Một Chút Tình Riêng
MỖI năm, khi cây phong trước cửa, lá bắt đầu thay màu và dần dần trút xuống mặt lộ, theo từng cơn gió lạnh, tự nhiên trong lòng tôi lại dấy lên nỗi buồn nhức nhối. Lá phong rụng, báo hiệu mùa đông sắp đến và chờ đến khi trên cây không còn xót chiếc nào, đó là dấu hiệu mùa xuân đang về trên đất Mỹ và mọi người hoan hỉ: “Good bye winter".
Từ lâu, tôi không cầm bút, tâm hồn đầy rong rêu bao phủ. Tôi không viết, ý muốn quên đi những u hoài, khắc khoải đã đè nặng trong tâm trí qua bao tháng năm in hằn dấu vết thời gian, một thứ thời gian nặng nề u uất! Nhiều lúc suy nghĩ vẩn vơ, tôi cũng không hiểu vì sao đời tôi lại gặp quá nhiều gian truân, oan trái? Tâm hồn tôi đã cắm rễ vào quê hương trên sáu mươi năm và nổi trôi cùng hưng phế qua mỗi cuộc đổi đời của lịch sử! Những bước chân của đời tôi đã in dấu trên khắp miền đất nước từ ải Nam- Quan tới mũi Cà-Mau, từ bờ biển Đông tới dẫy Trường- Sơn ngất ngất với rừng rậm âm u, với vách đá cheo leo, với những bất ngờ giữa sống và chết! Chẳng những thế, trước khi miền Nam bị chìm đắm vào cơn mê thù hận do Cộng Sản đẩy tới sau ngày 30- 4-75, bước chân tôi đã có dịp vượt qua biên giới quê nhà để được biết nhiều quốc gia khác thuộc vùng Đông Á. Tôi phiêu bạt như cánh chim, nhưng lúc nào và bao giờ cũng quay đầu về tổ ấm Việt-Nam. Có lần đi công tác ở Bangkok vào khoảng cuối năm 1958, gặp người bạn cũ, rủ ở lại và cam đoan sẽ tìm cách đổi quốc tịch cho tôi vì, về Việt-Nam làm gì, ở đấy chỉ có chiến tranh và đau khổ! Nhưng tôi cương quyết từ chối và nói cho anh ta hiểu rằng: không bao giờ tôi bỏ Việt-Nam, dù ở đó, có chiến tranh và đau khổ đến mấy đi nữa! Làm sao tôi có thể bỏ được mảnh đất đã sinh ra dòng giống tổ tiên tôi, mảnh đất đã nuôi dưỡng và đùm bọc tôi từ thuở lọt lòng đến hôm nay, cho tới khi nào tôi nhắm mắt, xuôi tay! Mảnh đất đã có mấy ngàn năm lịch sử với bao nhiêu anh hùng và những chiến công rực rỡ để giữ vững Việt-Nam mãi mãi! Không, không bao giờ!...
Nhưng đó, chuyện thuộc về quá khứ, tuy đã xa mà bây giờ ngồi trên xứ lạ quê người, đếm qua, đếm lại đã mấy mùa Xuân lưu vong qua đi, mới biết sức người không thể chống lại hoàn cảnh, một hoàn cảnh quá ư bi đát và khốc liệt đã xô đời mình cũng như nhiều người khác ra khỏi vùng đất thân yêu, đã bứng chiếc rễ cái lên khỏi môi trường quen thuộc! Chiếc rễ đã cắm quá sâu vào lòng đất, một khi bị cày sới, đổi màu dinh dưỡng, đổi khí hậu thích nghi, làm sao cây sống được? Thản hoặc, vì một phép lạ nào đó, cây còn sống, liệu nó có thể đâm chồi, nẩy lộc như hồi còn ở nơi đất cũ? Tâm trạng riêng tôi cũng vậy!
Đã mấy năm nay, theo lời yêu cầu của bằng hữu, năm nào tôi cũng viết một bài về cảm nghĩ riêng tư đối với mùa Xuân nơi đất khách. Bài viết ngắn thôi, chỉ đủ nói lên một khía cạnh, một suy nghĩ giới hạn. Nhưng năm nay, tôi định gác bút vì viết mãi cũng nhàm, nhất là bài viết không khởi hành từ chiều sâu tâm thức. Theo ý riêng, sự cảm xúc do ngoại cảnh chỉ có khả năng gợi ý, nhưng cái thực chất văn chương lại nằm trong suy tưởng. Vậy suy tưởng cái gì đây? Và mùa Xuân nào đó, dù trong quá khứ hay hiện tại có thực sự làm cho suy nghĩ chuyển động, hay cũng chỉ là hư cấu, là ảo hóa chợt đến, chợt đi?... Từ lâu, tôi buông thả tâm hồn, giống như con ngựa xổng chuồng, khó mà bắt lại để đóng yên, buộc cương. Tôi thử ngồi vào bàn viết, tay nắm chặt quản bút, mắt nhìn chòng chọc vào mặt giấy trắng mênh mông, trắng quá đến rợn người!...
Qua ô cửa, bên ngoài, cây phong đưa những cành khô in lên vòm trời xám ngoét như những cánh tay gầy guộc. Gió thổi làm hàng trúc đào lay động, nhưng cây phong vẫn trơ trơ vì nó không còn lá để hứng gió. Có lẽ, đời tôi giống như cây phong lúc này, nhưng khác nó, vì chỉ một thời gian nữa thì nhựa sống tiềm ẩn trong thớ vỏ sẽ vận chuyển từ dưới lòng đất sâu tạo nên những mầm non, nó sẽ xanh tươi trở lại theo thời tiết, còn thân phận tôi, mỗi mùa qua đi, nhựa sống cạn dần, sẽ tàn lụi trong một ngày nào đó! Tôi biết, đời mình đang trải qua những mùa Xuân khô khan, nếu không muốn nói, chẳng có mùa Xuân nào về trên đất khách, ngoài mùa Xuân tưởng tượng, mùa Xuân giả tạo! Tôi đã đi thăm hai mùa Xuân của Cộng Đồng Tỵ Nạn tổ chức trong hai khuôn viên Đại Học riêng rẽ, nhưng chẳng nơi nào tôi tìm thấy không khí mùa Xuân và hương vị Tết như ở quê nhà!
Tôi đưa tay áp vào khuôn mặt lạnh ngắt. Đầu óc quay cuồng như đang bị cuốn hút vào cơn lốc. Tôi cảm thấy trước mặt mở ra một vũng tối sâu thẳm, mịt mù. Tôi cố dùng trí giác để nhận thức về sự hiện hữu của mình trong hiện tại. Nhưng vô ích! Tôi càng suy luận, hình như sụy luận lại bủa vây tôi bằng sự cách ngăn, như tấm thép dầy chắn lối. Sau cùng, tôi đành buông thả để cho sự lười biếng dẫn dắt. Vì đã lâu tôi chẳng sử dụng đến sự bén nhạy của trí giác nên nó nhụt cùn như lưỡi dao không dùng, để lâu ngày bị rỉ sét nhấm gậm! Do đó, sự vận chụyển của nhận thức cũng chậm chạp cơ hồ không muốn nhúc nhích. Hình như cái vũng tối trước mặt cố tình không cho suy nghĩ tiến tới, tôi đành tạo một lối thoát tương đối dễ là quay vào nội tâm để tìm lại chính mình trong khoảng thời gian đã mất, biết đâu, vì may mắn nào đó, tôi thấy được những châu báu, ngọc vàng mà tôi đã bỏ quên hoặc đánh rơi trên quãng đường dài đầy chông gai, gian khổ!...
Chính thực, tôi không hiểu vì lý do siêu hình nào khích động làm trí nhớ của tôi bỗng nhiên sống động. Cái vùng bóng tối bao la đang bủa vây xung quanh loãng dần như cơn mưa sắp tan. Một tia nắng le lói tự trên cao chiếu xuống để cho tôi có thể nhìn thấy cảnh sắc hiện dần trước tầm mắt. Mặt giấy lúc này không còn mênh mông trống trải nữa mà nó lấp lánh như có muôn vạn hạt kim cương nhỏ xíu đang trửng giỡn dưới sự điều khiển của một bàn tay thần bí. Đột nhiên, tôi thấy mình trẻ lại và những kỷ niệm vui buồn của những mùa Xuân đã qua lại chập chờn, ẩn hiện như đùa cợt, như réo gọi trong khoảng không gian và thời gian xưa cũ tưởng như đã chìm khuất, đã tiêu tan, không bao giờ gặp lại!
Quả thực, tôi còn thơ dại và bé bỏng khi theo bố mẹ về quê nội ăn Tết. Tôi thấm mệt sau cuộc hành trình khá xa trên chiếc xe đò chật chội, chạy chậm như rùa bò trên con lộ dài mấy chục cây số, rất nhiều ổ gà. Nhưng chắc bố mẹ tôi còn mệt hơn vì các Người còn phải mang theo rất nhiều thứ cho gia đình cũng như làm quà cho bà con họ hàng. Sau khi xuống xe, chúng tôi còn phải lội bộ dăm cây số nữa, dưới cơn mưa phùn, gió bấc thổi buốt ruột, hai bên là đồng ruộng, rải rác vài bãi mạ xanh biếc. Đất đồng chiêm thấm nước trơn như thoa mỡ làm tôi té lên, té xuống, quần áo lấm bê bết. Cái không khí nhà quê, lần đầu tôi biết, quả thực, nó không quyến rũ chút nào. Như để an ủi, mẹ tôi nói:
- Còn chút nữa thôi con, làng kia rồi! Tôi nhìn theo ngón tay mẹ chỉ, chả thấy gì ngoài lũy tre cao ngất. Nhưng rồi cũng đến nơi. Chúng tôi đi qua chiếc cổng làng xây gạch rồi men theo con lộ nhỏ lót đá ong chừng một khoảng thì đến nhà. Khi tới đầu ngõ, đôi câu đối đỏ chót, màu mực sạ đen lánh như còn ướt làm vui mắt. Vào đến sân, tôi thấy một cành tre cao ngất, ở trên ngọn, treo chiếc khung tròn, xung quanh đeo tòn teng những miếng sành mang hình cái khánh, con cá, con chim chạm vào nhau kêu lanh canh theo sức gió. Một dải lụa màu hồng có tua, mồc giữa chiếc vòng, rủ xuống đung đưa như chào mừng người mới đến. Mẹ tôi bảo đó là cây nêu, mỗi dịp năm cũ sắp qua, mọi nhà đều trồng cây nêu để mảnh sành chạm vào nhau, tạo nên tiếng động, ma quỷ sợ không dám vô nhà trong năm mới. Tuổi nhỏ, chẳng biết lời giải thích của mẹ tôi đúng hay sai nhưng nó cứ in đậm vào trí nhớ như nét mực đọng trên tờ giấy thấm. Mẹ đưa tôi đến chiếc lu đặt sát bờ rào râm bụt, múc nước cho tôi rửa chân trước khi vô nhà thay quần áo.
Tôi bước lên thềm, màu gạch đỏ như son, chắc mới được rửa để ăn Tết. Nhìn qua khung cửa rộng, tôi thấy chiếc bàn thờ uy nghi, rạng rỡ với chiếc lư hương, đỉnh đồng, chân nến sáng loáng và chiếc án thờ chạm trổ tinh vi, cầu kỳ, ở trên bầy biện những vật dụng đặc biệt dành cho ngày Tết. Chiếc màn nhiễu điều đính kim tuyến phản chiếu ánh sáng lấp lánh như sao sa. Nhưng phải thú thực, tất cả những gì tôi thấy, không gây cho tôi ấn tượng sâu đậm nào, ngoài buổi tối đó, tôi được ngồi trong ổ rơm, ăn khoai lùi, bên cạnh nồi bánh chưng, lửa cháy rừng rực, xung quanh nào ông bà, bố mẹ và các cô chú, mỗi người đều tham gia vào câu chuyện làm ăn, nhắc nhở đến kỷ niệm vui buồn, kẻ còn, người mất! Không kịp chờ nồi bánh chín, tôi ngủ gục lúc nào không hay.
Hôm sau, ngày ba mươi Tết. Buổi chiều cả nhà đều bận rộn làm cơm cúng, tôi chả biết làm gì hơn, ngồi nhìn trời mưa, nghe tiếng khánh sành kêu rộn rã. Sau khi cơm nước xong, buổi tối tôi theo bố lên đình xem tế. Ôi, cái đình sao lớn lắm vậy? Những đồ thờ tự đều sơn son thếp vàng sáng rực dưới ánh sáng của những cây nến to và đuốc. Tiếng trống đánh liên hồi, thật sôi nổi. Các cụ già lụng thụng trong bộ áo tế trông thật trang nghiêm, đứng lên, quỳ xuống theo lời xướng của vị chủ tế. Không thiếu gì những đứa bé vào trạc tuổi tôi đứng chật một góc đình. Đêm ấy, tôi đi ngủ với bộ quần áo mới đặt ở đầu giường và tiếng trống đình còn vang vọng trong tiềm thức.
Sáng mồng một, tối xúng xính trong bộ quần áo mới, vừa dài vừa rộng, lon ton theo mẹ đi lễ chùa, hái lộc đầu năm. Tuy tiếng mõ, tiếng chuông không sống động như tiếng trống đình, nhưng hinh như nó có uy lực cuốn hút tâm hồn thơ dại của tôi đi vào sự tôn kính với niềm tin mãnh liệt. Mùi nhang làm thần trí tôi đê mê, cho đến bây giờ, mỗi lần ngửi thấy mùi nhang, tự nhiên lại thấy hình ảnh ngôi chùa làng với vị sư già khổ hạnh, ngồi tụng kinh, gõ mõ trước bàn thờ Phật ngày mồng một Tết năm nào! Sau khi hái một cành hoa ngâu lấy lộc đầu Xuân, hai mẹ con đi chúc Tết họ hàng. Những tiếng cười nói rộn ràng, những bộ quần áo mới tạo cho mùa Xuân thôn dã có một phong vị đặc biệt. Hôm đó, tôi được nhiều tiền mừng tuổi, những đồng xu đỏ au nằm trong túi áo, nghe nằng nặng.
Rồi thời gian phai đi. Tôi lớn dần theo các mùa Xuân qua giữa lòng thành phố Hà-Nội. Tôi không về quê theo bố đi xem tế và theo mẹ đi lễ chùa nữa, tôi đã có nhiều bè bạn cùng trang lứa để vui chơi! Tôi đi đền Ngọc-Sơn mỗi tối giao thừa, không phải để hái lộc mà để trao duyên cùng các kiều nữ đang tuổi thanh xuân! Cho đến bây giờ, tôi cũng không hiểu vì sao, các cô gái đều đẹp và thân xác họ đều toát ra mùi hương quyến rũ trong đêm giao mùa!
Khi tôi ở tuổi thanh niên, các phong trào yêu nước đều bị thực dân Pháp dẹp tan, do vậy, thế hệ của tôi lúc đó, chia làm hai thành phần: một số, học để làm quan hoặc làm công chức cho Pháp, một số, chỉ biết vui chơi, sa đọa, quên lãng việc mất nước với thân phận nô lệ, tuy hằng ngày vẫn nhìn thấy quân thù nhởn nhơ, phè phỡn trước mắt và mọi giao dịch chữ nghĩa đều phải dùng tiếng Pháp. Trường hợp Vân Cao và một số ít thanh niên khác đi làm chính trị là ngoại lệ! Vì thế có mùa Xuân, tôi ngồi thu mình trong một căn gác nhỏ, tối tăm của một tiệm hút cùng với Đinh Hùng, Vũ hoàng Chương, Bích Câu và Quỳnh Dao, xung quanh bủa vây toàn hương nha phiến. Tôi và Quỳnh Dao không hút, chỉ ngồi nghe ngâm thơ, góp chuyện. Sáng mồng một về nhà, Mẹ kiêng không mắng, nhưng chắc Mẹ buồn lắm!
Mùa Xuân miền Bắc thật dài, cả mấy tháng vui chơi. Sau mấy ngày Tết lại hội hè đình đám, mỗi nơi tùy phong tục mà tổ chức theo thời gian được ấn định lâu đời. Nào hội đền Hùng, đền Ghềnh, đền Gióng, nào hội Lim với điệu hát Quan Họ, hội rước kiệu làng Mọc, hội vật Hoàng Mai, hội chùa Thày, chùa Hương và còn biết bao hôi hè khác, mỗi nơi đều có đặc tính địa phương để gìn giữ cái nếp sống cổ truyền của Dân Tộc, rồi sau đó, lại đổ mồ hôi xuống luống cầy, đồng ruộng để nuôi cuộc sống chờ đến Xuân sau.
Nhưng các biến động lịch sử làm xáo trộn nếp sống. Quân Nhật tiến vào Việt-Nam qua ngả Lạng Sơn, vài năm sau cướp Việt-Nam trong tay Pháp, ngày 9-5-45. Sau hai trái bom nguyên tử, Nhật đầu hàng Mỹ. Lợi đụng thời cơ, Việt Minh cướp chính quyền ngày 19-8-45, của chính phủ Trần trọng Kim. Rồi quân Tầu qua giải giới quân Nhật. Được sự đồng ý ngầm của Trùng Khánh, quân Pháp trở lại miền Bắc Việt-Nam, qua cửa biển Hải Phòng với ý đồ tái chiếm thuộc địa. Biết bao nhiêu rắc rối do thời cuộc tạo nên, đau thương nhất là hơn một triệu người dân quê chết đói, một số ở giữa lòng Hà-Nội. Tôi sống và đón nhận một mùa Xuân bềnh bồng theo vận nước. Đến ngày 19-2-1946, cuộc chiến tranh toàn quốc chống Pháp bùng nổ. Từ đó, đời tôi bắt đầu phiêu bạt trong bốn mùa Xuân kháng chiến.
Trong bốn mùa Xuân đó, có một mùa Xuân tôi sống trong căn nhà sàn, ẩn sâu giữa dẫy núi Hòa-Bình, đêm trừ tịch nằm nghe mưa rơi, mũi ngửi phân súc vật từ bên dưới xông lên nồng nặc. Trằn trọc không ngủ được, tôi quấn mình trong chiếc mền, ngồi bên bếp lửa, hút thuốc lào vặt. Cái điếu cầy của người Mường to và nặng, mỗi lần kéo thuốc muốn hụt hơi! Ngó ra ngoài, trời tối đen. Tiếng đại bác của quân Pháp bắn từ xa, vọng vào vách núi âm âm như tiếng trống cầm canh khắc khoải! Tôi thầm nghĩ, chả biết còn bao nhiêu mùa Xuân nữa, kháng chiến mới thành công để mình trở về với Hà-Nội yêu dấu? Ngoài tiếng súng, tôi không nghe thấy tiếng động nào khác mà thường ra, ở rừng núi, đêm nào cũng có tiếng thú, tiếng chim kêu từng chặp. Nhìn quanh, anh em đều ngủ với nhịp thở đều đều. Mỗi người như con sâu quấn tròn trong vỏ. Những chiếc ba-lô quăng ngổn ngang đây đó. Cảm thấy mệt, tôi nằm xuống chập chờn trong trạng thái nửa thức, nửa ngủ; những mùa Xuân cú lởn vởn trong tầm trí.
Tôi giật mình thức giấc khi nghe tiếng gọi. Mở mắt nhìn ra trời bên ngoài, mưa giăng mù mịt, che khuất cả hòn núi sát nhà. Tiếng nói cười của anh em làm tôi tỉnh hẳn. Nhoài người ra mép cửa, tôi vô cùng kinh ngạc khi thấy trước mắt, một rừng hoa mai trắng xóa. Hồi hôm, nào tôi có thấy gì đâu, ngoài những gốc cây sần sùi và những cành khô trơ trụi, thế mà chỉ qua một đêm, cảnh trí đã khác hẳn dưới chiếc đũa thần của Tạo Hóa! Mặc cho mưa rét, tôi xuống thang ra vườn mai đứng ngắm như gã si tình mê người đẹp!
Nhưng khói lửa chiến tranh cứ đẩy đời tôi vào những cuộc phiêu lưu không dự đoán. Tôi và chiếc ba-lô cứ lang thang từ miền xuôi lên miền núi, lại từ thượng du xuống đồng bằng. Tôi sống như cánh chim không chỗ đậu lâu dài. Do đó, có lần tôi bắt gặp mùa Xuân trên con đê Chợ Đại, Cống Thần, đô thị của những người tản cư và cũng là nơi tiếp giáp với các làng “tề” để buôn hàng lậu từ Hà-Nội đưa ra.
Đêm ba mươi Tết tôi ngủ đò, sáng mồng một, đi uống cà-phê Mai Hắc Đế và ăn bánh mì thịt nguội với nhà thơ Mai Luân và nhạc sĩ Tử Phác.
Trời hôm đó thật đẹp, không nắng, không mưa, màu mây như lớp thiếc mỏng giăng kín một vùng trời rộng lớn. Trên mặt đê hẹp, người mua kẻ lại tấp nập như trẩy hội. Mùa Xuân về nơi hậu phương, tuy không son phấn lụa là, nhưng nó có cái đẹp riêng, với những chiếc áo cổ vuông, những mái tóc kết bím bỏ thõng ngang vai, với những chiếc xà-cột lủng lẳng bên hông, với những khẩu súng và những đôi mắt nhìn nhau buồn man mác. Cả một dòng sống tấp nập như vậy nhưng khi nghe thấy tiếng động cơ khu trục từ xa thì nó trở thành hỗn loạn; mọi người đều nhớn nhác chạy túa xuống hầm hoặc ra bờ ruộng để tìm nơi ẩn nấp. Tháng trước, nơi đây đã bị hai chiếc Spitfire quạt đại liên cả nửa giờ gây nhiều thiệt hại nhưng không ai chết. Con người tản cư từ lòng Hà-Nội cứ cố bám vào nó như cành tầm gửi bám thân cây cổ thụ!
Sau mấy năm dài kháng chiến, ý thức chính trị đã trả tôi về thành phố vào giữa năm 1950. Tôi gặp lại Thủ Đô, một Thủ Đô ngơ ngác sau những năm chiến tranh. Những cảnh đổ nát hoang tàn còn in đậm dấu vết đó đây. Tôi đi trong lòng Hà-Nội nhan nhản quân thù, anh em phần đông còn theo kháng chiến. Một năm sau mới lác đác trở về, trong đó có Phạm Duy, Đinh Hùng, Vũ hoàng Chương, Sao Mai, người đã được tặng giải văn học kháng chiến, nhà thơ Hoàng công Khanh, họa sĩ Bùi xuân Phái, đạo diễn Phan Tại và nhà phê bình Thượng Sỹ. Trong thời gian này, tôi có thêm một số bạn mới như Bùi xuân Uyên, Triều Đẩu, Trúc Sĩ, Trọng Bình, Thạch trung Giả của nhóm Thế Kỷ.
Rồi mùa Xuân lại về trong lòng Hà-Nội, nhưng nó không làm cho tâm hồn tôi rạo rực như trước. Đêm Giao Thừa, tôi không đến đền Ngọc Sơn hoặc nơi nào khác để vui chơi. Chiếc cầu Thê Húc với màu sơn đỏ chói vẫn cong cong uốn nhịp; chiếc tháp Rùa màu vôi loang lổ vẫn đứng chơ vơ giữa màu nước xanh biếc và hàng liễu quanh hồ vẫn hong tóc ven bờ như bao dòng lệ tủi hờn; các bồn cỏ ngập xác lá vàng; những thân cây cổ thụ vẫn cao ngất tỏa rộng tàn lá che khuất một mảnh trời; tất cả còn đó, nhưng lòng tôi đã đổi thay, chai đá!
Chiều ba mươi, một mình ra bờ sông Hồng, nhìn dòng nước đỏ màu phù sa chảy quằn quại, hiền lành như một con suối nhỏ chứ không dữ dội, hung hãn như mùa nước tháng tám mỗi năm. Tôi biết, nơi này, đêm tháng chạp, đã diễn ra cảnh chém giết vô cùng khốc liệt giữa Trung Đoàn Thủ Đô và giặc Pháp. Nhưng giờ đây, trước mắt tôi, một dải cát im lìm bất động và bên kia bờ, là bãi dâu xanh ngắt. Vài con thuyền lờ Iững trôi xuôi! Nhịp cầu Long Biên đen xậm in trên nền trời tắt nắng, trông nặng nề u uất! Dẫy núi Ba Vì bị mây mù che khuất. Cảnh vật buồn tênh!
Mùa Xuân về trong lòng Hà-Nội năm ấy, tuy vẫn có nhiều kiều nử với son phấn làm duyên, với cành đào, chậu cúc, với rượu ngon, cơm trắng, với đầy đủ nghi thức để đón Xuân mà sao có một chút gì vướng mắc, không thanh thỏa, có lẽ, do tiếng bom đạn đêm đêm vẫn vọng về để nhắc nhở cho người hồi cư nhớ rằng, chiến tranh còn đang tiếp diễn xung quanh Hà-Nội chưa biết bao giờ kết thúc!
Tôi chỉ sống có hai mùa Xuân ở thủ đô Hà-Nội. Định mệnh du đời tôi vào chuyến viễn hành xuống phương Nam. Từ đó, tôi xa miền Bắc.
Cái Tết thứ nhất ở miền Nam, tôi sống trong một doanh trại quân đội gần Quận Phụng Hiệp, tỉnh Cần Thơ. Sau cuộc hành quân dài một tuần lễ tại vùng Cờ Đỏ, Cờ Đen, chúng tôi trở về vào chiều hai mươi chín Tết. Khi đoàn xe GMC tiến vào cổng trại, tôi thấy hai bên cổng đã đứng đầy đàn bà, con nít. Họ thuộc gia đình binh sĩ. Cũng may lần hành quân này, tuy có đụng nhưng không thiệt hại về nhân mạng, do vậy, nét mặt người nào cũng hân hoan. Bao nhiêu tiếng cười nói rộn ràng vây quanh những chiếc xe bám đầy bụi đất, như ngày hội. Tôi rời xe, đi nhanh về phía sân cờ, cho lệnh tập họp, điểm số, trước khi ai về nhà nấy. Doanh trại buổi chiều nay có vẻ khang trang, sạch sẽ. Ban Thường Vụ có bổn phận làm công việc đó để đón Xuân. Trước khi vô nhà, tôi ngửa mặt nhìn lá quốc kỳ bay phấp phới theo chiều gió. Lá cờ mới tinh, màu vàng tươi óng ả với ba vệt đỏ như son, in lên nền trời thật đẹp.
Tôi mở cửa căn buồng vắng ngắt. Đồ đạc chỉ có chiếc ghế bố, chiếc bàn nhỏ, chiếc ghế đẩu, chiếc va-li cũ cùng vài bộ đồ tác chiến mắc trên vách nứa. Mấy tấm hình Play Boy của vị sĩ quan ở trước, dán gần chiếc cửa sổ làm sốn mắt. Tôi muốn gỡ những tấm hình đó để thay thế bằng những tấm tranh dân tộc cho hợp với ngày Tết, nhưng miền Nam không có. Tôi tháo dây lưng với khẩu Colt nặng chĩu, đặt mạnh người trên tấm ghế bố, quấn mình trong chiếc mền mỏng, ngủ vùi tới sáng.
Cả ngày hôm sau, tôi ngẩn ngơ như mất hồn vì mùa Xuân hình như không đến với tôi, tuy không khí bao quanh vô cùng sinh động. Toàn trại có ba sĩ quan, một người có gia đình sống ngoài trại. Đại Đội Trưởng có căn nhà ngói ở một góc trại; riêng tôi, tuy có gia đình cũng như không, vì vợ con còn ở ngoài Bắc. Tôi không thích ông Đại Đội Trưởng mấy; ông ta vốn xuất thân từ hàng Hạ sĩ quan quân đội Pháp, sống lâu lên lão làng, nhất là hay văng tục với anh em binh sĩ. Chả biết làm gì hơn, tôi leo lên vọng gác nhìn bốn hướng, chỉ thấy cánh đồng và những con rạch trải dài đến cuối trời. Nhìn chán, lại xuống thang đi lòng vòng dọc theo giao thông hào đến chiếc lồng trăn. Nhìn qua lưới mắt cáo, con trăn nằm như cuộn dây thừng lớn. Từ phía xa, một binh sĩ bước nhanh tới, tay cầm con gà vung vẩy theo nhịp chân. Anh ta là chủ con trăn, người Việt gốc Miên. Anh mở chốt, thẩy con gà vào. Con gà kêu quang quác, nhẩy lung tung, lông bay lả tả. Con trăn đang nằm im lìm bỗng cất cao đầu lắc lư, chỉ một thoáng, nó chụp được con gà, toàn thân chuyển động, quấn chặt mồi. Vài phút sau, con gà ngay đơ, chắc xương đã gẫy vụn hết. Con trăn dãn thân ra, há miệng ngậm đúng đầu gà, nuốt từ từ. Nó nuốt đến đâu, lông gà ướt sũng như dúng nước. Tôi sững mắt hỏi anh lính:
- Tại sao cậu không cho nó ăn chuột như mọi lần? Anh ta cười hềnh hệch, nhe bộ ráng vàng choé:
- Dạ, hôm nay ngày Tết mà, Thiếu Úy! Cho nó ăn lần này, cầu ba tháng nữa mới phải cho ăn, loài trăn nhịn tài lắm!
Chừng hai mươi phút, con gà đã biến mất! Con trăn lại cuộn tròn bất động.
Quanh quẩn cũng hết ngày. Đêm giao thừa, súng nổ vang trời như đồn bị tấn công, nhưng không, đó là tiếng súng mừng Xuân của những người lính chiến, thay tiếng pháo, dù cho đã có lệnh cấm. Đời lính mà, có gì cũng chỉ lãnh dăm bảy ngày phạt, khỏi phải đi hành quân!
Sáng mồng một, sau khi chào cờ, nghe lời chúc tốt lành đầu năm của Đại Đội Trưởng, anh em binh sĩ tổ chức cuộc đá gà. Hồi còn nhỏ, tôi đã xem nhiều cuộc đá gà, những con gà mào đỏ như son, cổ được vặt hết lông, bôi thuốc làm cho da sần sùi, trông dữ tợn. Con nào cũng to, có đôi cựa dài và sắc. Khi vào cuộc đấu, chúng đá nhau thật hung hãn, tới khi một con bị thấm đòn, đuối sức bỏ chạy, con kia cất cao cổ, gáy vài tiếng, coi như thắng trận. Nhưng đây cuộc chọi gà tre, một loại gà nhỏ thó, nhưng có bộ lông rất đẹp. Tuy nhỏ con mà đá rất hăng, cả tiếng đồng hồ không con nào chịu chạy, tuy cả hai đều ngất ngư. Cuối cùng, một con bị đá một cựa ngay ức, ngã lăn ra chết. Con thắng vỗ cánh, gáy te te vài tiếng rồi cũng quay lơ giữa đấu trường. Tiếng vỗ tay vang động và sự được thua, thanh toán bằng những tờ giấy bạc mới tinh, tiền bán mạng sống!
Cuộc vui ngày Tết chưa tàn, bỗng nhận được điện hành quân khẩn cấp. Đêm qua, ba mươi, đúng giờ trừ tịch, dịch đã tấn công một đồn trên đường Liên Tinh, thuộc vùng trách nhiệm của Đại Đội. Tổn thất: một khẩu đại liên 30 cũng nhiều súng đạn. Tiểu Đội gác đồn, bốn chết, bảy mất tích! Thế là hết Xuân!
Tôi sống ở Phụng Hiệp một thời gian, qua chừng gần hai mươi cuộc hành quân, khi đụng, khi không, thì được lệnh thuyên chuyển về Trung Ương vì nhu cầu công vụ. Từ đó đời sống của tôi buộc chặt vào thành phố Sài-gòn. Tôi sinh ra và lớn lên tại miền Bắc, nhưng đã trưởng thành tại miền Nam. Suốt ba mươi năm, tôi sống với hai mùa mưa nắng, với những mùa Xuân tràn trề tình tự. Khi còn ở tuổi thanh niên, những ngày cuối năm, không bao giờ tôi vắng mặt ở chợ hoa Nguyễn Huệ và nhởn nhơ trên các vỉa hè đại lô Lê Lợi, Lê thánh Tôn cùng dạo xung quanh chợ Bến Thành để hưởng cái không khí vui tươi, nhộn nhịp buổi tiền Xuân. Như ước lệ, đêm giao thừa nào, vợ chồng tôi cũng đến Lăng Ông xin xâm, hái lộc. Nhưng rồi mỗi năm qua đi, tuổi đời chồng chất, cái háo hức của tuổi trẻ không còn nữa, tuy nhiên không vì thế mà lòng tôi thiếu say mê một cành mai, một chậu cúc, đôi câu đối đỏ và những thứ linh kinh khác mỗi độ Xuân về.
Sự thật, cuộc đời không phải một dòng nước chảy êm đềm mãi mãi. Cơn sóng gió đã đến làm dòng nước đảo điên, đã đẩy đời sống vào chân tường thù hận, kể từ sau ngày 30- 4-75.
Tôi đã trải qua năm cái Tết trong tù! Bây giờ ngồi đây, yên ổn trên đất Mỹ, mỗi lần cây phong trước cửa báo mùa Xuân đến, trong lòng tôi lại đau nhói như có sợi dây vô hình xiết mạnh. Cái Tết đầu tiên, tôi bị giam tại Suối Máu, thuộc tỉnh Biên-Hòa. Dù bị quây kín bởi chín lần kẽm gai và những khẩu AK, nhưng lồng ngực tôi vẫn hít thở được cái không khí của miền Nam qua nhưng giọt nắng, qua màu trời xanh thẳm. Cái Tết đó, trời tự nhiên rét lạ lùng. Suốt mấy chục năm sống ở miền Nam chưa bao giờ thấy thời tiết kỳ cục như vậy! Anh em đồng tù cho rằng, tụi Cộng Sản đã mang cái lạnh từ miền Bắc vô, chứ miền Nam đâu có lạnh dữ vậy? Cái Tết đó tuy buồn nhưng chưa thấm, chưa đau vì gói quà năm ký của gia đình gửi vào làm mọi người có cảm tưởng vẫn được gần vợ con thân mến. Đêm ba mươi, tôi nằm trên nền đất lạnh nghe mùa Xuân về qua tiếng pháo từ xa vọng lại. Biết bao nhiêu câu hỏi luẩn quẩn trong đầu, biết bao nhiêu giận hờn làm bàng hoàng tâm trí! Xung quanh tôi, những người cùng cảnh ngộ, chắc họ cũng đang bị những câu hỏi và kỷ niệm hành hạ và đều mong sớm thoát khỏi hoàn cảnh khốn khó này, càng sớm càng tốt, nhưng chưa biết đến bao giờ?...
Rồi mùa hè năm 1976, Cộng Sản chuyển tù cải tạo từ Nam ra Bắc. Cái Tết thứ hai, tôi sống tại Nghĩa Lộ. Đêm ba mươi, nằm trên liếp tre, trong chiếc lán rộng, bên ngoài quây kín bởi hàng rào tre nhọn hoắt với những vọng gác. Ngọn đèn dầu nhỏ treo giữa lán hiu hắt, mờ nhạt, không soi tỏ mặt người. Cái lạnh thấu xương làm khó ngủ, tuy chưa bị đói. Cộng Sản đưa chúng tôi ra Bắc để cách ly khỏi môi trường quen thuộc. Mọi người đều phải lao động khổ sai, bất chấp thời tiết, dưới sự quản lý của tụi “cối xanh”. Nhìn đâu cũng chỉ thấy rừng núi với từng con dốc cheo leo, gập ghềnh sỏi đá. Tôi nhắm mắt, cố quên đi thực tại hãi hùng, nhưng nào có được! Tôi xoay trở trên tấm liếp như con sâu bị kiến đốt. Tiếng pháo từ phía đồi bên kia, nơi đặt ban Chỉ Huy tù, âm vang càng làm tâm hồn tôi nhức nhối. Người bạn-tù kế bên thở dài sườn sượt!
Cái Tết thứ ba, tôi bị giam tại Trại Cải Tạo Trung Ương số 1, thuộc tỉnh Lào-Cai. Đây là nhà tù lớn và kiên cố nhất tại miền Thượng Du do Công An quản lý. Bốn bề tường cao nhẵn thín với nhiều vọng gác, đèn pha sáng rực mỗi đêm. Trại tù này do thực dân Pháp để lại. Nơi đây, khi trước đã giam cầm những người yêu nước chống Pháp; hồi gần đây Cộng Sản giam các “giặc lái” Mỹ và những chiến sĩ biệt kích của miền Nam. Chúng tôi phải lao động hết buổi sáng ngày ba mươi, buổi chiều tắm rửa, giặt giũ, bắt rận đón Xuân. Anh em đã bắt đầu đói vì khẩu phần bị rút. Riêng tôi càng đói vì chưa nhận được quà từ trong Nam chuyển ra. Ngày mồng một, tôi uống nước sôi dằn bụng chờ cơm. Bửa nay được ăn cơm trắng thay vì bột mì hay sắn khô. Đang cơn đói, Thanh Tâm Tuyền qua thăm, đưa chiếc kẹo và cho biết có người mến tôi, mời uống cà-phê, ăn bột Bích Chi. Tôi mừng húm! Rồi thời gian qua đi, con người tưởng như yếu đuối, khó mà chịu đựng lâu dài với hoàn cảnh khắt khe, gian khổ, nhưng thực tế, nó có đủ sức để đương đầu với nghịch cảnh, nếu ý chí bền vững!
Cuộc chiến tranh biên giới giữa Trung Cộng và Cộng Sản Việt-Nam xẩy ra vào cuối năm 1979, tôi và bốn mươi chín người khác bị đưa về miền xuôi. Đây là đợt đầu, gồm toàn thành phần “ác ôn”, theo sự đánh giá của Cộng Sản! Từ đó, tôi vĩnh viễn rời khỏi các hang hốc lẩn khuất dưới chân dãy Hoàng Liên Sơn âm u vách đá và những khắc nghiệt quá mức dành cho mỗi thân phận tù đầy!
Hai cái Tết sau cùng của đời tù tội, tôi sống ở trại Nam Hà, giữa vùng núi Chiné, thuộc tỉnh Hà Nam Ninh. Cả hai mùa Xuân cuối, không mang đến với tôi chút gì đặc biệt, dù thời tiết có khơi động trong tôi chút ít kỷ niệm tuổi thơ. Những mùa Xuân trên đây, tôi đã viết rõ trong cuốn Đây Địa Ngục. Khi con tàu Thống Nhất đưa tôi trở về Sài-gòn, tôi lại được sống hai mùa Xuân trước khi vượt biên. Nhưng mùa Xuân Sài-gòn không còn nữa, dù cho pháo nổ nhiều, nhưng tất cả miền Nam đang bị bủa vây trong không khí oán hờn, uất hận và bóng dáng quân thù nhan nhản làm cho mùa Xuân trở thành một ám ảnh, một dằn vặt không thể nguôi ngoai! Sài-gòn đã thưa, tức Sài-gòn đã mất hết, đã đổ vở tan hoang từ vật chất tới tinh thần, không còn gì để mơ ước!...
Cái Tết lưu vong đầu tiên, tôi sống trong trại tị nạn Sungei Besi, gần thành phố Kuala Lumpur thuộc Mã Lai Á. Tết này làm tôi nhớ lại những cái Tết trong trại Cải Tạo. Cũng hàng rào kẽm gai và tôn quây kín với những qui định hạn chế tự đo. Những người tị nạn đi quẩn quanh trong chu vi hạn hẹp như đàn thú mắc bẫy. Mùa Xuân về không có quê hương! Mùa Xuân về trong sự dồn nén, tủi nhục tận chiều sâu tâm thức của mỗi con người bắt buộc phải lìa bỏ quê hương với ít nhiều tiếc nuối trong lòng! Chiều ba mươi Tết, hai vợ chồng già dắt nhau qua trại B, ngồi trên gò cao, nhìn qua rào tôn, xem xe hơi chạy tấp nập trên con lộ rộng, mong mỏi ngày rời trại. Đêm hôm đó, người Mã gốc Tàu cũng đốt pháo. Tôi nhìn những cây pháo thăng thiên bắn vọt lên nền trời đen thẳm, làm sáng rực một khoảng không gian. Tôi chợt nhớ đến những đốm mắt hỏa châu soi sáng vùng trận địa quê nhà. Tết Mậu Thân năm trước. Chao ôi là nhớ, những mùa Xuân hào hùng nay tìm đâu thấy?...
Nửa đêm, chúng tôi đi chùa lễ Phật. Mùi nhang và câu kinh, tiếng mõ khơi động trong tôi cái không khí mồng một Tết khi còn thơ dại, theo Mẹ đi lễ chùa quê!...
Đã mấy mùa Xuân về trên đất Mỹ rồi đó, nhưng mùa Xuân quê hương càng ngày càng xa vời vợi, chả biết tới khi nào gặp lại? Lạ thật, cũng mưa, cũng gió, tiết trời cũng lành lạnh, cũng hoa, cũng rượu, cũng dưa hành, thịt mỡ, bánh chưng xanh mà sao lòng cứ dửng dưng, nguội lạnh? Thì ra, thiếu cái không khí và sự đầm ấm cần thiết giữa con người và cảnh vật; những thứ này đã cắm rễ, đã ăn sâu vào mỗi tế bào của người Việt từ khi lập quốc!
Hôm nay tôi cầm bút, giống như kẻ ghiền ma túy, muốn cai, nhưng khi đi ngang tiệm hút, ngửi thấy mùi hương phù dung quyến rũ, lại lên cơn, ghé vào, nằm xuống! Thế thôi!... %