← Quay lại trang sách

Phần Thứ Tư - Dân Sinh I. DÂN SỐ

Dân số tỉnh Khánh Hòa lúc người Việt Nam mới vào định cư bao nhiêu không được rõ. Trong niên hiệu Gia Long số đinh được trên 5.000 người. Sang niên hiệu Tự Đức lên 8.563 người. Năm Thành Thái thứ 10 (1898) lên đến 11.218 người và năm thứ 18 (1906) thêm gần 500 người nữa, cộng trên 11.700 người. Hiện nay theo bảng thống kê Tòa Hành Chánh năm 1966, thì toàn tỉnh có 288.214 người, gồm có:

- Người Kinh: 278.724

- Người Thượng: 7.592

- Người Nùng: 1.467

- Ngoại Kiều: 431

Và theo bảng kiểm kê năm 1968 thì có 367.975 người:

- Vạn Ninh: 32.127

- Ninh Hòa: 72.770

- Khánh Dương: 5.959

- Vĩnh Xương: 103.877

- Diên Khánh: 42.948

- Cam Lâm: 8.241

- Nha Trang Đông: 42.395

- Nha Trang Tây: 59.755

Chỉ trong vòng hai năm mà dân số tăng đến gần 80 nghìn người là do các tỉnh ngoài di cư vào.

Và từ cuối đời Thành Thái đến nay mới trên 60 năm, mà số người tăng đến trên 365 nghìn người là vì xưa kia chỉ tính số người chính quán Khánh Hòa, lại chỉ tính số đàn ông. Còn nay tính cả người ngoại tỉnh, ngoại quốc, cả đàn ông lẫn đàn bà. Chớ không phải người Khánh Hòa sai con.

Diện tích toàn tỉnh Khánh Hòa là 5.432 cây số vuông. Núi rừng chiếm 15/16 diện tích, tức 5.092 cây số vuông. Đồng bằng còn được 1/16 diện tích, tức 340 cây số vuông.

Người Thượng ở núi rừng, người Kinh ở đồng bằng. Mật độ trung bình của Tỉnh là 68 người mỗi cây số vuông. So với mật số trung bình của toàn cõi Việt Nam là 79, thì Khánh Hòa không phải là tỉnh đông dân. Nhưng số người phân phối không đều. Núi rừng rộng mà người ở lại ít. Còn đồng bằng hẹp, người ở lại đông. Thành ra có sự chênh lệch rất lớn giữa hai miền. Miền rừng núi Khánh Hòa mật độ chỉ có 1,5 tức 3 người trên 2 cây số vuông. Còn miền đồng bằng thì lên đến 822 người trên một cây số vuông.

Sự chênh lệch giữa thôn quê và thành thị cũng quá lớn. Như thành phố Nha Trang diện tích chỉ có 3 km2 900 (Nha Trang Đông 200 hectares, Nha Trang Tây 190 hectares), mà dân số đến 102.050 người. Thế là trên mỗi cây số vuông ở 25.512 người, tức là đông gấp 30 lần thôn quê.

Tình trạng nầy do chiến tranh mà ra. Đến lúc thái bình, đồng bào sẽ trở về với ruộng nương vườn tược bớt.

II. SINH HOẠT

Nhân dân Khánh Hòa phần đông sống về nghề nông. Những người ở miền duyên hải sống về nghề chài lưới, nghề làm muối và làm nước mắm. Một số ở tỉnh lỵ Nha Trang và các quận lỵ sống về thương mãi. Ở thôn quê mấy năm nay mất an ninh, ruộng nương bỏ hoang nhiều. Một số đông nông dân phải tản cư xuống tỉnh lỵ, quận lỵ tìm sanh kế. Phần nhiều đi làm cho Mỹ. Nghề thương mãi có phần phát đạt thập bội. Nhiều thương gia trước kia thường thường, ngày nay đã trở thành triệu phú.

Nhìn chung quanh: Mặc dù sống trong thời loạn lạc, nhân dân Khánh Hòa yên ổn và phong lưu hơn mọi nơi. Người giàu thì sang trọng đã đành, người nghèo cũng không đến nỗi đói rách. Và ở nơi thị tứ giá sanh hoạt mỗi ngày mỗi cao, nhưng các quán ăn, các tiệm giải khát, các rạp chiếu bóng… không lúc nào thưa người. Thỉnh thoảng có gánh cải lương hay tân nhạc ở Saigon ra, thì phải mua vé chợ đen mới có chỗ tốt!

III. NGÔN NGỮ – TÁNH TÌNH

Người Khánh Hòa không có tiếng nói nào khác hơn tiếng Việt. Giọng nói giống giọng Bình Định, Phú Yên, Ninh Thuận, Bình Thuận. Những người không rành, không thể phân biệt được điểm khác trong chỗ lên xuống nặng nhẹ của giọng nói 5 tỉnh miền Nam Trung Nguyên Trung Phần. Không có những thổ âm riêng biệt như ở Huế trở ra.

Tiếng của đồng bào Thượng có hai thứ chính là Rhadé và Raglai. Nhưng phần đông đều nói tiếng Việt thông thạo.

Phong tục tỉnh Khánh Hòa thuần hậu. Tánh người hiền hòa, kiệm ước, không thích tranh đấu, không thích mạo hiểm phiêu lưu. Phần đông lấy chữ nhàn làm quí. Làm đủ ăn đủ mặc, học đủ hiểu đủ biết. Không ham làm giàu, không ham làm quan. Cho nên thái độ ung dung, nhàn nhã. Chẳng những lúc thái bình, cả lúc chiến tranh cũng vậy, người Khánh Hòa ít chộn rộn ồn ào. Không phải không có nhiệt huyết. Bề ngoài ngó lợt lạt nhiều khi như thờ ơ, nhưng bên trong rất thâm hậu. Không chơi với người thời thôi, chớ một khi đã làm bạn rồi thì trước sau như một.

Người Khánh Hòa cũng như người Phú Yên, Bình Định, Ninh Thuận, Bình Thuận, tình thâm nhưng tánh thiển, cho nên thường bị những kẻ cơ tâm lợi dụng. Do đó – do thường gặp phải vỏ dưa – đối với người có vẻ khôn lanh, đồng bào Khánh Hòa ít dám gần gũi.

Về việc cúng tế, tang chế, cưới gả, đại khái cũng giống các tỉnh miền Nam Trung Nguyên Trung Phần.

Đó là nói về đồng bào Kinh. Còn đồng bào Thượng thì hầu hết chất phác thật thà. Cho nên xưa nay không có những cuộc nổi loạn. Cũng không lạ gì, vì đến cọp mà còn hiền huống hồ người, dù là người Thượng.

IV. TÍN NGƯỠNG

Phần đông đồng bào Khánh Hòa, 80% dân số chịu ảnh hưởng Khổng Giáo. Trong số nầy theo Phật giáo quá nửa. Còn lại đều có cảm tình không nhiều thì ít chớ không mấy người chống báng. Thiên Chúa giáo (Công Giáo và Tin Lành) tính về bách phân nhân số thì chiếm chừng 12, 13 phần trăm. Còn các Tôn giáo khác thì chiếm chừng một vài phần trăm. Cho nên, cũng như tất cả các tỉnh Trung Việt, đạo Phật và đạo Thiên Chúa là hai Tôn giáo chính của Khánh Hòa.

A) PHẬT GIÁO

Phật giáo từ Trung Hoa truyền sang Việt Nam từ thế kỷ thứ II, thời Bắc thuộc. Truyền sang Bắc Việt trước, rồi theo bước Nam tiến của dân tộc Việt Nam mà đi vào lần. Hạt giống bồ đề gieo vào đất Khánh Hòa sớm nhất là khoảng hạ bán thể kỷ thứ XVII, sau khi chúa Nguyễn phúc Tần đánh thắng được vua Chiêm Thành là Bà Tranh và chiếm cứ đất Kaut Hara làm bản thổ (1653). Nhưng trước khi người Việt Nam đến, trên đất Chiêm Thành đã có dấu chân của các nhà sư đi du hóa.

Sách Việt Nam Phật Giáo Sử Lược của T.T. Thích Mật Thể, chép rằng: « Năm Kỷ Dậu (1069), vua Lý Thánh Tôn đi đánh Chiêm Thành về, có bắt được vua nước ấy là Chế Củ và nhiều dân lính làm tù binh. Các tù binh ấy vua Lý Thánh Tôn ban cho các quan triều làm quân hầu. Trong số quan triều ấy có một vị tăng lục. Một hôm vị tăng lục ấy đi vắng về, bỗng thấy bản « ngữ lục » của mình bị một tù binh sửa chữa lại cả. Ngài thất kinh đem việc ấy tâu vua, vua liền cho đòi tên tù binh ấy đến hỏi, thì y ứng đối rất thông, luận về những kinh điển nhà Phật rất xứng đáng. Hỏi ra thì đó là một vị Thiền sư người Tàu theo thầy qua Chiêm Thành, chẳng may bị bắt làm tù binh. Vị Thiền sư ấy chính tự hiệu là Thảo Đường, đệ tử của ngài Tuyết Đậu Minh Giác bên Tàu ».

Những ngọn tháp trên Hòn Tháp thôn Đại Điền Tây, mà trước đây ai cũng tưởng là tháp Hời vì quá cổ 1, phải chăng là của các nhà sư ở Ấn Độ hay Trung Hoa sang truyền pháp trong thời kỳ Chiêm Thành còn mạnh?

Song đối với người Việt Nam, đạo Phật nhất định phải đợi khi chúa Nguyễn thắng vua Chiêm rồi mới gây được ảnh hưởng. Những di tích của Phật giáo thời xưa còn để lại trên đất Khánh Hòa là những tấm biển, những câu đối, và những quả hồng chung trong các chùa cổ. Những di vật nầy đều mang niên hiệu Vĩnh Hựu (1735-1740) và niên hiệu Cảnh Hưng (1740-1786) nhà Hậu Lê. 2

Như thế có thể tin rằng đạo Phật du nhập vào Khánh Hòa sớm nhất là vào hạ bán thế kỷ thứ XVII và muộn nhất là vào hạ bán thế kỷ XVIII. Đạo Phật gồm có Đại Thừa và Tiểu Thừa. Nước Việt Nam ta theo Đại Thừa. Đại Thừa lại gồm có nhiều tôn: Tịnh Độ Tôn, Mật Tôn, Thiền Tôn… Nước Việt Nam ta chỉ đặc truyền Thiền Tôn từ Trung Hoa du nhập. Thiền Tôn cũng gồm có nhiều chi phái. Nhưng ở Việt Nam thịnh hành nhất là phái Tào Động ở Bắc Việt và phái Lâm Tế ở Trung Việt và Nam Việt. Phái Lâm Tế gồm nhiều dòng: Vạn Phong, Đạo Mân, v.v… Và người đầu tiên truyền phái Lâm Tế sang Trung Việt là Thọ Ngôn Hòa thượng, húy Nguyên Thiều, sang Việt Nam năm Ất Tỵ (1665), lập chùa Thập Tháp Di Đà ở Bình Định rồi ra Huế lập chùa Quốc Ân. Ngài vốn thọ giáo hai dòng Vạn Phong và Đạo Mân, nên có hai tên húy: Siêu Bạch, theo dòng kệ của Tổ Vạn Phong, và Nguyên Thiều, theo dòng kệ của tổ Đạo Mân. Sang Việt Nam, Ngài truyền xuống cả hai dòng kệ. Dòng kệ của Tổ Vạn Phong gồm 40 chữ:

Tổ đạo giới định tông,

Phương quảng chứng viên thông,

Hạnh siêu minh thiệt tế,

Liễu đạt ngộ chơn không,

Như nhật quang thường chiếu,

Phổ châu lợi ích đồng,

Tín hương sanh phước huệ,

Tương kế chấn từ phong.

Dòng kệ của Tổ Đạo Mân có 28 chữ:

Đạo bổn nguyên thành Phật tổ tiên,

Minh như hồng nhật lệ trung thiên.

Linh nguyên quảng nhuận từ phong phổ,

Chiếu thế chơn đăng vạn cổ huyền.

Thủy Tổ phái Lâm Tế là ngài Nghĩa Huyền. Ngài Vạn Phong là vị tổ thứ 21. Ngài Đạo Mân là vị tổ thứ 31. Và ngài Nguyên Thiều về chánh thống phái Lâm Tế, thì đứng vào đời thứ 33.

Qua thế kỷ thứ XVIII, Liễu Quán Hòa thượng, húy Thiệt Diệu, người tỉnh Phú Yên, thuộc đời thứ 35 dòng Lâm Tế chánh tông, khai sơn chùa Thiên Thai Thuyền Tôn ở Huế, lại tục bài kệ về pháp phái, rằng:

Thiệt tế đại đạo, tánh hải thanh trùng.

Tâm nguyện quảng nhuận, đức bổn từ phong.

Giới định phước huệ, thể dụng viên thông.

Vĩnh siêu trí quả, mật khế thành công.

Truyền trì diệu lý, diễn xướng chánh tông.

Hạnh giải tương ưng, đạt ngộ chơn không.

Các vị Tổ khai sơn các Tổ Đình tỉnh Khánh Hòa đều thuộc phái Lâm Tế. Và hầu hết đều thuộc dòng kệ ngài Liễu Quán. Như:

- Ngài Thiệt Địa, chùa Kim Sơn Vĩnh Xương.

- Ngài Tế Hiển, chùa Thiên Bửu Ninh Hòa.

- Ngài Tế Dưỡng, chùa Phổ Hòa Ninh Hòa.

- Ngài Đại Bửu, chùa Linh Sơn Vạn Ninh.

Riêng ngài Phật Ấn, chùa Hội Phước Nha Trang, thuộc dòng kệ Tổ Đạo Mân.

Các vị Tổ khai sơn ở Khánh Hòa đều là người Việt Nam ở các tỉnh ngoài, Quảng Nam, Phú Yên, vào truyền pháp. Qua đến đời Nguyễn Sơ, Khánh Hòa mới có danh tăng lo việc hoằng pháp.

Bước tiến triển của Phật giáo trên đất Khánh Hòa như sao, không thấy sách vở để lại. Bằng vào số chùa cổ còn sót lại từ đời Lê và những câu chuyện truyền khẩu về các vị danh sư, thì có thể đoán rằng Đạo Phật thời vua Lê chúa Nguyễn ở Khánh Hòa rất thạnh vượng. Quận nào cũng có trên một ngôi chùa cổ. Các vị tổ khai sơn đều nổi tiếng về đạo hạnh và phần nhiều đều hóa thân trên giàn hỏa.

Đến thời Tây Sơn và Nguyễn Phúc tranh hùng thì việc truyền bá bị đình trệ.

Qua đời Nguyễn trung hung, nhờ các vị vua có lòng sùng phụng, Đạo Phật được trùng quang. Chùa cũ được sửa sang lại, chùa mới được cất thêm, và nhiều vị danh sư xuất hiện. Như:

- Hòa thượng Liễu Đức khai sơn chùa Thiên Đức năm Minh Mạng nguyên niên.

- Hòa thượng Trừng Nghệ khai cơ chùa Thiền sơn khoảng Hàm Nghi Thành Thái.

- v.v…

Hễ chùa nhiều, và người lo phật sự có tài có đức thì lẽ tất nhiên thiện nam tín nữ phải đông, Chánh Pháp được truyền bá sâu rộng.

Nhưng theo các nhà khảo cứu và Phật Giáo Việt Nam, trong đó có Thượng Tọa Mật Thể, thì từ ngày họ Nguyễn Tây Sơn và họ Nguyễn gia Miêu tranh hùng, Phật giáo bắt đầu đình đốn và lần lần suy đồi. Đến khi đã thái bình, mặc dù phần đông các vua nhà Nguyễn, nhất là vua Thiệu Trị, có lòng sốt sắn với Đạo Phật, tinh thần Phật giáo vẫn suy. Rồi lần lần đi chỗ đồi bại.

Đó là nói về tình hình trong toàn quốc. Đạo Phật đời Lý Trần cực thịnh. Đem so với đời Nguyễn thì cảnh thịnh suy rõ rệt như biển cả ao bèo.

Riêng về tỉnh Khánh Hòa, cảnh tượng đời Nguyễn không bằng đời Lê thật (bằng theo số danh sư chủ trì đạo pháp), nhưng sự chênh lệch không nhiều, tinh thần Phật giáo không đến nỗi bạc nhược vì vẫn có nhiều vị thiền sư thiết tỏa đàn trà tỳ khi nhận thấy pháp duyên đã viên mãn như ngài Liễu Đức (đã kể trên), Trừng Hoẵng trụ trì chùa Linh Quang, Trừng Thông khai sơn chùa Thiên Quang 3. Huống nữa thời thịnh, Đạo Phật ở Khánh Hòa không phát triển mạnh lắm, nên sau có thoái bộ, cũng ít thấy rõ khoảng cách biệt, mức hơn kém.

Nhưng qua đến triều Khải Định Bảo Đại thì cảnh suy đồi ở Khánh Hòa cũng như trong toàn quốc, trông thấy quá rõ rệt. Đạo Phật đã trở thành đạo « Thầy Chùa, thầy cúng ». Và thiện nam tín nữ đến chùa chỉ để phước và xin xăm bói cát hung đó thôi. 4

Rồi khoảng 1930 trở đi, nhờ ảnh hưởng phong trào chấn hưng Phật giáo ở Trung Quốc, các tăng già cư sĩ Việt Nam đứng lên hô hào vận động chấn chỉnh Phật Giáo Việt Nam. Công cuộc vận động gặp nhiều trở lực, trở lực bên chánh quyền cả Pháp lẫn Nam, trở lực về các nhà sư bấy lâu dùng chuông mõ làm kế sanh nhai, dùng chùa chiền làm gia đình riêng mà mình là tộc trưởng. Nhưng với tinh thần cương quyết của những vị « một lòng vì Chánh Pháp » mà Phật Giáo Việt Nam được chấn hưng lần lần 5. Khánh Hòa nhiệt liệt hưởng ứng phong trào.

Chùa Long Sơn thành lập để làm cơ sở cho Hội Phật Học tỉnh Khánh Hòa. Nhiều chùa thờ thánh, thần đổi làm chùa thờ Phật. Như chùa Bửu Phong ở núi Trại Thủy, chùa Hoa Tiên ở ấp Phật Tỉnh thôn Phú Ân Nam là hai chùa thờ Quan Thánh cải thành chùa thờ Phật 6, trong khoảng 1935-1940, v.v…

Trước kia một số đông người có học ở Khánh Hòa ít thích đạo Phật. Nhưng từ khi có sách báo về Phật giáo ra đời như Từ Bi Âm, Duy Tâm ở Nam, Viên Âm ở Trung, Đuốc Tuệ ở Bắc là những tạp chí rất phổ biến, có những buổi thuyết pháp do các vị cư sĩ, các vị tăng già tổ chức… một số đông trong giới Nho học và Tây học qui y Tam Bảo, và tự nhận nhiệm vụ truyền bá Chánh Pháp.

Phong trào chấn hưng Phật giáo đương lên thì xảy ra cuộc quốc biến năm Ất Dậu (1945) rồi đến cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp (1945-1954). Việc truyền bá bị đình đốn rất nhiều.

Tuy thế, ở Khánh Hòa tương đối đỡ hơn ở các tỉnh từ Phú Yên trở ra. Ở Khánh Hòa, chùa chiền bị phá hoại, việc hoằng pháp bị ngưng trệ là do thời cuộc, do chiến tranh chớ không phải do kẻ có quyền có thế tìm cách tiêu diệt như ở các tỉnh khác.

Chiến tranh Việt – Pháp chấm dứt, Phật giáo Khánh Hòa cũng như các tỉnh miền Nam Việt Nam, được chấn hưng nhanh chóng. Nhưng rồi chủ trương đàn áp Phật giáo của Chánh Phủ Ngô Đình Diệm mỗi ngày mỗi chặt chẽ mỗi rõ rệt, làm cản trở công cuộc hoằng dương Chánh Pháp không ít. Cuối cùng cuộc tranh đấu bùng nổ. Tăng, ni và Phật tử Khánh Hòa triệt để tham gia. Nhiều cuộc biểu tình, tuyệt thực, tổ chức có qui củ, gây được ảnh hưởng sâu rộng trong toàn thể nhân dân. Mặc dù bị chánh quyền địa phương thẳng tay đàn áp, chùa bị phong tỏa, những người lãnh đạo bị giam cầm, đồng bào hưởng ứng bị khủng bố, phong trào mỗi ngày mỗi lớn mạnh thêm.

Rồi Hòa Thượng Quảng Đức, người Khánh Hòa, tự thiêu ở Saigon 7, làm chấn động dư luận thế giới và đun sôi thêm nhiệt huyết của người đồng châu. Noi gương bậc tiền bối, ni cô Diệu Quang tự thiêu ở Ninh Hòa, gieo mầm hy sinh vì Chánh Pháp trong lòng cô Yến Phi, ni cô Diệu Tri, ni cô Thông Tuệ sau nầy. Trong cuộc tranh đấu, chẳng những người trong thiền môn tham dự, mà đồng bào trong các tầng lớp nhân dân, tín đồ trong các tôn giáo bạn, cũng nhiệt liệt hưởng ứng.

Sức mạnh của nhân dân mà Phật Giáo là nòng cốt, ở Khánh Hòa cũng như trong toàn quốc, một khi đoàn kết lại, thật không biết đâu mà lường! Sức mạnh ấy đã làm cho những kẻ có dã tâm muốn trọn quyền làm chủ nước Việt Nam để thi hành chính sách độc tài bóc lột phải khiếp sợ.

Có thể nói rằng tinh thần Phật Giáo toàn quốc nói chung, Khánh Hòa nói riêng lên đến cao độ. Trong cuộc tranh đấu chống cường quyền để bảo vệ Chánh Pháp, Phật Giáo Tiểu Thừa cũng tích cực tham gia.

Phật Giáo Tiểu Thừa gọi là Nam Tông. Phật Giáo Đại Thừa gọi là Bắc Tông. Quần chúng Phật Giáo Việt Nam, hầu hết thuộc Bắc Tông. Khoảng 600.000 người Việt gốc Miên sinh sống tại Nam Phần cùng một số ít người Thuần Việt theo Nam Tông. Sau khi Chánh Phủ độc tài Ngô đình Diệm bị lật đổ, Bắc Tông và Nam Tông hợp nhất dưới quyền lãnh đạo của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Từ trước đến giờ chưa có xứ Phật Giáo nào thực hiện được sự thống nhất ấy. Tất cả mọi người có đạo tâm đều vô cùng hoan hỷ.

Nhưng đứng trước sức bành trướng mỗi ngày một gia tăng của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, bọn Ma Vương sợ gây bất lợi cho chúng bèn tìm đủ cách để phá hoại. Giáo hội luôn luôn phải đương đầu với không biết bao nhiêu nỗi khó khăn trong công việc Hoằng Pháp.

Khánh Hòa cũng ở trong tình trạng chung. Song cơ sở vẫn giữ vững. Phật sự vẫn phụng hành nghiêm chỉnh và thường xuyên. Hiện nay, Phật Giáo Khánh Hòa có hai tỉnh hội: Tỉnh Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Tỉnh Hội Phật Giáo Cổ Truyền. Phật Giáo Cổ Truyền là hậu thân của Cổ Sơn Môn, một phái Phật Giáo đứng về phe Chánh Quyền trong thời Phật Giáo tranh đấu. Ở Khánh Hòa, ảnh hưởng không mấy. Quần chúng Phật Giáo, phần tử sơ cơ cũng như phần tử thuần thành, hầu hết đều hướng về Phật Giáo Thống Nhất. Và Tỉnh Hội Phật Giáo Thống Nhất lo việc bảo vệ Chánh Pháp và phát huy Chánh Pháp, theo đường lối cùng kế hoạch của Giáo Hội hoạch định: « Trên đường hành đạo không phân biệt oan thân. Bất cứ ở đâu có đau khổ, ở đấy Phật Giáo có sứ mạng cứu độ ».

Đó là đường lối miên trường của Giáo Hội, và là Tôn Chỉ bất biến của Chánh Pháp. Sứ giả Như Lai ở Khánh Hòa cũng như trong toàn quốc nguyện theo đúng tôn chỉ và đường lối ấy để viên thành sứ mạng:

Đường xa chẳng ngại đêm tăm tối,

Trong áo minh châu mở vẫn còn.

B) CÔNG GIÁO

Đạo Phật từ Trung Quốc sang Việt Nam. Đạo Thiên Chúa từ Âu Châu đến. Đạo Thiên Chúa hiện nay trên lãnh thổ Việt Nam có hai: Công Giáo và Tin Lành. Tin Lành mới du nhập chừng ba bốn mươi năm nay. Công Giáo bắt đầu truyền bá từ thế kỷ thứ XVI. Công Giáo trước kia thường gọi là Gia Tô giáo, ngày nay thường gọi là Ky Tô giáo.

Sách « Việt Nam Công Giáo Niên Giám 1964 » chép: « Theo nguồn sử liệu Việt Nam lần thứ nhất nói đến đạo Thiên Chúa, thì năm Nguyên Hòa (1533), tháng ba, vua Lê Trang Tôn ra chiếu chỉ cấm đạo Gia Tô do một « Dương nhân » tên là I NI KHU (tức INIGO) truyền giảng tại làng Ninh Cường, Quần Anh, Trà Lũ, thuộc tỉnh Nam Định (Bắc phần) ».

Đó là về Đường Ngoài tức là từ Đèo Ngang trở ra. Còn về Đường Trong tức là từ Đèo Ngang trở vào thì đến thế kỷ thứ XVII, sau khi Nguyễn Hoàng đã dựng nghiệp Chúa vững vàng, mới du nhập.

Sự truyền giáo bắt đầu từ năm 1616. Các giáo sĩ đầu tiên là Francesco Buzomi, người Ý, Diego Carvalho, người Bồ Đào Nha. Trụ sở đóng tại Cửa Hàn tức Đà Nẵng. Tiếp đến là giáo sĩ Đắc Lộ tức Alexandre de Rhodes.

Việc truyền giáo gặp nhiều khó khăn, Đường Trong cũng như Đường Ngoài. Cấm ngăn việc giảng đạo, chém giết người giảng cùng người theo đạo, thời nào cũng có. Nhưng « Máu tử đạo là hạt giống sinh giáo hữu » 8, cho nên Công Giáo tiến triển không ngừng. Tiến triển không ngừng, song chậm. Mãi đến hạ bán thế kỷ thứ 19 và thế kỷ thứ 20 mới thật thịnh hành.

Theo bảng thống kê trong « Việt Nam Công Giáo Niên Giám 1964 », thì từ khi bắt đầu truyền giáo đến năm 1840, toàn cõi Việt Nam có 420.000 giáo hữu. Đến năm 1890, thì lên tới 708.000. Và từ ấy đến nay đã lên trên hai triệu. Nghĩa là trong khoảng gần 80 năm gần đây, đã tăng thêm hơn một triệu. Thế là trong khoảng thời gian 80 năm sau nầy, sức phát triển hơn hẳn khoảng thời gian trên 300 năm ngày trước. Đó là do:

- Cách tổ chức của giáo hội mỗi ngày mỗi tinh xảo.

- Các nhà truyền giáo tận tụy cùng sứ mệnh.

- Trước kia toàn giáo sĩ ngoại quốc khó thông cảm với người bản xứ. Sau nầy có nhiều linh mục Việt Nam chung lo việc truyền giáo.

- Trước kia bị kẻ cầm quyền trong nước cấm chế. Sau nầy, thời Pháp thuộc cũng như thời Cộng Hòa, lại được ủng hộ.

Một cây có sức sống mạnh mẽ, mà rễ đã bám được vào đất rồi, thì khi được tưới nước bón phân lẽ tất nhiên là đâm chồi nẩy lộc mau chóng. Đó là lịch trình tiến triển chung của toàn quốc.

Riêng về Khánh Hòa thì Đạo Thiên Chúa truyền vào năm nào thật không biết chính xác. Có sớm lắm chắc cũng lối đầu thế kỷ thứ XIX. Tình trạng lúc ban đầu như sao, không được rõ. Trong trang lịch sử về Địa phận Nha Trang, sách Việt Nam Công Giáo Niên Giám chép: « Trong cuộc bắt đạo năm 1860-1861, nhiều giáo hữu đã bị tử hình tại Khánh Hòa, trong số đó có bà Bề Trên nhà Dòng Chợ Mới, chủng sinh Giuse Hữu, và 6 giáo hữu Bắc Việt. Chị Dần ở Bình Cang thì chết vì bị nhiều lần tra tấn… Năm 1885, một số rất đông giáo hữu khác đã bị Văn Thân tàn sát. Các chị nhà Dòng ở Phan Rang thì bị gìm cả xuống giếng nhà Dòng ở Dinh Thủy ».

Như thế thời Tự Đức, Hàm Nghi, và chắc trước kia cũng vậy, Khánh Hòa cũng chịu một tình cảnh chung với các tỉnh Đàng Trong. Và cũng mãi khi người Pháp đã đặt tòa công sứ ở Nha Trang rồi, việc truyền giáo mới phát triển mạnh.

Về hệ thống tổ chức ban đầu Khánh Hòa thuộc địa phận Qui Nhơn. Tới năm 1957 địa phận Qui Nhơn mới cắt hai tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận và địa phận Saigon cắt hai tỉnh Bình Thuận, Bình Tuy để lập địa phận Nha Trang.

Hiện nay tỉnh Khánh Hòa thuộc địa phận Nha Trang. Số giáo hữu tính đến năm 1964 là 36.745 người. Trong số nầy có cả người miền Bắc di cư.

Công Giáo có nhiều Dòng Tu. Bên Nam có 22 Dòng (có một số tu hội và tu viện). Bên Nữ có 33 Dòng (có một số tu hội). Ở Khánh Hòa có 14 Dòng:

Dòng Tòa Thánh:

- Dòng Phanxicô

- Dòng Chúa Cứu Thế

- Dòng Sư Huynh

- Dòng Ci tô Mỹ Ca

- Dòng Kín Nha Trang

- Dòng Filles de la Charité

- Dòng Sœurs de St. Paul de Chartres.

Dòng Địa Phận:

- Dòng Anh Em hèn mọn Thánh Giuse

- Dòng Mến Thánh giá cải tổ

- Dòng Mến Thánh giá không cải tổ

- Dòng Mến Thánh giá Thanh Hóa

- Dòng Mến Thánh giá Vinh

- Nữ tu Kiết tâm Đức Mẹ ở Bình Cang

- Nữ tu Đa Minh Thái Bình.

Kỷ luật nghiêm minh. Tổ chức chặt chẽ. Cơ sở vững vàng. Nhìn vào thấy rõ cảnh giàu mạnh cả vật chất lẫn tinh thần vậy.

C) CÁC TÔN GIÁO KHÁC

- Đạo Cao Đài không được nhiều tín đồ. Trong toàn tỉnh chỉ mới có năm ba thánh thất nho nhỏ. Không gây được ảnh hưởng sâu rộng trong các tầng lớp Nhân Dân.

- Đạo Tin Lành có cơ sở từ thời Pháp thuộc, nhưng mới phát triển mạnh mẽ trên mươi năm nay. Ảnh hưởng chưa đi sâu vào thôn quê.

Các nhà truyền giáo rất kiên nhẫn và làm việc một cách hăng say. Hễ gặp được một người liệu có thể nghe mình thì quí vị không bao giờ bỏ rơi. Nhờ vậy mà mới một thời gian ngắn, ở Khánh Hòa tại tỉnh lỵ và các quận lỵ đã có nhiều nhà giảng, và người đến nghe giảng cũng khá đông.

1) BÀ THIÊN Y A NA

Ngoài các tôn giáo chính thức có qui củ, có tổ chức hẳn hoi, người Khánh Hòa còn thờ bà Thiên Y A Na. Theo lòng tín ngưỡng của phần đông đồng bào Khánh Hòa thì Bà là hiện thân của Trầm Hương Kỳ Nam là món lâm sản đặc biệt của địa phương, và là vị Phúc Thần phù hộ cho nhân dân sống được yên vui và no ấm. 9

Ngoài tháp Poh Nagar ở Cù Lao, đền thờ Bà ở khắp mọi nơi trong Tỉnh. Các chùa Phật ở thôn quê, thành thị, nhiều chùa thờ Phật ở giữa, thờ Quan Thánh một bên và thờ Bà một bên. Ảnh hưởng của Bà ra đến tận Huế. Các vua chúa thời trước phong tặng Thượng Đẳng Thần. Các quan Tỉnh khi đến nhậm chức phải đến bái yết, và mỗi năm phải đến tế vào dịp xuân. Đền chính thức là Đền Quá Quan ở thôn Xuân Phong 10. Còn làng thì xuân kỳ thu tế. Đồng bào lại cúng hằng tháng vào ngày sóc ngày vọng. Tháng ba âm lịch mỗi năm lại tổ chức lễ Múa Bóng tại tháp Cù Lao rất trọng thể. Gần bốn mươi năm nay, lệ múa bóng và lệ quan Tỉnh tế xuân bãi bỏ. Lệ xuân kỳ thu tế của làng cũng bãi bỏ trên vài mươi năm nay. Riêng đồng bào thì nơi nào có đền có miếu thờ Bà, lúc thái bình cũng như lúc loạn lạc, đều không bỏ khói hương, nhất là rằm và mồng một mỗi tháng. Lòng tin Bà của các thiện nam tín nữ rất vững chắc, so với đức tin Chúa, tin Phật của các giáo hữu Ky Tô, Thích Ca, chưa chắc đã thua. Đối với một số đồng bào, bà Thiên Y đã trở thành một vị Giáo Chủ.

Gần đây lại có phong trào lên đồng. Việc lên đồng lên bóng vốn có tự nghìn xưa. Nhưng chỉ thịnh hành ở Huế và các tỉnh miền Bắc. Từ ngày người miền Bắc di cư vào Nam, người Nam mới bắt chước. Ở Khánh Hòa, các bà đồng phần nhiều là người Huế, và người trong giai cấp thượng lưu. Lên đồng thường thường về ban đêm. Các bà đồng khi lên đồng trông như tiên giáng thế. Môi son má phấn, khăn áo gấm sô. Lại có người chầu văn, giọng hát du dương hòa theo tiếng đàn tiếng địch. Những khi cao hứng bà đồng đứng lên múa nhảy, điệu bộ uyển chuyển nhịp nhàng, trông đẹp không kém những khúc múa trong các đền nữ thần Ấn Độ. Trong cảnh bom dông đạn gió, nhìn vào cảnh tượng thần tiên nầy cũng có thể quên nỗi khổ đau trong một vài trống canh. Cảnh đồng bóng dành riêng cho hàng trưởng giả. Anh chị em bình dân chỉ ham cầu xăm những khi có việc lo ngại. Xăm nhiều khi rất linh ứng, khiến những người kém đức tin cũng không dám không tin.

2) ĐỨC TRẦN HƯNG ĐẠO

Đức Trần Hưng Đạo thường gọi là đức Thánh Trần cũng được nhân dân Khánh Hòa sùng bái. Song một số đồng bào sùng phụng không phải vì ngưỡng mộ vị anh hùng dân tộc đã cứu nước nhà ra khỏi ách đô hộ của người nhà Nguyên. Mà sùng phụng vì Ngài trị được tà ma, chữa được bệnh tật. Nghĩa là đồng bào thờ như thờ một vị thần linh, như thờ ngài Quan Vũ đời Tam Quốc. Thời Tiền Chiến ở Nha Trang chỉ có một đền thờ ở phường Xương Huân. Ở thôn quê không thấy có đền.

Đồng bào thường đến lễ bái vào ngày rằm mồng một. Thỉnh thoảng, nhất là ngày 20 tháng 8 âm lịch tức là ngày húy của ngài, có lên đồng. Người ngồi đồng là đàn ông, khi thì ông từ thừa, khi thì một người « hạp vía » đến lễ vái. Cũng ợ cũng ngáp, cũng múa cũng nhảy, mặt đỏ phừng phừng, mặt ngời sát khí. Người yếu bóng vía không dám đứng gần. Để cho đồng bào thêm tin sự linh hiển của đức Thánh, ông đồng hoặc dùng bùa để nơi đầu lưỡi rồi làm phép cho bùa tự nhiên chạy vào cổ họng như có bàn tay vô hình đẩy hay lôi ; hoặc dùng dây thừng cột nơi cổ mình rồi bảo hai người đàn ông lực lưỡng nắm hai đầu kéo riết thật mạnh ; hoặc lấy que nhọn đâm nơi cổ từ bên nầy lút sang bên kia mà không có tí máu rỉ, và khi rút que ra da thịt lại liền trơn! Đàn ông khiếp hồn, đàn bà vừa hít hà vừa lạy… Ban đầu thì lên đồng và làm phép một cách công nhiên. Sau tòa sứ cho là tà thuật mới sức cấm. Từ ấy ngày sóc ngày vọng, đồng bào chỉ đến xin thuốc và xin xăm.

Đền nhỏ và hiện nay đã cũ lắm. Lại cũng ít người đến lễ bái như ngày xưa. Gần đây đồng bào Bắc Việt di cư lập một ngôi đền mới tại Phước Hải, hương khói ngạt ngào. Ngoài những lễ bái thường lệ, mỗi năm tổ chức một buổi lễ kỷ niệm vào ngày húy nhật của Ngài. Buổi lễ rất long trọng. Có đại diện Hành Chánh Tỉnh và các cơ quan chánh quyền đến dự. Cho nên nghi lễ vừa theo cổ truyền có độc chúc có cử nhạc, vừa theo tân điển có diễn văn có đáp từ. Có thể nói rằng đền đức Thánh Trần vừa là nơi ghi ân vừa là nơi cầu phước vậy.

D) NHO GIÁO

Đạo Nho không phải là một tôn giáo, mà là một con đường tinh thần, thánh hiền vạch ra để người đời đi cho đúng phương hướng, khỏi vấp phải lầm lỗi làm hư thân và hại người. Ông cha ta thờ đức Khổng phu Tử, tứ phối và thất thập nhị hiền, không phải để cầu phước như thờ bà Thiên Y A Na hay thờ Quan vân Trường… mà để treo cao gương đạo đức và để tỏ lòng tri ân.

Đạo Nho truyền sang Việt Nam từ đời nhà Triệu (207-111 trước kỷ nguyên Thiên Chúa). Nhưng mãi đến đời Sỹ Nhiếp (187-226) mới được phổ biến. Và đến đời Hậu Lê (1428-1788) mới được thịnh hành. Rồi từ đời Hậu Lê trở về sau được độc tôn. Từ triều đình đến thứ dân đều coi là quốc giáo.

Đạo Nho thịnh là nhờ học chữ Hán và chữ Hán được dùng trong việc thi cử để chọn nhân tài ra trị nước yên dân. Chữ Hán bỏ, Nam Việt trước, Bắc Trung sau, đạo Nho lần lần suy, không còn cơ chấn hưng nổi. Đó là tình hình toàn quốc.

Riêng về Khánh Hòa: Khi chúa Nguyễn lấy xong đất Chiêm Thành, người Việt Nam đến định cư lập nghiệp, không biết nhà chúa có dùng Nho giáo để hóa dân chăng? Sách vở không thấy nói đến. Sang đời Tây Sơn, trong khi còn lo đánh Nam dẹp Bắc, thân không rời khỏi yên ngựa thanh gươm, thì chắc không có thì giờ nghĩ đến việc văn trị. Qua đời Nguyễn trung hưng, vua Gia Long mới theo lời Đổng trọng Thư dùng đạo Nho để giữ thiên hạ 11. Cho nên nhân dân Khánh Hòa chắc đến đời nhà Nguyễn mới thấm nhuần Nho giáo.

Theo Đại Nam Nhất Thống chí, thì triều Gia Long Khánh Hòa đã lập được hai trường phủ là Diên Khánh và Bình Hòa (tức Ninh Hòa), và hai trường huyện là Vĩnh Xương và Tân Định. Năm Minh Mạng thứ tư (1823) dùng trường Diên Khánh làm trường Tỉnh, nhưng đến năm thứ 10 (1829) vì ít học trò, nên bỏ trường Tỉnh mở trường Phủ trở lại. Năm Tự Đức thứ 19 (1866) lập trở lại trường Tỉnh và bỏ trường Phủ Diên Khánh như thời Minh Mạng.

Từ ấy, Khánh Hòa có một trường Tỉnh, một trường Phủ và hai trường Huyện. Trường Tỉnh thì có Đốc Học, trường Phủ có Giáo Thọ, Trường Huyện có Huấn Đạo trông coi việc giáo dục. Việc học đã được tổ chức thì nhất định phải có Văn Miếu ở Tỉnh và Phủ Huyện nào có người khoa mục thì lập thêm Văn chỉ. Văn miếu do quan Tỉnh đứng lập. Văn chỉ do thân hào nhân sĩ đứng lập. Văn Miếu ở Khánh Hòa dựng năm Gia Long thứ 2 (1803) tại thôn Phú Lộc, phủ Diên Khánh 12. Trùng tu năm Tự Đức thứ 2 (1849).

Ở Khánh Hòa việc học chữ Hán không được thạnh vượng. Trong tỉnh không có người đỗ đại khoa. Cử nhân tú tài cũng không nhiều lắm. Những bậc hay chữ nổi tiếng, những tay cuồng chữ, suốt đời vẫn làm anh bạch diện thư sinh, tuyệt nhiên không nghe nói đến. Đó là do tánh người Khánh Hòa không ham công danh. Lại thêm học cho giỏi rồi phải ra tận Bình Định để thi hương, ra tận Huế để thi hội, thì mất công tốn của, người Khánh Hòa không ưng. Người Khánh Hòa học để biết đọc biết viết, đủ dùng trong công việc cần thiết, học để biết đạo thánh hiền hầu xử thế cho đúng đường đúng lối. Rất ít người lấy việc học làm thang để leo lên đỉnh giàu sang. Nhờ vậy mà phần đông người Khánh Hòa hấp thụ được thực chất của đạo Nho và ít mắc bệnh « văn chương phù phiếm ».

Qua triều Khải Định chữ Hán cáo chung (1918) để nhường chỗ cho chữ Quốc Ngữ chữ Pháp. Đạo Nho ở toàn quốc lần lần đi xuống, xuống mãi không ngừng!

Từ trên nghìn năm, nước Việt Nam lấy đạo Nho làm nồng cốt tinh thần. Đạo Nho suy mà không có đạo nào thay thế cho xứng đáng, thì phong hóa tránh sao cho khỏi suy đồi! Ở Khánh Hòa tuy không đến nỗi:

Nhà kia lỗi đạo con khinh bố,

Xóm nọ quanh năm vợ chửi chồng. 13

Nhưng không làm sao tránh khỏi ảnh hưởng của thời thế. Một số thanh niên tân học, thiếu căn bản đạo đức, bị trào lưu thoái hóa làm mất bản chất thuần phác, và xem thường lời giáo huấn của ông cha. Những người giữ được nho phong thì thường bị chê là cổ hủ. Nhà Nho Thuần Phu Trần khắc Thành ở Nha Trang, và cụ cử Phan bá Vỹ, làm ký lục tòa sứ Khánh Hòa, có nhiều thơ phúng thế. Như:

Học khôn lắm chị theo đàng điếm,

Sợ dại nào ai dám thật thà.

(P.B. Vỹ)

Thầy xưa hết dạ rèn nhân nghĩa,

Đời mới nào ai học hiếu trung.

(T. K. Thành)

Một hôm nhớ là ngày lễ thanh minh năm Bính Thìn (1936) mấy thầy phán tòa sứ Nha Trang đến chơi nhà cụ cử Trần trọng Hoàng, một vị huấn đạo hưu trí, ở đường Hoàng tử Cảnh. Trong câu chuyện có bàn đến chữ Hiếu. Một thầy Phán là Trần G… người Ninh Hòa nói: « Khi cha mẹ lại với nhau là để thỏa mãn sự đòi hỏi của xác thịt. Rủi hay may sanh con ra. Sanh ra thì phải nuôi nấng. Đó là bổn phận. Tại sao lại buộc con phải có hiếu »? Cụ cử vốn là người hòa nhã và rất chiều khách. Thế mà vừa nghe hết câu nói, phừng phừng nổi giận, đứng dậy thét đuổi thầy phán ra khỏi nhà! Thuần Phu Trần khắc Thành liền ứng khẩu:

Xì xồ học chữ Tây,

Đạo nghĩa nói thêm rầy!

Không biết ơn cha mẹ,

Khác gì loài cỏ cây!

Lòng người suy đến thế,

Gốc đạo giữ sao đây?

Thương ông huấn ông giáo, 14

Mãi nhớ thuở làm thầy!

Hán học bỏ, đạo học suy, Khổng miếu cũng trở thành hoang vắng!

Thời Ngô đình Diệm (1955-1963), một số nhân sĩ trong nước đứng lên phát động phong trào chấn hưng Khổng Giáo. Hội Khổng Học toàn quốc dưới sự nâng đỡ của Chánh Quyền thành lập. Nhiều tờ tạp chí ra đời để xiển dương Nho giáo, như Cổ Học Quí San, Minh Tâm, v.v… và nhiều Khổng miếu xây cất ở các tỉnh lỵ đông người.

Ở Khánh Hòa, văn miếu ở Phú Lộc vẫn đứng đìu hiu bên dòng thệ thủy. Nhưng ở Nha Trang, một ngôi đền mới đã thành lập theo kiểu thức mới, đồ sộ khang trang. Nhìn vào, ai cũng tưởng Nho giáo ở Khánh Hòa đã có cơ quang phục. Nhưng lập được đền, đâu đã phải chấn hưng được Đạo.

Đạo đức cổ truyền hơn nửa thế kỷ bị vùi lấp, dễ gì lấy lại được ánh sáng trong một mai một chiều. Huống hồ người trong hội phần nhiều là người tuổi cao sức yếu, lại thiếu thốn đủ mọi mặt, thì dù có tận tâm tận lực, kết quả cũng chỉ là việc « dã tràng xe cát biển đông ». Đó là tình trạng chung trong toàn quốc chớ không phải riêng tỉnh Khánh Hòa.

Tinh thần Nho giáo đã ăn sâu vào tâm hồn người Việt Nam. Cho nên dù không kẻ hộ trì, Đạo vẫn không mất hẳn. Và tuy không người hướng dẫn, kẻ hậu sinh vẫn mò mẫm đi trên con đường đã lấp cỏ mờ rêu của cổ nhân. Nhiều khi đi mà vô tình không biết. Và vì không biết rõ con đường mình đi có phải là đường chính, nhiều người mất lòng tin tưởng, ngã theo những con đường tà có bóng dạng rừng mát suối trong. Bởi vậy nếu có người đủ tài đủ đức đủ phương tiện đứng ra cổ võ, thì việc phục hưng Nho giáo không đến nỗi khó khăn.

V. KINH TẾ

Cũng như hầu hết các tỉnh ở Trung Việt, nền kinh tế tỉnh Khánh Hòa chưa được mở mang. Nhân dân sống về nghề làm ruộng, nghề làm biển, nghề làm gỗ súc và tiểu công nghệ… Thể thức làm việc, kỹ thuật làm việc, phần nhiều đều theo lối cổ truyền. Xưa bày sao nay làm vậy! Do đó công sức nhiều, năng xuất ít. Tuy vậy nguồn lợi vẫn đủ nuôi sống người Khánh Hòa một cách phong lưu nếu sưu đừng cao thuế đừng nặng.

A) NÔNG NGHIỆP

1) LÚA LÀ HOA MẦU CHÍNH

Đất có nhiều phù sa rất thích hợp với lúa. Hiện có 32.100 ha ruộng đất đã cày cấy từ lâu. Ruộng chia làm hai loại: Ruộng hai mùa và ruộng một mùa. Hai mùa là mùa tháng ba và mùa tháng tám. Mùa tháng ba cấy vào tháng chạp âm lịch. Mùa tháng tám cấy vào tháng 5 âm lịch. Giống lúa thường dùng là lúa mắt cu, lúa gòn trắng, lúa ba thóc.

Chỉ những nơi có phương tiện dẫn thủy nhập điền mới làm được hai vụ. Còn những nơi ở xa sông ngòi, chỉ ăn nhờ nước trời, thì mỗi năm chỉ làm một vụ, hoặc gieo hoặc cấy vào lối tháng chín và gặt vào tháng chạp.

Giống lúa thường dùng là lúa đồng nai, lúa gòn đỏ và lúa gòn sẻ.

Người Khánh Hòa làm ruộng không dụng công bằng người Bình Định, Quảng Ngãi. Không cày sâu cuốc bẫm, phân cũng không bỏ nhiều, nước cũng không phải tát đến hai ba đợt sòng. Anh em nông dân bản tánh, cũng thích nhàn như anh em sĩ tử. Nhưng nhờ đất tốt, nước thường, nên công ít hơn Bình Định, Quảng Ngãi mà quả không thua. Nếu như bà con Khánh Hòa ra sức làm lụng như bà con Quảng Ngãi (Bình Định phải nhượng Quảng Ngãi) thì mức sản xuất tăng gấp đôi.

Mức sản xuất hiện thời là mức trung bình. Năm 1962 trở về trước mỗi năm thu hoạch trên 58.000 tấn lúa.

Trước khi có đồng bào di cư đến, thì số lúa đó đủ nuôi sống toàn dân trong tỉnh. Nhưng hiện nay phần đồng bào các nơi dồn tới, phần nhiều làng mất an ninh mùa màng phải bỏ, nên phải cần gạo tiếp tế mỗi năm vào khoảng 17, 18 tấn gạo trở lên.

2) HOA MẦU PHỤ

Ngoài lúa là nông sản chính, Khánh Hòa còn nhiều hoa mầu phụ lúc bình thường cũng đủ cung ứng cho nhu cầu địa phương. Theo bảng thống kê của Chánh quyền năm 1962 thì:

- Bắp trồng trên 972 hectares và thu được 845 tấn.

- Mì trồng trên 101 hectares và thu được 909 tấn.

- Lang trồng trên 375 hectares và thu được 2898 tấn.

- Đậu trồng trên 493 hectares và thu được 307 tấn.

3) CÂY KỸ NGHỆ

Nông sản kỹ nghệ sản xuất nhiều nhất ở Khánh Hòa là thuốc lá. Trồng trên 1.732 hectares và thu được 686 tấn mỗi năm. Thuốc phơi khô bán cho các hãng làm thuốc điếu ở Saigon. Ngon nổi tiếng là thuốc Gò Cà thôn Hội Phước (Diên Khánh) và thuốc Nam Yên (Ninh Hòa). Sau thuốc đến cao su. Trồng trên 500 ha. Mỗi năm thu được 280 tấn. Còn dừa, mía và bông vải thì chỉ đủ dùng ở trong Tỉnh chớ không bán ra ngoài như thuốc và cao su. Dừa và mía tuy thuộc về cây kỹ nghệ, nhưng ở Khánh Hòa dùng tươi nhiều hơn là dùng làm dầu, làm đường.

4) TRÁI CÂY

Đất Khánh Hòa đã tốt, khí hậu lại ôn hòa, nên vườn nào cây cối cũng sum sê. Cây ăn trái có nhiều giống. Các giống ở Trung Việt có, hầu hết ở Khánh Hòa đều có. Nhiều nhất là:

- Cam vừa lớn trái vừa ngọt.

- Thanh long, cây thì mềm yếu, phải nương vào những cây lớn mới sống nổi, thế mà trái có khi lớn bằng trái thơm. Vị rất đặc biệt. Cam thì Khánh Hòa còn nhượng một vài tỉnh, như nhượng cam Xã Đoài là một. Còn Thanh long thì chắc không đâu hơn nổi, mà dường như không đâu có là phải. Phan Rang và Bình Định mới đem giống từ Khánh Hòa về trồng nhưng trái nhỏ và thịt ở trong không được chắc, sắc ở ngoài không được tím thắm và láng bong như Khánh Hòa. Thanh long Khánh Hòa chưa ăn đã thấy mát ruột.

- Mãng Cầu và ổi cũng là giống trái cây vừa nhiều vừa lớn ở Khánh Hòa. Trước kia trong vườn chỉ trồng năm ba cây cho vui. Hiện thời trồng từng vườn từng đám. Ổi, mùi cũng như vị không khác gì các nơi. Còn mãng cầu thì phải nhượng Phan Thiết về phẩm. Bởi mãng cầu Phan Thiết chất giẻo hơn và vị ngọt thanh hơn. Nhưng có để ý mới nhận thấy, vì mức chênh lệch chỉ bên 8 bên 10.

- Thơm cũng là một thứ trái đáng kể mặc dù không có nhiều lắm. Đáng kể vì có chỗ đặc biệt, là ít mắt lại ngọt thanh, ăn nhiều không rát lưỡi. Thứ thơm đặc biệt ấy chỉ Vạn Giã mới có. Thời Pháp thuộc, lúc đường hỏa xa chưa đi suốt từ Saigon đến Hà nội, hành khách phải dùng đường ô tô, thì đi ngang qua Vạn Giã thì không mấy ai là không nếm thơm, và thơm Vạn Giã chưa hề bị mang tiếng là chua hay không ngọt. Nhưng những bạn dân thiên tri vị bảo thơm Vạn Giã còn thua thơm Tam Kỳ một bậc là mắt còn lớn, phải xắn bỏ nhiều cơm. Thơm Tam Kỳ mắt chỉ rí rí và rất thưa. Bởi thế tục có câu nói về thơm: Nhất Tam Kỳ, Nhì Vạn Giã.

- Mía vì tánh chất mà phải sắp theo thứ cây kỹ nghệ theo thông lệ xưa nay. Chớ trên thực tế thì mía Khánh Hòa chưa hề bị tay của các kỹ nghệ gia đụng đến. Hiện nay mía dùng để uống. Trước kia chưa sản xuất thứ xe nước mía, thì mía dùng để ăn. Ở các tỉnh, mía ăn trồng vườn. Mỗi vườn năm ba bụi. Mía trồng vườn đều là mía voi, vỏ hoặc vàng hoặc tía, cây lớn bằng cổ tay, cao lút đầu. Còn mía làm đường thì trồng ngoài soi và trồng từng đám. Trồng mía sẻ, cây lớn bằng ngón cẳng cái, vỏ trắng mông mốc và cứng. Ăn chơi vừa rát lưỡi vừa mỏi răng. Khánh Hòa ít ai trồng mía sả. Trồng toàn mía voi và trồng từng đám. Nhiều nơi, ruộng không thèm cấy lúa, mà chỉ trồng mía, một năm thu lợi một lần, lợi hơn lúa. Mía ở Khánh Hòa thân mướt, vỏ vàng hươm và răng ông già bà lão sáu mươi vẫn xiết được. Nước mía lại ngọt thanh. Nổi tiếng nhất là mía Phú Ân. Mía Phú Ân cùng thơm Vạn Giã đã giúp cho các nhà vận động cách mạng thời Pháp thuộc làm ra rất nhiều câu ca tuyên truyền ngọt ngào ý vị. Như:

I.

Thơm Vạn Giã ngọt đà quá ngọt,

Mía Phú Ân cái đọt cũng ngon.

Hỡi người chưa vợ chưa con,

Vào đây chung gánh nước non với mình.

Quản bao lên thác xuống gành,

Mía ngon thơm ngọt đượm tình nước non.

II.

Ai ra Vạn Giã

Nhắn ả bán thơm:

Thế gian lắm miệng lắm mồm,

Nói đông thì ngọt nói nồm thì chua!

Thôi đừng uổng tiếng hơn thua,

Gắng sao bán được đầu mùa là hay.

III.

Mía Phú Ân trồng đám,

Đám đám như rừng…

Chợ chiều buôn gánh bán bưng,

Rủi có sâu vài đốt, khuyên anh đừng vội chê.

Trăm năm giữ vẹn lời thề,

Mưa đông vẫn ngọt, nắng hè càng thanh.

- Cũng như mía, dừa tuy thuộc vào hàng cây kỹ nghệ, song trên thực tế cũng là một món thực phẩm ưa thích của du khách đến Khánh Hòa. Dừa nấu dầu thì để già và dùng cơm (coprah). Dừa ăn trái thì hái non và dùng nước. Nước dừa rất bổ. Thời kháng chiến chống Pháp, trên nơi rừng rú thiếu thuốc, nước dừa thay thế cho sérum. Thời bình thì nước dừa dùng để giải khát. Ngon nhất là nước dừa Xiêm. Dùng nước dừa thường thường chặt vỏ rồi rót ra ly. Lắm lúc lại bỏ thêm nước đá và đường cát. Người rành uống nước dừa không làm thế. Bởi uống nước dừa cũng như uống trà uống rượu, phải biết cách uống mới thưởng thức trọn được chân vị chân hương.

Nghề chơi cũng lắm công phu! Phải biết cách chặt. Không nên lấy rựa mà bằm đến năm bảy lát. Cũng không nên chặt thẳng xuống làm cho miệng dừa quá rộng và mặt dừa bằng thiến như mặt mâm. Phải dùng dao hay rựa thật bén, vạc xiêng xiêng phía bên nầy một phát phía bên kia một phát. Mỗi bên một phát thôi, một phát ngọt lịm và thẳng băng, nhưng chỉ đứt tiện lớp vỏ xanh bên ngoài. Còn lớp cơm bên trong thì giữ nguyên vẹn. Lớp cơm mỏng và vừa trắng vừa trong, bịt kín lấy miệng dừa chỉ lớn bằng đầu ngón tay cái.

Cách chặt dừa về phần chủ dừa. Cách uống về phần người uống. Trước hết phải lựa chỗ ngồi. Nên ngồi dưới bóng dừa, tàu dừa xanh làm chiếu, gốc dừa làm lưng tựa. Rồi hai tay bưng lấy quả dừa đưa lên miệng. Miệng mình gắn vào miệng dừa, lấy lưỡi xé lớp cơm mỏng, rồi thưng thưng chậm chậm nút nước. Lòng mở rộng, mắt lim dim, để nước dừa từ từ đi vào cổ đi vào bụng… thấm vào tim gan, vào xương thịt. Một hơi mát đê mê chạy khắp châu thân. Mình không còn phân biệt rằng mình nút nước dừa vào lòng mình, hay quả dừa đã nút mình vào lòng hắn. Tất cả những gì ở ngoài thân đều quên, và trong thân chỉ còn có cảm giác mát và ngọt, dịu dịu trong trong…

Một lần mình đã tận hưởng thú uống nước dừa rồi, không cần thật sự hưởng một lần thứ hai nữa. Mỗi khi nhớ đến, chỉ nhắm mắt tưởng tượng cũng đủ khoan khoái cả người.

B) LÂM SẢN

Khánh hòa có rất nhiều rừng rú. Nhưng nhiều khu rừng già chưa được khai thác vì thiếu đường vận xuất sơn xuyên. Diện tích trong toàn Tỉnh ước độ 450.000 ha. Tám khu đã qui định thành lâm phần. Diện tích tổng cộng là 137.517 ha. Mỗi năm mức sản xuất ước lượng chừng:

- Gỗ 12.000 thước khối

- Lá kè 50.000 lá

- Mây 1.600.000 sợi

- Than 2.000 tấn

- Vỏ nâu 9.000 ký.

Số gỗ sản xuất không đủ cung ứng nhu cầu trong Tỉnh, nên phải mua thêm mỗi năm đến trên dưới 12.000 thước khối của Cao Nguyên Trung Phần.

Thứ gỗ nhiều nhất ở Khánh Hòa là Gỗ Giáng Hương, chất cây cứng chắc, sắc vàng pha đỏ, rất tươi. Rồi đến gõ, trắc, sao, son. Đều là danh mộc. Về mây thì có thứ mây hoa gọi là hoa đằng, lớn bằng cườm tay, bằng ngón chân cái. Da vàng điểm những chấm đen. Lóng vắn và nhặt. Dùng làm gậy và ghế ngồi. Ở Ninh Hòa, núi Phước Hà có nhiều mây hoa, nên có một ngọn mang tên là Hòn Hèo (gậy mây gọi là hèo), và núi có tên chữ là Hoa Đằng Sơn.

Khánh Hòa có một thứ lâm sản hết sức quí. Nhưng quí không phải là một nguồn lợi của nhân dân địa phương mà vì là một sản phẩm đặc biệt đã làm cho Khánh Hòa thơm danh trong nước và ngoài nước. Đó là: Trầm Hương.

Quí vật nầy không phải riêng Khánh Hòa mới có. Các nơi núi cao rừng rậm, như Phú Yên, Bình Định… đều có, song không nhiều và không tốt bằng Khánh Hòa. Cho nên hễ nói đến Trầm hương là nói đến Khánh Hòa, mà nói đến Khánh Hòa là nói đến Trầm hương. Do đó Thi nại Thị có mấy vần ca:

Khánh Hòa là xứ trầm hương,

Non cao biển rộng người thương đi về.

Yến sào thơm ngọt tình quê.

Sông sâu đá tạc lời thề nước non. 15

Trầm hương là kết tinh của giống cây Chử tục gọi là cây gió, và chia làm hai loại là:

- Kỳ tức là Kỳ nam.

- Trầm tức là trầm hương dùng theo nghĩa hẹp.

Người nhà nghề bảo rằng kỳ do cây gió bầu sanh ra, trầm do gió lưỡi trâu, gió cam sanh ra. Nhưng sự thật thì kỳ là thứ trầm có nhiều dầu, còn trầm là thứ kỳ có ít dầu. Trong những cây gió có trầm thỉnh thoảng vẫn có kỳ và trong những cây gió có kỳ luôn luôn có trầm bao chung quanh hoặc ở bên cạnh. Thường thường kỳ ít có, và khi có cũng có ít hơn trầm. Kỳ đối với trầm cũng như ngọc thạch (diamant) đối với đá thủy tinh (cristal de roche). Kỳ và trầm phân biệt nhau ở hình chất và khí vị:

- Trầm chất cứng và nặng, vị đắng. Kỳ nhẹ và mềm, vị lại đủ cay chua ngọt đắng.

- Trầm mùi ngát, kỳ mùi thanh. Khói trầm bay vòng quanh rồi tan ra, khói kỳ bay thẳng và cao vút.

Dược tánh của đôi bên cũng có chỗ khác:

- Trầm dùng giáng khí, tức là đem khí hạ xuống.

- Kỳ dùng trị các chứng phong đàm: Mài với nước mà uống hay đốt xông vào lỗ mũi. Trị các chứng đau bụng cũng rất hay: chỉ ngậm trong miệng cho tiêu rồi nuốt. Nhiều khi hiệu nghiệm như thần.

Trầm và kỳ còn đuổi được khí tà độc, khí ô uế. Trầm thì đốt lên. Kỳ chỉ đeo vào mình cũng đủ. Nhưng đàn bà chửa rất kỵ kỳ nam. Không nên cho uống hoặc mang theo trong người. Nếu không kiêng có khi bị sẩy thai. Còn trầm thì vô hại. Trầm và kỳ đem ví với đá thì là thủy tinh và kim cương. Còn đem ví với người thì là bình dân và trí thức.

Trí thức và bình dân chia ra nhiều hạng thì kỳ và trầm cũng chia nhiều hạng như người. Kỳ có bốn thứ, giá trị phân định rõ ràng trong câu ngạn ngữ: « Nhất bạch, nhì thanh, tam huỳnh, tứ hắc ».

- Bạch kỳ nam, sắc trắng chất mềm và rất nhiều dầu.

- Thanh kỳ nam, màu hơi xanh xanh, nhiều dầu thì mềm, ít dầu thì cứng.

- Huỳnh kỳ nam, màu vàng như sáp ong, chất cứng và nặng. Để lâu khô dầu trở nên nhẹ.

- Hắc kỳ nam, sắc đen chất cứng. Nhưng chỗ nhiều dầu lại mềm như bạch kỳ nam.

Kỳ nam thường dùng làm thuốc. Rất đắt. Từ 1960 trở về trước giá thị trường từ 3.000$00 đến 8.000$00 một ký.

Trầm hương ít dùng làm thuốc, thường dùng để đốt trong những buổi cúng tế, trong những ngày lễ lạc, trong những khi yến tiệc chốn đài các phong lưu. Giá trị thua kỳ nam, nhưng được thông dụng hơn. Giá bán lên xuống không thường, cao nhất là 3.000$00 một ký (giá từ 1960 trở về trước). Trầm chia làm bốn loại:

- Trầm mắt kiến, có lỗ có hang do kiến đục làm tổ trước khi cây thành trầm.

- Trầm rễ do rễ cây sanh ra.

- Trầm mắt tử kết tạo trên nhánh cây.

- Trầm tốc ở nơi thân cây.

Trầm tốc có nhiều nhất và trên thị trường chia ra làm nhiều thứ giá bán khác nhau:

- Tốc hoa, màu vàng lợt có những chấm lốm đốm như hoa.

- Tốc nước, màu vàng lợt, chất ươn ướt và nặng.

- Tốc xám, màu xam xám như tro.

- Tốc lọ nghẹ, màu đen đen như bồ hóng.

- Tốc đá, nặng và trông hình sắc như đá.

- Tốc ớt, sắc vàng lợt, vị cay như ớt xiêm.

- Tốc hương, sắc vàng lợt, hương đượm, thường bao chung quanh kỳ nam, cho nên có nhiều gân nhiều điểm kỳ nam lẫn vào. Nếu dầu nhiều thêm thì tốc trở thành kỳ. Tốc hương thơm hơn các thứ tốc khác.

Trầm hương (kỳ và trầm) do cây gió sanh ra. Đó là việc trước mắt. Còn vì sao lại riêng cây gió sanh được trầm hương còn các giống cây khác lại không có, và trầm hương kết tạo cách thế nào, do tinh ba của cây kết tụ lại mà hình thành hay do một chất hương ở ngoài bay vào thân cây rồi cùng nhựa cây tạo tác, thì chưa người nào, chưa có sách vở nào giải thích cho đích đáng.

Người thì bảo rằng: Hương trời bay theo gió đáp vào thân cây, ban đầu dính ngoài vỏ rồi ăn lần vào thịt, rồi nhờ chất nhựa của cây biến chế và di chuyển đi nhiều nơi. Lâu ngày thịt cây thấm hương thành trầm. Và trầm biến thành kỳ nam do phân chim rơi nhằm, hoặc do một thứ nấm bám vào.

Người lại bảo: Cây gió sanh trầm hương cũng như con trai sanh ngọc. Nhánh cây, thân cây hoặc rễ cây bị thương tích. Chất dầu trong cây tụ tập để chống lại sự phá hoại của vết thương. Khi vết thương lành rồi thì chất dầu đọng lại đó dần dần thay tánh chất của gỗ và tạo thành trầm hương. Chỗ nào dầu đọng nhiều thì thành kỳ, chỗ nào dầu đọng ít thì thành trầm. Và do vị trí cùng « cơ cấu xã hội » của từng đoạn trong thân cây mà sanh ra nhiều thứ kỳ nhiều thứ trầm.

Đó chỉ là ức đoán chớ chưa ai ra công nghiên cứu kỹ càng. Cho nên đành biết đại khái rằng trầm hương từ nơi cây gió mà sinh ra. Nhưng không phải cây gió nào cũng sanh trầm hương. Có nhiều cánh rừng cây gió mọc đầy nhưng xưa nay chưa hề nghe nói có trầm hương. Thường thường trong một cánh rừng thăm thẳm chỉ có một vài cây gió có trầm hương. Và những cây gió có trầm hương đều là những cây sống đã lâu đời, thân cao ngó trật ót, gốc lớn đến hai ba người ôm. Những cây có trầm hương thường bị xơ xác và thân có u có nầng. Lắm cây nổi phồng ra như « ruột chửa », hoặc như bắp chuối. Trong rừng có cây trầm hương thì thỉnh thoảng có mùi hương phảng phất. Người đi điệu (tức đi tìm trầm) nhờ mùi hương và nhờ hình thù của cây mà tìm ra được trầm hương.

Tìm ra được trầm hương không phải là việc dễ. Người Khánh Hòa, nhất là người đi điệu, tin rằng trầm hương là của bà Thiên Y A Na. Bà cho ai thì người ấy được. Bằng Bà không cho thì dù đứng một bên cũng không tìm thấy. Có đôi kẻ có phước, không cố tâm đi tìm mà tự nhiên Bà cho hưởng lộc. Lại truyền rằng Bà có 4 cây trầm hương kỳ cựu trấn bốn phương:

- 1 ở Đồng Bò trấn phía Nam

- 1 ở Hòn Bà Ninh Hòa trấn phía Bắc

- 1 ở Hòn Dữ Diên Khánh trấn phía Tây

- 1 ở Suối Ngổ trấn phía Đông.

Những cây trầm nầy không còn lá không còn dác, mưa nắng không thể làm hư mục được. Và có chim rừng canh, cọp rắn giữ. Hễ ai trông thấy mà có ý muốn chiếm hữu thì liền bị « lính canh giữ của Bà » đánh đuổi.

Bởi v