên kia bờ Đại Dương, nơi có quê hương Việt-Nam ngàn đời yêu dấu!
- Rằng, một ngày nào đó, tôi sẽ trở về!...
Honolulu, ngày cuối năm.