Phần Thứ Nhì - Địa Lý I. HÌNH THẾ-KHÁNH HÒA
Là một tỉnh miền Nam Trung Nguyên Trung Phần. Nói theo thiên văn của ông cha ngày trước, thì nằm vào khoảng sao Dực sao Chẩn, kề sao Thuần Vỹ. Nói theo địa lý ngày nay, thì nằm giữa Vỹ tuyến 12 và 13.
- Phía Bắc giáp tỉnh Phú Yên.
- Phía Nam giáp tỉnh Ninh Thuận.
- Phía Đông giáp Nam hải, chạy dọc theo bờ biển gần 120 cây số, sóng nước thương mang.
- Phía Tây dính liền vùng Cao Nguyên, giáp ranh tỉnh Darlac và Tuyên Đức, núi non trập trùng.
Hình thế thật là hiểm yếu. Núi rừng chiếm hết 15/16 của toàn tỉnh. Qua khỏi biên giới Phú Yên, núi Khánh Hòa mở rộng lên phía Tây và chạy xiên xiên theo hướng Tây Nam. Đến giữa Tỉnh thì quay lại lần lần xuống hướng Đông Nam gần sát biển. Do đó miền đất bằng, chiếm 1/16 diện tích, thon hai đầu và phình khoảng giữa, trông phảng phất một bầu rượu móp méo nhiều chỗ, để nằm khu trở vào Nam cổ xoay ra Bắc. Dưới chân núi Đại Lãnh, lắm nơi chiều rộng không quá một cây số. Vùng Ninh Hòa, Diên Khánh, Vĩnh Xương, nhiều chỗ rộng đến năm, sáu chục cây số. Đến gần ranh giới phía Nam, vùng Cam Lâm, lại thu hẹp lại còn từ mười đến mười lăm cây số.
Diện tích toàn tỉnh là 598.460 Mẫu Tây (Hectares). Trích giao cho Cam Ranh 55.275 Mẫu Tây. Còn lại 543.185 Mẫu Tây, tức 5.432 cây số vuông. Phong cảnh kỳ tú.
II. NÚI NONNúi non Khánh Hòa trùng trùng điệp điệp, nơi khúc nơi bàn, thế thật hiểm trở. Các nhà quân sự bảo rằng rất có lợi cho việc dụng binh.
A) NÚI ĐẠI LÃNH, TAM PHONGLàm chúa quần sơn Khánh Hòa là dãy Tam Phong cùng núi Đại Lãnh ranh giới cho Khánh Hòa và Phú Yên.
1) NÚI ĐẠI LÃNHNúi Đại Lãnh nằm giữa Phú Yên và Khánh Hòa. Chỉ cao 620 thước, nhưng hình thế hoành tráng vỹ đại. Chạy từ Tây xuống Đông sát biển, làm bức thành thiên nhiên cho hai tỉnh Nam Bắc. Nhờ có Đèo Cả mở đường vô ra mà Bắc Nam khỏi bị ngăn cách.
ĐÈO CẢ cao dưới 500 thước, dài trên 10 cây số, quanh co đoanh lộn giữa khoảng biển rộng non cao. Con đường Quốc Lộ số 1 chạy ngang qua đèo. Hai bên đầu đèo lại có hai hầm xe lửa, là hầm số 6 ở Phú Yên và hầm số 7 ở Khánh Hòa. Xưa kia trên đèo có trạm gọi là trạm Phú Hòa. Phong cảnh Đại Lãnh rất đẹp.
Núi cao chớm chở ở phía Tây. Biển rộng mênh mông ở phía Đông. Ngồi trên xe khi lên khi xuống, khi lộn khi quanh, nhìn lên đỉnh mây xanh, nhìn xuống vực sóng bạc, lòng chúng ta không khỏi hãi hùng. Nhưng nếu giữ được tâm hồn bình tĩnh, rộng con mắt, trải tấm lòng, thì chúng ta hưởng được nhiều hứng vị.
Nhìn xuống Đông thì:
Lặc lìa biển trải cỏ xanh,
Lô nhô sóng bạc trỗ cành hoa tươi.
Vườn hoa bướm lượn thảnh thơi:
Gió đưa buồm trắng ra khơi chập chờn.
Còn trông lên phía Tây lại:
Cheo leo đá núi xây thành,
Đầu cây mây trải, chen cành suối tuôn.
Biển khơi nước chẳng quên nguồn,
Gành xa sóng vỗ tiếng luồn trong hoa.
Dừng chân đứng lại trên nơi cao nhất và rỗng nhất, trông vào Nam, thấy Tu Bông Vạn Giã, thì chúng ta không sao quên được câu hát của khách đa tình buổi trước:
Bước chân lên Đèo Cả,
Trông sang Vạn Giã,
Ngó lại Tu Bông,
Biết rằng cha mẹ đành không,
Anh chờ em đợi uổng công hai đàng.
Hoặc lời khẳng khái của những người biết trọng di luân:
Con ngựa tía ăn quanh Đèo Cả,
Bóng trăng rằm sắp ngả về đông.
Chẳng thà giục mã về không,
Chớ không thèm cướp vợ tranh chồng người ta.
Nếu chúng ta ngoảnh trông ra Phú Yên, chúng ta có thể mường tượng quang cảnh mả ông Cao Biền ở trong câu hát tình tứ:
Bước lên Đèo Cả,
Thấy mả ông Cao Biền.
Thấy đôi chim hạc đương chuyền nhành mai.
Phong cảnh Đại Lãnh vừa tú vỹ vừa hữu tình, nên được liệt vào danh thắng Việt Nam thật xứng đáng. Năm Minh Mạng thứ mười bảy (1836), vua sai thợ chạm hình Đại Lãnh vào Tuyên đỉnh là một trong chín đỉnh đồng to lớn để trước sân Thế Miếu ở Thần Kinh. Và năm Tự Đức thứ sáu (1853) Đại Lãnh được liệt kê vào Từ Điển. Đó là một vinh dự lớn, không phải danh sơn nào cũng được dự phần.
Theo Đường Thư Hoàn Vương Truyện, thì núi Đại Lãnh là núi Đồng Trụ.
Sách ấy chép rằng: « Vua Lâm Ấp đại bại chạy qua Đại Phố, phía Nam Châu Đà Lãng (tức Đà Rằng ở Phú Yên). Ở đó có núi Ngũ Đồng Trụ, sườn phía Tây liền với gò đống ngổn ngang, sườn phía Đông giáp biển khơi. Nơi núi nầy xưa kia Mã Viện đã trồng trụ đồng vậy ».
Nhưng xét kỹ thì Mã Viện chưa từng đến đây. Bởi đời nhà Hán, vùng Phú Yên Khánh Hòa thuộc về nước Lâm Ấp. Mà suốt đời Mã Viện chưa cầm quân đánh Lâm Ấp lần nào. Năm Quí Mão, tức là năm 43 Tây Lịch, Mã Viện đem quân sang đánh Hai Bà Trưng và cướp lại đất Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố cho Trung Hoa. Những đất nầy nằm từ đèo Hải Vân trở ra. Truyền rằng sau khi thắng trận, Mã Viện dựng trụ đồng khắc sáu chữ dọa nạt đồng bào ta: « Đồng trụ chiết, Giao Chỉ tuyệt ». Đồng bào đi qua lại, gai mắt lấy đá ném vào chân trụ, lâu ngày đá chồng thành núi, lấp mất trụ « ai ấy chép công ta chép oán, công riêng ai ấy oán ta chung ». Cho nên ngày sau không biết trụ trồng nơi nào. Nhưng chắc chắn không thể trồng ở Đại Lãnh được. Bởi Mã Viện không thể vượt non vượt biển vào dựng cột đồng trong một nơi không liên quan đến công việc đánh cướp của ông ấy. Người đời Đường ngồi bên Trung Quốc viết chuyện Việt Nam thời nhà Hán thì không sao trúng được, bởi không gian đã cách xa, thời gian cũng cách xa trên bảy thế kỷ (Nhà Đường đánh Hoàn Vương năm Mậu Tý 808).
Tuy vậy, đến ngắm cảnh Đại Lãnh mà biết thêm được một chuyện đời xưa « nói có sách » để kể cho nhau nghe, thì cũng là một cái thứ gia vị cho thú du quan.
2) NÚI TAM PHONGNúi Tam Phong nằm phía Tây núi Đại Lãnh. Ở giữa Đại Lãnh và Tam Phong có núi Gian Nan tục gọi là núi Cục Kịch, trên núi có đèo, thế núi rất hiểm trở. Núi gọi là Tam Phong vì có ba ngọn núi cao vút mây đứng trên một căn đế:
- Ngọn cao nhất tên là Trấn Sơn tục gọi là Hòn Giữ (1.264 thước).
- Ngọn thứ nhì nằm phía Đông Hòn Giữ, tên là Hoành Sơn tục gọi là Hòn Ngang (1.128 thước).
- Ngọn thứ ba nằm phía Nam Hòn Ngang, tên gọi là Hộ Sơn tục gọi là Hòn Giúp (1.127 thước).
Chung quanh có nhiều núi non triều cũng khí thế thật là hùng.
Năm Ất Mão (1795) Trần Quang Diệu vây thành Diên Khánh. Nguyễn Ánh đem quân cứu viện, sai Tống Viết Phước giữ Đại Lãnh, Võ Văn Lượng đóng đồn ở núi Cục Kịch, để chận đường tiếp viện của Tây Sơn và đường rút lui của Trần Quang Diệu. Nguyễn Ánh từ Nha Trang đánh lên.
Trong khi Trần Quang Diệu đánh cùng Nguyễn Ánh thì ở Phú Xuân có nội biến. Để cứu nguy trong nội bộ, Trần Quang Diệu phải bỏ thành Diên Khánh rút quân về Phú Xuân. Đường biển và đường đèo đều có quân nhà Nguyễn ngăn chặn, việc rút binh không phải dễ dàng. Nhắm mặt đèo Cục Kịch, đèo Cả tuy binh đóng giữ không đông bằng mặt biển Nha Trang, nhưng núi non hiểm trở, vượt khỏi bức tường thành thiên nhiên do những ngọn Tam Phong, Gian Nan, Đại Lãnh kết hợp, phải hao tổn nhiều binh tướng, Quang Diệu bèn đánh mạnh xuống mặt biển, mở trùng vây mà ra.
Và suốt mười năm chống Pháp, Nghĩa binh đã tiêu diệt lực lượng địch tại những vùng núi nầy rất nhiều phen. Sau Hiệp Định Genève, đi ngang qua Đại Lãnh, du khách còn trông thấy những xe tăng thiết giáp của địch bị phá hủy nằm ngổn ngang dưới chân đèo và hai bên hố. Hùng khí ngất trời!
Trước kia dãy Tam Phong là dãy núi cao nhất tỉnh Khánh Hòa. Nhưng từ khi mở thêm quận Khánh Dương, thì núi Tam Phong phải nhượng núi Mẫu Tử vì núi nầy cao gần gấp đôi.
B) MẪU TỬ, NÚI KHÁNH DƯƠNGNúi Mẫu Tử tục gọi là Mẹ Bồng Con, cao 2.051 thước, nổi bật lên trên hàng trăm ngọn núi bao quanh. Núi tuy cao, nhưng sườn không dốc. Đỉnh núi có phần bằng phẳng và không cây cao. Một tảng đá xanh lớn đến bảy tám ôm và cao có trên 15, 17 thước, đứng sừng sững giữa trời, quanh năm thường có mây quấn quít. Một tảng đá thứ hai, cao, lớn bằng nửa, đứng sát bên cạnh. Xa trông hình dạng phảng phất một người đàn bà đứng với một đứa con. Do đó núi mệnh danh là Mẹ Bồng Con. 1
Khách hàn mặc gọi là Mẫu Tử Sơn và người Pháp gọi là La Mère et l’enfant. Trong tiếng Hán Việt và tiếng Pháp không có chữ « bồng ». Trên thực tế « Mẹ » cũng không « bồng » mà chỉ « dắt ». Có lẽ để cho tình Mẫu Tử thêm nồng nàn khắng khít, cổ nhân thêm chữ « bồng » vào làm nhấn 2. Tiếng « Mẹ bồng con » nói lên nghe âu yếm quá!
Chung quanh « Mẹ bồng con » còn nhiều hòn đá to lớn nằm ngổn ngang. Có nhiều hòn trông rất ngoạn mục. Theo óc tưởng tượng của người xem, thì đây là « Rổ may với sợi chỉ thòng xuống đất », kia là « cối đâm, chày, sàng, chổi… », nọ là « con nghĩa khuyển nằm trông con gà cồ đương lẩn quẩn bên cối xay », v.v… Lại có một tảng vuông, trên mặt nổi lên nhiều núm đá tròn tròn nho nhỏ. Người ta bảo đó là « bàn cờ tiên mới dàn quân, nhưng mất hết một con tốt ».
Truyền rằng đá « Mẹ bồng con » xưa kia là người, và những đá chung quanh là đồ dùng và thú nuôi trong nhà.
Nguyên hai vợ chồng chán cảnh rộn rịp nơi dân gian, bèn đem nhau lên núi ở. Đến ở được bốn năm, sanh được đứa con 4 tuổi. Một hôm một người bạn cũ tu tiên đắc đạo tìm đến thăm hai vợ chồng. Chủ khách mừng rỡ. Vợ lo sửa soạn tiệc rượu đãi khách, chồng ngồi nghe bạn giảng phép tu tiên.
Khách nói: « Muốn cầu tiên thì phải đốt trầm hương mà khấn. Hương trầm đưa lời cầu nguyện lên cung Tam Thanh. Chư tiên đón lấy mùi hương đưa qua mắt mũi thì biết ngay người cầu nguyện cùng ý nguyện của người cầu ».
Chủ nhân hỏi: « Trầm hương tìm ở đâu ra »?
Khách đáp: « Ở trong vùng núi non nầy, trong phạm vi nghìn dặm đều có. Nhưng muốn tìm trầm phải ngậm ngải mới giữ được thân ».
Nói xong đưa ra một gói nhỏ và bảo: « Gói ngải nầy tôi mất bao nhiêu năm mới luyện được. Tôi đến đây trước thăm cố nhân, sau vào thâm sơn tìm trầm để cầu Thiên Tiên truyền phép trường sanh bất lão ».
Chủ nhân nghe nói, lòng ước ao được bái yết chư tiên. Và để bạn thêm vui, bèn bày bàn cờ ra đánh. Nhưng quân cờ vừa dàn xong thì trong nhà nghe tiếng gọi. Chủ nhân vội vào nhà trong. Khách ngồi nắm bộ cờ: tất cả đều bằng ngà sanh, duy có một con tốt bằng ngọc bích. Khách giật mình tự nhủ: « Bộ cờ này trong thế gian có thể có. Nhưng viên ngọc bích nầy là vật hi hữu nơi thế gian ».
Đoạn cầm lên ngắm nghía và khen thầm: « Không có mảy may tì vết. Nếu đem dâng cho Lão Tổ thì tất được ban ân ». Liền giấu con cờ vào tay áo.
Vừa lúc ấy tiệc rượu bưng ra. Cuộc cờ tạm gác lại, chủ khách cùng nâng chén chung vui.
Khách vốn chay lạt lâu ngày, gặp rượu thịt thì hứng khẩu. Hết chung cạn đến chung đầy, và say lúc nào không biết, khách ngã xuống chiếu ngủ, tiếng ngáy như sấm. Chủ nhân ngồi nhìn khách chợt nhớ câu chuyện trường sanh. Thấy khách ngủ say, bèn thò tay vào bọc khách lấy gói ngải, rồi lẳng lặng ra đi…
Khách ngủ vùi đến hai ngày đêm mới tỉnh dậy. Rờ vào bọc không còn thấy gói ngải. Nhìn khắp nơi lại không thấy chủ nhân ông. Hỏi, người vợ đáp rằng bỏ đi đã hai hôm. Khách thất kinh vội băng ngàn đi kiếm.
Khách nhảy từ đầu núi nầy sang đầu núi nọ, phóng tầm mắt tìm khắp bốn phương. Núi non trùng điệp, tuyệt nhiên không một bóng người! Lòng vừa giận vừa lo, bồi hồi hoảng hốt, khách bỗng sẩy chân rơi xuống núi Tịnh Sơn vùng Sơn Hòa (Phú Yên), bỏ mạng.
Con tốt trong túi khách văng ra thành đá, và xương thịt khách biến thành những cây cổ thụ đứng che hòn đá Con Cờ.
Còn người chồng ra đi, ngậm ngải tìm trầm. Nhưng trầm không tìm thấy mà tháng ngày chỉ thấy rừng núi thâm u. Lòng muốn trở về, song không thấy đường lui mà chỉ thấy đường tới. Năm nầy sang năm khác ; ngải nơi miệng lần lần tan hết, và lần lần thân mọc đầy cả lông. Rồi một hôm hóa thành con cọp xám, gầm lên mấy tiếng, quay đầu chạy về chốn cũ tìm vợ con.
Nhưng khi về đến nơi thì cảnh xưa đâu còn thấy nữa!
Vợ con ở nhà trông chồng trông cha mỗi ngày một vắng! Lệ thảm tuôn thành suối khe và thân nắng mưa hóa thành đá. Những vật dùng vật nuôi cảm tình chủ mẫu cũng hóa đá theo hai mẹ con.
Đối cảnh thương tâm, hổ gầm hét vang cả rừng núi. Và để vơi bớt nỗi lòng, phá gãy hết những cây cổ thụ trên đầu núi. Đoạn bỏ đi vào rừng sâu. 3
Những dòng khe dòng suối do « nước mắt đau thương » tạo thành là nguồn của một số sông ngòi trong tỉnh và các tỉnh lân cận. Trong đó có một dòng suối, gọi là Suối Tiên, nước trong xanh và không bao giờ cạn. Nghe đồn nơi suối có đôi bạch nga bơi lội.
Truyền rằng đó là cặp ngỗng của người khách đem đến biếu hai vợ chồng người bạn. Vì đối với hai mẹ con chủ nhân, mối tình chưa thâm, nên hai con ngỗng không hóa đá để giữ niềm chung thủy. Nhưng vẫn cảm lòng thiết thạch của người tiết phụ, ngỗng đắm mình trong dòng lệ tương tư. Truyền rằng hòn Mẫu Tử rất linh thiêng:
- Trong thời Kháng Chiến chống Pháp, một tiểu đoàn Lê Dương đi hành quân, dùng hòn Mẫu Tử làm nơi tạm trú. Một tên lính tinh nghịch lấy mìn chôn dưới chân đá « Mẹ bồng con » mà đốt. Mìn nổ phá hủy cả một vùng cây đá mà « Mẹ bồng con » vẫn không chút hư hao. Nhưng tiếng nổ vừa im thì tên lính hộc máu chết.
- Cũng trong tiểu đoàn ấy, một tốp lính khác dùng lựu đạn ném xuống dòng Suối Tiên để bắn cá. Cá chết nổi lên mặt nước đầy đặc như lá thu rơi. Tốp lính vui mừng đua nhau lội xuống bắt. Bắt bỏ đầy mấy túi vải. Nhưng đem về trại coi lại thì toàn là củi mục, đá sỏi và lá khô! Liền đó tốp lính nghe trong mình ngứa ngáy khó chịu và vài hôm sau toàn thân sanh đầy lác, thuốc chữa không lành. Viên chỉ huy lấy làm kì dị, đến tận nơi điều tra, thì từ lòng suối một cặp thiên nga hiện lên mặt nước đứng kêu mấy tiếng rồi bay vút lên từng không.
- Và gần đây, thời Ngô đình Diệm chấp chính, Trung sĩ Lung, phụ tá Đại Đội Trưởng Đại Đội Dân Vệ quận Khánh Dương, đem một Trung đội đi hành quân trong vùng núi Mẫu Tử. Một Tiểu đội do Tiểu Đội Trưởng Y BLIC chỉ huy đi lạc vào núi. Đêm đông gió lạnh, trời lại tối như mực, Tiểu đội không biết ngõ nào mà ra. Y BLIC ra lệnh dừng quân. Chợt một con hổ nhảy ra gầm lên một tiếng như sấm dậy. Y BLIC nhả một tràng đạn tiểu liên và đoán chắc thế nào cọp cũng bị hạ. Cả Tiểu đội, súng lên cò, chầm chậm bước tới. Cả một vùng trước mặt vụt bừng sáng như trăng lên, và một ông già đầu tóc bạc phơ, râu dài quá rốn xuất hiện, quắc thước uy nghiêm. Mọi người đều hãi hồn, tay muốn rơi súng! Ai nấy đứng sững như trời trồng! Lão trượng không nói không rằng, lấy tay chỉ đường, rồi cùng ánh hào quang biến mất…
Vì hòn Mẫu Tử linh thiêng thế ấy nên người địa phương ít khi dám lên thấu đầu non.
Hòn Mẫu Tử ở cách quận lỵ Khánh Dương chừng 13 cây số về hướng Đông. Đi đường rừng thì mất nhiều thì giờ. Nhưng đi ô-tô theo con đường Liên Tỉnh số 9 thì chỉ mất độ nửa giờ, rồi đi bộ chừng 5 cây số đường rừng nữa là đến chân núi. Từ chân núi lên đến nơi « Mẹ bồng con », đi cho giỏi cũng mất đến nửa ngày. Bởi vậy khách đến Khánh Dương ít ai chịu khó đến xem « Mẹ bồng con » cho tận mặt. Mà đứng nơi quận lỵ nhìn sang, thì ít khi ngó thấy, nhất là mùa mưa, vì núi thường bị mây che.
Cho nên tất cả những gì ở trên hòn Mẫu Tử và chung quanh hòn Mẫu Tử đều do chỗ « bách văn » mà ra. Nhưng hòn Mẫu Tử vẫn là cảnh lạ trong đời như ngọn Khuông Lư của Thánh Thán. Và người chưa được xem tận mặt vẫn thích núi Mẹ Bồng Con của Khánh Dương.
Khánh Dương thuộc về Cao Nguyên. Cho nên núi mọc trên Khánh Dương dù thấp mấy, cao độ vẫn trên những ngọn núi trung bình ở bình nguyên, vì chiều cao tính theo mặt biển. Ở Khánh Dương ngoài hòn Mẫu Tử, còn nhiều ngọn cao độ trên nghìn thước. Như:
- Chử Ba Giam (1.720 thước)
- Chử Ninh (1.034 thước)
- Chử Bình (1.021 thước)
- Chử H’Mú (1.752 thước)
- Chử M’Ta (1.057 thước)
- Chử Prong (1.100 thước)
Nhưng tất cả đều không nổi danh, trừ Hòn Chử M’Ta.
1) CHỬ M’TA (1.057 thước)
Chử đọc là Cử. Tiếng Thượng nghĩa là Núi mà cũng là họ của một bộ lạc ở vùng Cao Nguyên. Còn M’Ta đọc là Mơ Ta, là Con mắt và tên một vị Thần có đôi mắt sáng như mặt trời mặt trăng.
Núi Chử M’Ta nằm phía Đông Nam quận lỵ Khánh Dương, chạy từ đèo M’Drac đến Trại Chăn Nuôi của Chánh Phủ. Cao độ của núi tuy trên nghìn thước, nhưng đứng nơi quận lỵ mà nhìn thì không thấy cao. Khí thế cũng không hùng hiểm. Song trông có vẻ « lầm lì » và « dữ » như người Thượng Sơn. Trên núi có nhiều cây to, nhiều thú dữ. Khách săn bắn cho biết rằng thỉnh thoảng có người gặp được trầm hương, trông thấy bạch tượng và chim đại bàng hình thù giống chim ưng song lớn gấp ba gấp bốn, liệu sức có thể tha được cừu con bò con. Núi lại có nhiều đá lớn, trong đó có một hòn trông giống đầu ông Khổng Lồ với đôi mắt mở trao tráo. Người Thượng gọi là « Đá Mắt Thần ».
Truyền rằng: chức Đầu Mục của bộ lạc ở núi nầy nằm trong tay họ Chử đã nhiều đời. Đến đời Chử Madrà thì trao sang họ khác.
Họ Chử vốn có sức mạnh hơn người, ăn ở lại cũng tốt hơn người. Cho nên đời nào cũng được toàn bộ lạc quí trọng. Cha Chử Madrà chết, để lại 10.000 con trâu, 5.000 con bò, 5.000 con dê và 100 con voi. Người trong bộ lạc bầu cử Madrà lên thay cha lãnh đạo bộ lạc. Madrà nhượng lại cho người khác để rảnh thì giờ lo việc báo hiếu cho cha.
Madrà bán một số voi, mua gỗ quí đóng quan tài liệm thi thể cha và cất một ngôi nhà vuông nhọn nóc để quàng linh cữu. Mỗi ngày hạ 12 con vật, nào trâu nào bò nào dê, để cúng cha và đãi bộ lạc. Còn bản thân thì ngày đêm nằm bên cạnh linh cữu mà than khóc. Ròng rã mấy mùa rẫy, ngày nào cũng hạ súc vật, ngày nào cũng khóc than. Thân thể của Madrà cũng như gia sản của Madrà mỗi ngày mỗi hao mòn. Cuối cùng nhuốm bệnh mù đôi mắt, thuốc thang không chữa khỏi. Chẳng bao lâu qua đời, để lại một người vợ góa và một đứa con côi năm tuổi.
Đứa bé là một em trai kháu khỉnh. Người mẹ lo làm lụng nuôi con. Một hôm đứa bé theo mẹ đi làm rẫy. Thình lình một con đại bàng, cánh rộng như hai đám mây, đáp xuống tha đứa bé lên núi. Đứa bé hết hồn nằm bất tỉnh. Đại bàng toan xé thịt đứa bé thì một con bạch tượng hiện đến, thét một tiếng dậy cả rừng núi. Đại bàng thất kinh thả đứa bé, cất cánh bay lên không trung. Đứa bé tỉnh dậy. Bạch tượng hiện nguyên hình là một lão trượng, râu tóc bạc phơ, đến vỗ về đứa bé: « Ta là ông nội con đây. Thần A Die vâng lệnh Trời trao trả cặp mắt của cha con lại cho ông và sai ông xuống cứu con, đồng thời ban cho con cặp thần nhãn là cặp mắt của cha con đã được thần luyện phép. Đó là do lòng chí hiếu của cha con cảm thấu lòng Trời, nên con được hưởng dư phước ».
Nói đoạn đưa tay móc cặp mắt của đứa bé và thay cặp thần nhãn vào. Rồi tiếp: « Cha con mãn lo việc báo hiếu mà quên đặt tên cho con. Nay ông đặt cho con tên là Chử M’Ta (Cử MaTa). Đôi mắt của con, ông sẽ đem về dâng thần A Die luyện phép để gắn vào cha con ».
Chử M’Ta tuy còn thơ ấu nhưng đã có trí khôn hơn tất cả mọi trẻ em đồng lứa. Nghe ông nói và được ông thay mắt, mừng rỡ liền làm lễ tạ ơn theo phong tục người Thượng. Lễ xong thì không trông thấy bóng ông nội. Đưa mắt nhìn quanh thì thấy ánh sáng thoang thoáng trên cây đá, ánh sáng phát từ đôi mắt thần. Liền đó nào voi nào hùm, nào nai nào vượn… kéo đến phủ phục chung quanh. Chử M’Ta biết ngay rằng nhờ thần nhãn ông nội vừa trao mà mình được làm chúa cả mọi vật trên rừng núi. Bèn ra lệnh cho hùm beo không được sát hại dân lành, voi nai không được phá hoại bắp lúa, vượn khỉ mỗi ngày thay phiên nhau đem trái cây nước suối đến dâng. Đoạn cho các thú trở về rừng sâu, chỉ giữ một con voi già để đỡ chân và làm bạn.
Sau khi các thú giải tán hết, Chử M’Ta cỡi voi xuống núi. Mẹ con gặp gỡ mừng quá đỗi mừng. Và cả bộ lạc nghe tin kéo nhau đến hỏi thăm sức khỏe. Trông thấy thần thái của Chử M’Ta sáng rỡ và nghe chàng kể chuyện lại, ai nấy cũng tỏ lòng hâm mộ và cung kính như một vị thần.
Thấy vậy, viên đầu mục sợ bộ lạc bỏ mình theo Chử M’Ta bèn tìm cách hãm hại. Chử M’Ta biết được liền đem mẹ lên ẩn trên non cao. Sống cùng sơn thú, Chử M’Ta vẫn không quên nòi giống nơi nhân gian. Những khi dưới buôn có bệnh tả, bệnh dịch hạch, hai mẹ con liền vào rừng hái thuốc đem xuống chữa. Lại thêm từ khi chàng làm chúa sơn lâm, thì hổ hoạn dứt, rẫy bái không bị hư hao. Cho nên các bộ lạc trong vùng hết lòng ngưỡng đức.
Cảnh thái bình kéo dài được trên vài mươi mùa rẫy, thì thình lình mưa gió nổi dậy tứ phương. Mưa mỗi lúc mỗi to, gió mỗi lúc mỗi lớn. Không mấy chốc nhà cửa sập hết, cây cối gãy hết, và nước dâng lên đến nửa núi! Nhân dân lớp chết đuối, lớp ngoắc ngoải trôi. Thú vật trên non, tuy nhờ hang hóc che chở, nhưng mười phần cũng chết quá năm. Duy dãy núi Chử M’Ta ở, nhờ thần nhân hộ trì, không có một gốc cây ngã, một con cầm con thú nào chết. Song đứng trước cảnh thương tâm, Chử M’Ta không thể ngồi yên mà ngó. Bèn đốt hương cầu thần A Die xuống phước cứu dân. Thần A Die hiện vào chiêm bao, phán: « Hỡi con dòng hiếu thảo! Ta cảm lòng nhân đức của nhà ngươi. Song mệnh Trời khó thay. Nhà ngươi nên thận trọng kẻo bị Trời phạt ».
Mặc dù đã có lệnh ngăn cấm, Chử M’Ta không thể để đồng bào bị sóng gió phũ phàng. Chàng ra lệnh cho bầy voi xuống vớt. Hàng nghìn thớt voi toan thi hành mệnh lệnh, thì một tiếng sét nổ vang trời. Bầy voi thất kinh chạy tản vào núi. Đồng thời người mẹ ngã ra chết cứng, và Chử M’Ta lăn nhào hóa thành hòn đá tròn trịa với đôi mắt mở to.
Đó là Đá Mắt Thần hiện còn trên núi. Từ đó núi mang tên Chử M’Ta, tức là Núi Mắt Thần hay là Hòn Mắt Thần của họ Chử. Đá rất linh. Những khi có thời khí hoặc thiên tai hạn hán… người địa phương hướng về núi M’Ta mà cầu đảo. Thường được linh ứng, nên nhân dân rất tin thờ, không ai dám xâm phạm.
Núi Chử M’Ta nằm phía Nam đường Quốc Lộ 21, cách quận lỵ Khánh Dương chừng ba bốn cây số. Nằm về phía Bắc Quốc lộ và cách quận lỵ cũng chừng ba bốn cây số còn có Chử Kroa cũng rất có danh trong quận.
2) CHỬ KROA (570 thước)
Người Việt đọc là Cử-Cờ-Rua. Núi thấp hơn Chử M’Ta trông không được hoành tráng, song cây cối sầm uất, phong cảnh rất thâm u. Trên núi có một tảng đá cao lớn phi thường nằm giữa đám cổ thụ sống hàng nghìn tuổi. Chung quanh đá chất chập chồng thành vồng thành đống, và trổ hang trổ hóc, nhiều nơi chứa được cả voi. Hòn đá không lồ kia tên là KLÉ-LAK. Đó là hòn đá Thần. Người Thượng coi như thần linh. Truyền rằng:
Xưa kia nơi đá Thần Klé Lak (Cờ Lê Lắc) là vương cung của vị chúa tể núi Chử Kroa (Cử Cờ Rua): Một con mãnh hổ thân lớn như con bò mộng, mắt sáng như hai cây đuốc, lông xám tro. Tục gọi là Cọp Nhang, vị Chúa Rừng (Nhang là tiếng Thượng, tên một vị Thần tối cao của người Rhadé. Cọp Nhang là Cọp Thần).
Cọp Nhang vốn dòng họ Y. Cha là Tù Trưởng bộ lạc núi Chử Kroa, tên là Y Nang, sanh được hai trai. Con cả là Y D’Ric. Con thứ là Y D’Rang. Y D’Ric dưới con mắt thế gian thì là con của Y Nang. Nhưng sự thật là con của Ma Lai, một vị hung thần, mình người, đầu hổ, tay chân vượn. Vợ Y Nang chiêm bao cùng thần hoan lạc mà thụ thai. Vì vậy tướng mạo của Y D’Ric rất hung tợn, lại có sức mạnh đánh ngã bò đực, và lên núi, trèo cây dễ dàng như đi trên đất bằng. Chàng ỷ thế, cậy sức, thường làm nhiều điều bạo ngược. Người trong bộ lạc đều ghét, nhưng không dám kiện cùng Y Nang.
Trái lại, Y D’Rang dung nghi anh tuấn, tánh tình thuần lương. Tuy có sức mạnh địch muôn người và có tài bắn ná trăm phát trăm trúng, Y D’Rang không bao giờ thi tài đua sức với một ai, và không bao giờ nói nặng lời cả với đứa bé ngỗ nghịch. Đối với anh, chàng luôn luôn tỏ thái độ cung kính nhường nhịn, mặc dù anh thường có những hành vi không lành, những cử chỉ không đẹp đối với người trong bộ lạc cũng như với chàng.
Y Nang, tuổi già sức yếu, muốn nhường chức Tù Trưởng cho Y D’Rang, nhưng lại sợ con trưởng tranh giành, sanh chuyện rắc rối cho gia đình và bộ lạc. Để cho toàn thể bộ lạc chọn lấy người lãnh đạo theo ý muốn phần đông. Y Nang bèn vật trâu mổ dê… mở đại hội.
Đương lúc tiếng trống tiếng cồng vang dội, thịt thui rượu cần thích khoái, thì trên núi cao bò xuống một con mãng xà to lớn phi thường. Thân mình ôm đến hai người lớn, dài trên mười trượng, vảy rộng như bàn tay sè và sáng ánh như bạc, và đến bảy chiếc đầu với bảy lỗ miệng đỏ như bảy chậu huyết cắm bảy lưỡi độc nhọn hoắt và rung rinh. Ai nấy đều hết hồn, rùng rùng bỏ chạy. Riêng ba cha con Y Nang vẫn ngồi yên, đưa mắt nhìn trừng trừng con quái vật. Con bạch mãng xà bò đến chỗ để thịt rượu. Bảy chiếc đầu luân phiên nhau mổ thịt mà nuốt. Bụng no thò bảy đầu vào bảy vò rượu mà nút. No say rồi, bò đến một khoảnh đất rộng, nằm khoanh tròn, bảy chiếc đầu nghểnh lên nhìn ba cha con Y Nang một cách thân thiện. Y Nang đoán biết rằng thần xà đến để giúp đồng bào mình trong việc lựa chọn lãnh tụ, bèn gọi tất cả mọi người trở lại và truyền: « Đây là điềm tốt. Đây là ý Trời. Trong bộ lạc, bất kỳ trẻ già, hễ ai chiến thắng được bạch mãng xà thì được thay ta làm Tù Trưởng ».
Y Nang vừa dứt lời thì rắn vùng dậy, thét lên một tiếng dài lanh lảnh như tiếng kim khí kéo lên nhau. Trừ ba cha con Y Nang, ai nấy đều run lập cập. Không ai dám xông ra.
Y D’Ric liền rút giáo, chuyển thần lực nhảy đến giao chiến cùng mãng xà. Tay giáo vừa lanh vừa mạnh. Bảy chiếc đầu của mãng xà vừa đỡ vừa đánh vùn vụt như bão táp sóng tung. Mũi giáo chạm vào thân mãng xà tiếng kêu rảnh rảng, và những cái táp của mãng xà nghe đốp đốp, nếu chạm nhằm thì dứt nghiến cả thịt xương. Y D’Ric mạnh nhưng không dẻo bằng mãng xà, nên được nửa buổi thì lần lần đuối sức, bị đuôi mãng xà quật ngã xuýt vỡ đầu! Y D’Ric không đứng dậy nổi. Mãng xà lướt tới toan cắn thì một mũi tên bắn trúng ngay giữa ngực. Đó là mũi tên của Y D’Rang bắn để cứu anh. Một tiếng keng như tiếng kiểng vang dội. Mũi tên của Y D’Rang rơi xuống đất tà đầu, và con mãng xà bị đẩy lui trở lại, lõ bảy cặp mắt chói ngời nhìn Y D’Rang.
Biết rằng vảy mãng xà quá dày, giáo tên không thể đâm thủng. Y D’Rang bèn tự nhủ: « Phải bắn vào miệng với tên sống lá tẩm thuốc ».
Chàng liền nhử cho mãng xà hả miệng lướt tới. Chàng nhảy lui mấy bước, rồi bắn liên tiếp bảy phát vào bảy lỗ miệng mãng xà. Bị thương đau đớn, mãng xà không dám lướt tới nữa. Thuốc độc ngấm vào mình, mãng xà lăn lộn làm lở đất gãy cây, bụi mù trời gió chuyển núi. Sức lăn lộn mỗi lúc mỗi yếu dần. Rồi giãy giụa mấy cái thật mạnh, thân mãng xà cứng đờ, và nơi bảy lỗ miệng máu đen phun ra thành bảy vòi mực, tanh hôi nực nồng!
Ai nấy đều reo mừng. Tiếng chiêng tiếng trống nổi dậy. Và theo lời hứa của Y Nang, tất cả người trong bộ lạc đều hoan hỷ bầu Y D’Rang lên ghế Tù Trưởng thay cha.
Y D’Ric vừa xấu hổ vừa tức giận, bỏ làng chạy vào rừng sâu. Hung thần Ma Lai liền hiện xuống, biến Y D’Ric thành một con cọp xám và phong làm chúa tể vùng núi Chử Kroa. Y D’Ric đến ở tại vùng đá Klé Lak. Tất cả sơn thú lớn nhỏ đều phải đến hầu và cung phụng miếng ăn miếng uống. Đó là Cọp Nhang vậy.
Tuy đã trở thành chúa tể sơn lâm, Cọp Nhang vẫn không quên cái nhục của thân trước. Để rửa hận, bèn truyền cọp, beo, voi, gấu… theo mình xuống buôn của Y D’Rang quấy nhiễu. May nhờ có tên sống lá tẩm thuốc độc và tài thiện xạ của Tù Trưởng Y D’Rang mà bầy ác thú phải lui. Nhưng thất bại chuyến nầy, chúng lại phản công chuyến khác. Nhân dân không yên ổn làm ăn.
Để cứ vãn tình thế. Y D’Rang một mặt lo tích trữ vũ khí và rèn luyện vũ nghệ cho đồng bào, một mặt lo sửa đổi lại kiểu nhà cửa cho thích hợp với hoàn cảnh.
Tên sống lá tẩm thuốc trước kia chỉ một mình Y D’Rang biết chế tạo và biết sử dụng. Đó là một môn vũ khí rất nguy hiểm. Sợ đồng bào lạm dụng nên chàng không dám truyền. Nhưng đứng trước nạn thú dữ, không dùng đến không thể cứu được nguy, chàng đành phải đem ra phổ biến với điều kiện là đồng bào phải thề cùng Thần Linh chỉ được dùng để tự vệ.
Còn về nhà cửa thì từ xưa nhà người Thượng cất theo hình chiếc nón lá, vào ra chỉ một cửa. Nếu bị ác thú tấn công xâm nhập, người không có ngõ rút lui. Y D’Rang mới sáng kiến ra kiểu nhà sàn cao cẳng vừa tiện cho việc phòng thủ vừa tránh được thấp khí chốn sơn lâm.
Trước cảnh phòng vệ chu đáo, Cọp Nhang đành chịu thua. Và từ ngày Cọp Nhang tới ở nơi Klé Lak, nhân dân trong vùng không ai dám qua lại. Thành ra trên núi dưới buôn, bên nào ở yên bên nấy.
Cọp Nhang sống một cách « đế vương ». Các sơn thú luân phiên nhau đến hầu hạ. Từ miếng ăn thức uống đến chỗ nghỉ chỗ ngơi của vị chúa tể sơn lâm đều được « bá quan » chăm non cẩn thận, không hề sơ xuất nhất hào.
Nhưng trời bỗng trở lạnh, lạnh đến cực độ. Nước khe suối đều đọng thành giá. Những cầm thủ nhỏ đều chết cóng. Bầy tôi không thể tìm ra mồi để dâng, Chúa rừng Cọp Nhang phải « ngự giá » đi tìm lấy mồi. Chúa tôi đi được một chặng đường thì thấy một bầy bạch tượng đang giãy giụa trong lòng suối nước đá. Bầy cọp beo theo « hầu ngự » phấp phới mừng thầm. Nhưng Cọp Nhang ra hiệu đứng yên, vì biết rằng bầy voi lâm nạn không phải « hạng dân dã tầm thường ». Đó là bầy voi thần được Chúa Tể Sơn Lâm toàn quốc sai đi kiểm soát « đồng bào voi » trên dãy Trường Sơn. Cọp Nhang liền ra lệnh cho đám tùy tùng hết sức đào nước đá cứu bầy bạch tượng. Đoạn rước về « vương cung ».
Một con voi bị lạnh lâu quá, kiệt sức, lăn đùng ra chết. Con voi bạc phước ấy là con của Voi Chúa Đàn. Bầy voi thương xót, đứng xây tròn quanh tử thi, kêu rống thảm thiết. Đoạn đào lỗ chôn cất cạnh hòn Clé Lak.
Trời càng ngày càng rét thêm. Cọp voi nhiều con chịu đói chịu rét không nổi đã tắt thở. Chúa đàn Bạch Tượng bàn cùng Cọp Nhang làm lễ cầu đảo. Không biết lấy gì làm tế vật, hai vị chúa đành lấy thịt nơi đùi mình mà dâng. Lòng thành thấu đến Thiên đình, Thượng Đế liền sai thần Yang H’Ruê (Giang Hắt Ru Ê) xuống núi Chử Kroa làm phép cho gió ấm nước đá tan. Vạn vật hồi sinh. Bầy Bạch tượng liền từ giã Cọp Nhang, lên đường.
Qua năm sau, nhớ ngày thần Yang H’Ruê giáng trần cứu nạn, Cọp Nhang chuẩn bị làm lễ tri ân. Để buổi lễ được long trọng và để đủ đãi tất cả các sơn thú vùng Chử Kroa, Cọp Nhang ra lệnh cho cọp beo trên núi phải xuống buôn bắt gia súc.
Không nhịn thua, Y D’Rang huy động toàn dân trang bị cung tên giáo mác, kéo ùa nhau lên núi Chử Kroa… Cọp Nhang cùng sơn thú đương quây quần chung quanh hòn Klé Lak để dự lễ, thì bị nhân dân đánh úp thình lình. Không kịp « trở tay », đoàn sơn thú thất kinh, rối loạn, lớp bị giết, lớp bị đồng loại giày xéo, thây chất ngổn ngang. Cọp Nhang cũng bị tên thuốc độc mà chết.
Trong khi sơn thú đương bị tàn sát thì thình lình bầy bạch tượng đến cứu nguy. Đó là bầy bạch tượng thần năm trước. Đi « công cán » xong trở về, ghé thăm mộ voi con, tình cờ gặp lúc ân nhân ngộ nạn. Bầy bạch tượng thét lên một tiếng long trời lở đất. Nhân dân thất kinh bỏ chạy trở lui. Một số dã thú nhờ vậy mà sống sót. Nhưng khiếp đảm vì trận tấn công bất ngờ, chúng không dám xuống buôn quấy nhiễu nữa.
Còn hòn đá Klé Lak, sau khi Cọp Nhang chết, khí thiêng nhập vào trở thành thần linh. Nhân dân địa phương không dám xâm phạm.
Và tại núi Chử Kroa, thỉnh thoảng người địa phương trông thấy bóng bạch tượng. Truyền rằng đó là sứ giả của chúa đàn Bạch Tượng sai về viếng mộ con.
Một ông bạn thợ săn kể lại rằng: « Lúc tôi làm việc ở Đồn M’Drack thời Pháp thuộc, một bận đi bắn ở Chử Kroa trông thấy một bầy voi lớn có nhỏ có. Chúng đứng quanh một tảng đá lớn, đầu chấu vào nhau và cúi gục xuống đất, miệng buông ra những tiếng « bầm bầm, bun bun » như tiếng trống chầu tiếng chiêng đồng gióng đòi lúc tế thần. Tôi không hiểu chúng làm gì, đứng xem hồi lâu rồi lặng lẽ xuống núi ».
Những câu chuyện nghe hoang đường nhưng lý thú. Chính những chuyện hoang đường mà lý thú ấy đã làm cho núi Chử Kroa nổi danh, và quyến rũ khách du quan hơn là những ngọn núi cao chỉ có đại bàng và loài bò sát tới được đỉnh.
Quận Khánh Dương là nơi ma thiêng nước độc. Thời nay cũng như thời xưa, những công chức nào bị đổi đến phục vụ thì đều coi như « bạc phước ». Có ngờ đâu trong nơi « cùng cư » lại có những câu chuyện ly kỳ làm gia vị cho những ngọn núi tráng tú.
Chẳng những thế mà thôi, Khánh Dương còn là nơi xuất phát sơn mạch nhiều dãy núi của Khánh Hòa, và nối liền núi Khánh Hòa với vùng Cao Nguyên.
C) NHỮNG NGỌN NÚI CAO TRÊN 1.000 THƯỚC1) NÚI KHÁNH HÒA
Ngoài những ngọn núi ở Khánh Dương và ở dãy Tam Phong, còn nhiều ngọn cao trên 1.000 thước. Kể từ Bắc vào Nam:
- Vạn Ninh có: Hòn Chảo (1.564 thước), Hòn Chát (1.519 thước), Hòn Đại Đa Đa (1.709 thước)
- Ninh Hòa có: Hòn Bà (1.361 thước), Hòn Long (1.339 thước), Hòn Giong hay Dung (1.290 thước)
- Vĩnh Xương không có ngọn núi nào cao đến 1.000 thước.
Ở Diên Khánh, núi cao hầu hết nằm ngoài ranh giới, dính liền với núi vùng Cao Nguyên và đều mang tên Thượng:
- Chử Grên (1.159 thước)
- Chử Tông (1.717 thước)
- Chử Toung (1.099 thước)
- Chử Ka Doung (1.783 thước)
- Chử Ron Giang (1.488 thước)
- Chử Bon Gior (1.479 thước)
- Chử Het Tiaha (1.466 thước)
- Chử Kanda (1.281 thước)
- Chử Luôn (1.553 thước) 4
- Hòn Gia Lo (1.812 thước)
- Hòn Giao (2.010 thước)
Những hòn núi cao ở Cam Lâm cũng dính liền với núi vùng Cao Nguyên và cũng mang tên Thượng:
- Se Gai (1.128 thước)
- Ba Koum (1.403 thước)
- Ta Lô (1.304 thước)
- Ma Rai (1.356 thước) 5
Những ngọn núi nầy tuy cao lớn, nhưng trông không hùng dũng, không có dáng chọc trời khuấy mây. Nhìn kỹ thấy đượm vẻ hiền hòa an lạc. Phần nhiều không nổi danh.
Trong các sách Dư Địa Chí của người xưa, như Đại Nam Nhất Thống Chí, Phương Đình Dư Địa Chí… không thấy chép. Ngoài nhân gian cũng ít người biết. Nếu không nhờ những họa đồ của người Pháp ngày trước và người Mỹ ngày nay thì hầu hết người Việt Nam trở thành người ngoại quốc đối với đất nước thân yêu.
Trong số núi cao thượng dẫn, được thường nhắc nhở là Hòn Chảo ở Vạn Ninh và Hòn Bà ở Ninh Hòa. Nhưng được nhắc nhở không phải vì cao, mà tại có những điểm đặc biệt.
2) HÒN CHẢO
Nằm phía Tây Bắc Vạn Giã thuộc xã Vạn Hưng. Hình thù cao lớn. Chung quanh nhiều núi bao bọc, trước mặt núi thấp, sau lưng núi cao. Địa thế hiểm trở. Đỉnh núi lõm xuống thành lòng chảo. Do đó núi mệnh danh là Hòn Chảo. Người thường cho là cảnh trời sanh. Nhưng người tân học tin rằng đó là hòn hỏa diệm sơn đã nguội mà lòng chảo xưa kia là miệng hỏa sơn.
3) HÒN BÀ
Nằm phía Tây Nam quân lỵ Ninh Hòa, thuộc xã Minh Hưng cách chừng mười cây số đường thẳng. Đứng song song cùng hòn Long, theo hướng Tây Bắc Đông Nam. Chung quanh có nhiều núi triều ủng. Cây cối sầm uất. Có nhiều cây gió nên sản xuất nhiều kỳ nam trầm hương. Núi nầy được người địa phương coi là núi của bà Thiên Y A Na, nên gọi là Hòn Bà. Trên núi có miếu thờ. Những người đi điệu tức là đi tìm trầm, trước khi vào rừng, đều phải đem lễ vật đến miếu cầu khẩn. Người nào được Bà ban phước thì mới tìm ra trầm. Bằng không thì đi không cũng trở về không. Ngoài Hòn Bà và Hòn Chảo ra, còn một ngọn núi nữa tuy không nổi danh bằng, nhưng vẫn được nhắc nhở vì đã có người lên thấu đầu non. Đó là Hòn Giao ở Diên Khánh.
4) HÒN GIAO
Núi nằm sát ranh giới Khánh Hòa và Tuyên Đức, ở giữa đám quần sơn mây khói thâm u. Đỉnh cao nhất vùng. Mưa nhiều, lạnh gắt. Những lúc nắng ráo, thì hễ mặt trời vừa lặn là bắt đầu có sương. Sương xuống mỗi lúc mỗi dày, trông như mưa phùn, như hoa cải. Mãi đến khi mặt trời mọc, mới tan dần.
Núi mọc toàn ngo. Ở dưới thấp thì cây tươi tốt như ngo Dalat. Nhưng lên cao thì không cây nào lên quá hai thước năm. Thân hình lại u nầng khúc khỉu, cành gân guốc cong queo, lá lưa thưa và vàng vọt. Trông như những cây tùng trồng kiểng lâu năm.
Đây là một hòn núi đá. Song đá bị rêu phủ lấp hết. Lớp rêu dày có nơi đến hàng thước. Mỗi khi rủi trượt chân té ngã thì êm ái như ngã trên nệm mouse có ressort.
Chim rừng thú rừng, cả muỗi nữa, đều không có. Nếu khí trời được ấm áp thì ban đêm có thể ngủ ngay trên nệm rêu gữa trời.
Vì đỉnh núi cao trên 2.000 thước, nên ban đêm trông lên phía Tuyên Đức thì thấy ánh đèn điện thành phố Dalat, trông xuống Khánh Hòa thì thấy ánh đèn điện thành phố Nha Trang. Ánh sáng mờ mờ và thu hẹp lại một vùng bằng cái nong. Nhưng không phải đêm nào cũng trông thấy được. Muốn ngắm chơi cho thích thì phải đợi lúc không mưa và không sương. Những lúc nầy năm khi mười họa mới có. Cho nên được ngắm ánh đèn dưới thành phố là cái thú tuyệt thú của người vì phận sự phải ở trên Hòn Giao lâu ngày.
Phía Tây Hòn Giao về địa phận Tuyên Đức có người Thượng Gia Rích ở. Phía Đông về địa phận Khánh Hòa có người Thượng Gia Lách ở. Hai giống người nầy hiềm khích nhau tự nghìn xưa. Hễ người bên nầy sang bên kia, người bên kia sang bên nầy, thì thế nào cũng bị bắt giết để tế lễ. Nhưng gần mươi năm nay người Gia Lách được các nhà truyền giáo Tin Lành khuyên nhủ, nên mối thù truyền kiếp đã được giải tỏa lần lần. Và người Gia Rích, gần đây đã đến phần đất người Gia Lách để tránh đói rét.
Chính nhờ hai giống người Thượng nầy mà người Trung Châu lên đến Hòn Giao vậy.
D) NHỮNG NGỌN NÚI CÓ DANHCòn những núi cao khác chỉ có một số thợ rừng và một số chiến sĩ rừng xanh mới rõ hình thế và danh hiệu. Trái lại có nhiều ngọn núi cao dưới nghìn thước, lắm khi chỉ cao chừng một vài trăm thước, mà danh nổi chẳng những trong tỉnh mà còn bay tận phương xa. Như ở Vạn Ninh có:
1) HÒN TU HOA (728 thước)
Núi nằm về phía Tây Tu Bông (Vạn Khánh). Xưa gọi là Tô Sơn hay Hoa Sơn. Sau đọc trại chữ TÔ thành chữ TU và ghép chữ HOA vào thành TU HOA.
Núi có tiếng là nhiều gió. Nguyên tỉnh Khánh Hòa nhờ những dãy núi phía Tây và phía Bắc vừa cao vừa liền che ngăn, nên không bị ảnh hưởng gió Lào và gió Bấc, như Bình Định, Phú Yên. Riêng ở vùng Tu Bông, ở phía Tây và phía Tây Bắc có đôi nơi hạ thấp xuống thành thung lũng. Do đó gió Lào và gió Bấc lọt vào.
Gió Lào thổi về mùa hạ và thổi qua hòn Tu Hoa. Cho nên tục có câu « Gió Tu Hoa ». Gió Bấc thổi về mùa thu mùa đông và thổi qua thung lũng phía Tây Bắc. Nơi đó gọi là Eo Gió. Gió Lào cũng như gió Bấc đều thổi đến Tu Bông. Cho nên Tu Bông có tên là « Tụ Phong Xứ » nghĩa là xứ tụ gió. Gió thổi ào ào và thổi suốt ngày suốt tháng! Cho nên ở Tu Bông, ngoài câu phương ngôn « Gió Tu Hoa », và tiếng « Eo Gió », còn có câu hát rằng:
Gió đâu bằng gió Tu Bông,
Thương ai bằng,
Thương cha, thương mẹ, thương chồng, thương con.
Người thục nữ Tu Bông có tấm lòng quí hóa như thế, nên khách nam nhi Phú Yên Bình Định thường tìm vào kết nghĩa trăm năm. Có nhiều người đã cùng Tu Bông nặng tình đôi lứa, nhưng còn ngại lòng mẹ cha nên có lời than thở:
Bước chân lên Đèo Cả
Trông vào Vạn Giã
Ngó lại Tu Bông…
Biết rằng cha mẹ đành không?
Anh chờ em đợi uổng công hai đàng…
Thật có thua gì thơ Quan Thư trong Kinh Thi Trung Quốc. Được thế có phải chăng nhờ ảnh hưởng gió Tu Hoa gió Eo Gió là những ngọn thuần phong sanh mỹ tục? Hòn Tu Hoa có danh nhờ Gió. Từ núi Tu Hoa vào Nam, đi quá Vạn Giã chừng bốn cây số tại thôn Xuân Tự xã Vạn Hưng thì có:
2) NÚI BỒ ĐÀ
Cũng gọi là Phổ Đà. Chỉ cao 292 thước. Hình phảng phất giống con voi trở đầu ra Bắc. Sườn núi chỗ lồi, chỗ lõm, trồi sụt, thấp cao, lên xuống không dễ. Bên cạnh về phía Đông Bắc có ngọn núi nhỏ gọi là núi Phiên Lê tục danh Dốc Thị. Con đường Quốc Lộ số 1 trổ ngang qua núi nầy. Bồ Đà và Phiên Lê là hai chị em. Núi tuy thấp nhưng hiểm trở, có thể dụng binh.
Ngày xưa nghĩa quân Cần Vương do anh hùng Trần Đường chỉ huy đã đóng tại Bồ Đà để giữ đèo Dốc Thị. Giặc Pháp không dám đến gần. Sau hai năm hao công sức, Pháp xin thêm viện binh. Đại binh Saigon kéo ra. Tên Việt gian Trần bá Lộc đem tiền của chức tước mua chuộc bọn mãi quốc cầu vinh. Biết được căn cứ quân sự của Nghĩa binh, y viên kéo dồn quân đến bao vây công kích. Nghĩa binh chống cự anh dũng. Nhưng súng hỏa mai, giáo sào, gươm, ná, không chống nổi cùng đại bác súng trường. Nên sau mấy trận thư hùng, nghĩa binh bị đại bại và anh hùng Trần Đường phải hy sinh.
Bồ Đà và Dốc Thị nổi tiếng nhờ chiến công oanh liệt của nghĩa binh Cần Vương tỉnh Khánh Hòa. Chung quanh Bồ Đà và Dốc Thị còn nhiều núi chung một sơn mạch. Thường được nhắc nhở: phía Bắc có Núi Chùa, phía Nam có Núi Quán.
Núi Chùa thấp và không có gì đặc sắc, ngoài một ít dấu thành lũy của Chiêm Thành. Có danh là nhờ ở gần đàng Quốc lộ số 1 ngày nay và đường Thiên Lý ngày xưa. Kẻ qua người lại mượn làm cái tiêu cái đích cho dễ nhớ, dễ nói năng.
Gọi là Núi Chùa vì xưa kia trên núi có chùa thờ Phật 6. Được liệt vào hàng danh sơn là Núi Quán, tên chữ là:
3) NÚI MỸ NGỌC
Có tên nữa, là Núi Dàn, cao 473 thước. Phía Tây núi non trùng điệp. Phía Đông và phía Nam, gò đống ngổn ngang chạy từ chân núi đến Hòa Huỳnh, liền nhau như những nấm mồ trong nghĩa địa, nấm to nấm nhỏ, nhiều nấm tròn, cũng có nấm hình dáng không đều đặn.
Để hình dung cảnh tượng, cổ nhân dùng bốn chữ « Thác lạc thùy châu ». Nghĩa là một chuỗi hạt châu rơi rụng lòng thòng. Và để ca tụng quang cảnh ngoạn mục lúc đăng sơn, cổ nhân dùng tên Mỹ Ngọc tặng cho núi.
Người bình dân gọi là Núi Quán vì xưa kia có một thiền sư đến cất am tu trên núi, và để giúp đỡ những hành khách lỡ đường, che một cái quán dưới chân núi, cạnh đường vô ra.
Còn vì sao gọi là núi Dàn thì không ai biết rõ. Có người giải thích rằng vì trước núi gò đống dàn bày nghênh ngang ra vậy. Đó chỉ là cượng giải mà thôi.
Những gò đống dưới chân núi bị đường Quốc Lộ 1 chia làm hai nhóm.
Nhóm phía dưới hình dáng trông đều đặn hơn nhóm phía trên và liền chân nhau thành một hàng dài từ Bắc vào Nam dọc theo đường Quốc lộ. Tất cả có chín nổng: Tục gọi Chín Cụm. Khách văn chương gọi là Cửu Phong Liên Đới và Cửu Lĩnh Minh Châu.
Núi Mỹ Ngọc cũng như núi Phổ Đà và các núi nằm dọc theo đường Thiên Lý, trước kia rất sầm uất. Nhưng từ thời chiến tranh bùng nổ, cây cối bị đốn gần hết. Núi trông trơ trụi khô khan, giảm hứng thú đi nhiều lắm.
Dãy núi nằm phía Tây núi Mỹ Ngọc (cũng thuộc xã Vạn Hưng) là dãy:
4) NÚI ĐÁ ĐEN
Cao 611 thước. Sắc đá đen như cháy. Có nhiều chướng khi và thỉnh thoảng có mây đen trong đá bay ra.
Trên núi có dấu thành lũy của Chiêm Thành, tục gọi là Thành Hời. Trong phạm vi thành có miếu cổ do người Việt cất. Lâu đời đã hư nát. Dưới chân núi có một cái láng gọi là Láng Chu và một cánh đồng rộng, chung quanh núi bao bọc, gọi là đồng Xuân Sơn.
Vùng nầy xưa kia là bãi chiến trường. Oan khí tích tụ sanh ra quỷ quái. Truyền rằng những chiều âm u, những đêm trăng mờ gió lạnh, thường nghe tiếng khóc than, và thấy bóng ma thấp thoáng trong sương khói. Có người gặp ma cả ban ngày. Vì vậy không mấy ai dám đi qua núi một mình, nhất là lúc trời chạng vạng.
Phía Tây Nam núi Đá Đen và Núi Dàn, có hòn:
5) HÒN VUNG
Thuộc xã Ninh An nơi ranh giới quận Ninh Hòa và Vạn Ninh. Núi chỉ cao 326 thước và cách xa đường Quốc Lộ số 1. Thế mà từ Vạn Giã vào đến Ninh Hòa, vẫn trông thấy như chạy theo bên cạnh. Đó là do hình núi khác với « đồng bào » chung quanh. Núi chung quanh đều chạy theo hướng Bắc Nam hoặc Tây Đông, và dáng dài dài loại hình thang hoặc hình đa giác dẹp… Hòn Vung đứng thẳng và đỉnh nhọn chọt lên trời xanh. Nếu như lưng đen chỏm trắng thì giống hẳn chiếc nón lông chụp bạc của các thầy Chánh Tổng ngày xưa. Khi đặt tên, nếu gặp tay háo sắc thì nhất định núi mang danh là Nhũ Sơn. Còn nếu gặp khách thích văn chương thì làm gì cũng gọi núi là Bút Sơn vậy. Nhưng người Khánh Hòa vốn ưa thực tế, nên gọi là Hòn Vung. Phía ngoài có Hòn Chảo, phía trong có Hòn Vung. Trời đã khéo sanh, mà người cũng khéo đặt. Rõ là thiên ý nhân tâm. Đỉnh Hòn Chảo và đỉnh Hòn Vung đối trĩ nhau, bên chính Bắc, bên chính Nam, và cách nhau mười cây số đường thẳng. Dường như có sự sắp đặt của Hóa công. Hai núi nầy nếu ở Bình Định thì làm gì đồng bào ngoài nó cũng bảo là có bàn tay ông Khổng Lồ nhúng vào 7. Ở Khánh Hòa ông Khổng Lồ cũng có đến 8, song không nghe nói chuyện dời núi non. Cho nên có câu:
Khánh Hòa non nước trời sanh,
Xưa sao nay vậy đượm tình nước non.
Bước vào địa phận Ninh Hòa, nhìn về hướng đông, xa xa thấy một vùng núi chạy ra biển. Đó là:
6) NÚI PHƯỚC HÀ
Núi nằm phía đông quận lỵ, rộng hàng trăm dặm vuông, chạy ra biển thành một bán đảo xiêng xiêng về hướng Đông Nam, bề ngang trên dưới 10 cây số, bề dài trên vài chục cây số, ở trên địa phận ba xã Ninh Phú, Ninh Diêm, Ninh Phước.
Vịnh Vân Phong và vịnh Nha Phu vây quanh ba mặt. Từ trên mây ngó xuống, hình núi giống hệt ngón tay cái củ gừng của bàn tay mặt úp sấp. Đó là một phần quần sơn đứng trên một căn đế. Có trên mười ngọn, cao nhất là Hòn Hèo (819 thước) ở giữa, rồi đến hòn Tiên Du ở phía Tây Nam (777 thước) và hòn Phủ Mái Nhà (725 thước) ở phía Tây Bắc. Còn các ngọn khác ở phía Đông như Hòn Răng Cưa, Hòn Nhọn… thì cao dưới 500 thước. Vì Hòn Hèo cao nhất nên người địa phương dùng làm đại biểu cho toàn dãy, nên thường gọi Phước Hà Sơn là Hòn Hèo.
Núi Phước Hà có nhiều mây, nhưng nhiều nhất và lớn nhất là mây Hòn Hèo. Tại Hòn Hèo lại có thứ mây bông, tên chữ là hoa đằng, vừa to vừa thẳng. Đồng bào địa phương chặt về làm vật dụng, nhất là làm hèo. Do đó anh chị em bình dân mới gọi núi là Hòn Hèo, và khách hàn mặc đặt cho một tên văn vẻ là Hoa Đằng Sơn.
Tên Hoa Đằng Sơn cũng thường thay thế cho Phước Hà Sơn vậy. Vì Hòn Hèo có nhiều mây nên phương ngôn có câu: « Mây Hòn Hèo ». Hình thế núi Phước Hà rất kỳ mà cũng rất hiểm:
- Đứng tại Phước Sơn, thuộc xã Ninh Đa, ngó xuống thì hình núi giống hệt mái nhà ngói rêu phong, dáng trông hiền lành nhưng nghiêm nghị.
- Đứng ngoài Phú Thọ thuộc xã Ninh Diêm ngó vô, thì nơi lồi nơi lõm, hốc hỉu hô hê, hình dáng trông rất xấu xí và dữ tợn.
- Đứng tại Ninh Tịnh thuộc xã Ninh Phước trông ngược lên thì thế núi liền lạc hòa hưỡn, « cây chen đá lá chen hoa », quang cảnh trông thanh u nhưng có phần kỳ bí.
- Đứng ở Lệ Cam thuộc xã Ninh Phú mà ngó thì phong cảnh thật là tú mỹ. Dọc theo bờ biển Vịnh Nha Phu, đá ngổn ngang chồng chất, hòn to lớn, trăm dạng nghìn hình. Đây là Đá Tượng theo trí tưởng tượng của người ngắm cảnh mà hóa thành voi thành ngựa, thành vật nọ vật kia. Rồi tới Đá Vách dựng đứng như vách, cao trật ót và dài đến ba bốn cây số. Trên thì núi, dưới thì biển, muốn qua lại, người ta phải luồn vào « vách » mà đi.
Đó là ở mặt ngoài. Trên núi và trong núi hình thế rất kỳ dị và rất hiểm trở. Nghĩa binh Cần Vương đã nhờ thế núi mà cầm cự cùng đại binh Pháp hơn một năm trời.
Tại hòn Tiên Du có một hang đá rộng lớn như một cái nhà và có thể chứa ba bốn trăm người thong thả. Hang đá ở trên lưng chừng núi. Chung quanh có cây rậm đá to. Cảnh trí rất thâm u tĩnh mịch. Xưa kia có một thiền sư đến ở tu, nên hang trở thành chùa và tục gọi là Chùa Hang. Chính nơi đây là một trong những mật khu quân sự của Nghĩa binh Cần Vương tỉnh Khánh Hòa thời kỳ Pháp đến xâm chiếm nước Việt Nam. 9
Gần Chùa Hang lại có một tảng đá cực kỳ to lớn. Những lúc trời thanh, đứng ở Ninh Hòa nhìn xuống, thấy rõ sắc dạng nổi bật lên trên màu núi xanh. Mặt đá bằng phẳng, hình chữ nhật, dài trên dưới 70 thước tây, rộng trên dưới 50 thước. Đá nằm lài lài theo triền núi, nên tục gọi là Đá Trải.
Đứng nơi chùa Hang cũng như nơi Đá Trải, ngó xuống chân núi, phía Nam, thì thấy thôn Tiên Du, thôn Lệ Cam, cửa nhà chen chúc trong bóng cây màu khói. Vịnh Nha Phu thường mang sóng vỗ vào chân núi Phước Hà ở mặt Bắc và những gành những bãi ở mặt Nam. Bên kia vịnh, con đường hỏa xa, con đường Quốc lộ số 1, từ Ninh Hòa vào đến Lương Sơn, trông như hai con rắn bò song song qua những lùm cây chỗ thưa chỗ nhặt. Và vườn ruộng, núi rừng giăng bát ngát ở phía Tây và dọc theo hai con đường xe hơi xe lửa… Ngó lên phía Ninh Hòa, xóm làng thành phố nối liền nhau, khi ẩn khi hiện… Phong cảnh gần đời nhưng không tục.
Phước Hà liệt vào hàng danh sơn thật là xứng đáng vậy. Ở phía Bắc núi Phước Hà, trên một doi đất chạy xuống biển Vân Phong, đột khởi một cụm núi nhỏ, chỉ cao 155 thước, tục gọi là:
7) HÒN KHÓI
Dưới chân núi có đầm Đông Hải. Chung quanh đầm, về phía Đông, phía Tây, rải rác một ít gò đống. Cả vùng đều mang tên núi: Vùng Hòn Khói. Người Pháp gọi là Hone Cohé. Tên nầy do tiếng Hòn Khói đọc theo giọng Tây. Nhưng có thuyết bảo rằng nùi nầy tên chữ là Quế Sơn, tục gọi là Hòn Quế. Tây đọc trại là Hone Cohé. Thuyết nầy không được phổ biến. Còn tên Hòn Khói do đâu mà ra?
Truyền rằng thời Nguyễn Tây Sơn và Nguyễn Gia Miêu tranh hùng, Phúc Ánh thường đóng quân ở đây. Trên núi có trại canh. Hễ khi nào có địch tới thì đốt khói làm hiệu. Do đó núi mệnh danh là Hòn Khói tên chữ là Yên Cang.
Năm Minh Mạng thứ 6 (1825), đổi tên Yên Cang làm Vân Phong, tức Đỉnh Mây 10. Nhưng có người bảo: « Vùng núi nầy là núi lửa đã nguội. Thỉnh thoảng động đất, núi bị rạn nứt, khói ở lòng đất theo kẽ hở bay ra. Khói mà cổ nhân trông thấy rồi dùng đặt tên cho núi, là khói của đất chớ không phải của ng