Phần Thứ Ba - Thắng Cảnh Cổ Tích (tt) V. THÀNH DIÊN KHÁNH VÀ LĂNG BÀ VÚ
Ở Khánh Hòa thắng cảnh nhiều hơn cổ tích. Thắng cảnh chúng ta đã xem qua những nơi có thể đến xem được. Còn cổ tích thì có:
- Tháp Poh Nagar tức Tháp Bà chúng ta đã thấy rồi.
- Phế lũy Chiêm Thành ở vùng Bắc Vĩnh Xương. Thời Gia Long còn một đoạn. Niên hiệu Minh Mạng thứ 17 (1836) bị san bằng. Hiện không còn dấu tích.
- Bia Võ Cạnh, bằng đá xanh, cao lớn, khắc chữ Phạn. Theo các nhà khảo cổ thì bia nầy dựng từ thế kỷ thứ II, để định biên giới của Phù Nam và Chiêm Thành. Bia dựng dưới một gốc cổ thọ làng Võ Cạnh, quận Vĩnh Xương, bị cỏ bìm phủ lấp không mấy người để ý.
Đó là di tích của Chiêm Thành. Còn của người Việt Nam thì có:
- Lục Đồn là một đồn bằng đất ở phía Đông Nam núi Trại Thủy. Chu vi 36 trượng 4 tấc, cao 7 thước 5 tấc. Không biết đắp thời nào. Sau khi Nguyễn Ánh thắng được nhà Tây Sơn, có tu bổ lại để phòng ngự mặt biển. Qua triều Minh Mạng, bị phá hủy. Hiện không còn dấu tích.
- Thành Diên Khánh ở cách thành phố Nha Trang 10 cây số về hướng Tây. Đây là một di tích lịch sử của người Việt Nam còn sót lại trên đất Khánh Hòa.
- Lăng Bà Vú ở Ninh Hòa.
A) THÀNH DIÊN KHÁNHThành nằm trên địa phận hai thôn Phú Mỹ và Trường Thạnh (nay là thôn Khánh Thành, xã Diên Thạnh). Chung quanh đắp đất, chu vi 336 trượng 4 thước, cao 8 thước 5 tất. Trổ 6 cửa ra vào, xây gạch kiên cố, trên có vọng lâu tứ diện thông phong. Ngoài thành có hào sâu 8 thước, rộng 4 trượng, và luôn luôn đầy nước do sông Cái tháo vào. Để vào ra, trước các cửa thành đều có xây cầu vồng bằng gạch. Chung quanh hào lại có lũy bao bọc và có trại canh gác. Cho nên thành tuy bằng đất nhưng rất kiên cố. Địch muốn công phá không phải dễ dàng.
Thành Diên Khánh do Nguyễn Phúc Ánh xây đắp năm Quí Sửu (1793) 15. Ban sơ, các cửa thành đều bằng đất, và có đến sáu cửa. Năm Thiệu Trị thứ bảy (1847) lấp bớt hai cửa và xây bốn cửa gạch kiên cố. Đến thời Pháp thuộc lại lấp thêm hai cửa tiền và hậu. Hiện nay chỉ còn cửa Đông và cửa Tây. Từ đời Gia Long đến cuối thời Pháp thuộc, Thành Diên Khánh là nơi đóng cơ quan đầu não địa phương của nhà Nguyễn. Trong thành có Hành Cung của nhà vua, có dinh thự của các quan thủ hiến, có những Ty, Tào, đồn, trại. Tòa ngang dãy dọc, kèo chạm cột sơn… Quang cảnh thật trang nghiêm khang phú. Phong quang rực rỡ nhất về triều Thiệu Trị (1840-1847) Tự Đức (1847-1883).
Đến cuối triều Hàm Nghi, năm Ất Dậu (1885), nghĩa binh Cần Vương lấy thành làm cơ sở kháng chiến. Quân Pháp nã súng đại bác vào tàn phá hết một số dinh thự 16. Sau khi chiếm trọn được lãnh thổ Việt Nam, thực dân Pháp liền phá hủy vòng lũy và lấp cạn vòng hào ở quanh thành, lại triệt hạ cửa tiền và cửa hậu. Từ ấy cảnh hào hoa mỗi ngày mỗi giảm sút.
Mùa xuân năm Ất Dậu (9-3-1945) Nhật đảo chánh Pháp. Quyền cai trị giao cho Triều Đình Huế. Cơ quan tỉnh Khánh Hòa bỏ thành Diên Khánh, dời xuống Nha Trang. Cơ quan hành chánh phủ Diên Khánh dời vào thành. Lúc bấy giờ dinh thự đã hư quá nửa vì lâu đời. Quang cảnh thật tiều tụy.
Sang thời chiến tranh Việt Pháp, những công thự trong thành hoàn toàn bị phá hủy. Hiện nay dấu xưa còn lại chỉ có nhà lao xây đá ở gần cửa Đông! Còn vòng thành bằng đất, trên 80 năm trời mưa nắng, không được bồi đắp, nên trụt thấp lần lần. Lại thêm bìm lau xâm lấn, trông không còn vẻ hùng tráng của ngày xưa. Tuy vậy, đối với những người háo cổ, một viên gạch xưa còn sót lại vẫn là vật đáng giá vàng châu. Cho nên đã không đủ sức gìn giữ thành Diên Khánh cho trọn vẹn như xưa, tưởng không nên nhẫn tâm phá hủy như thành Quảng Nam, Bình Định. Truyền rằng từ ngày giặc Pháp đánh thành Diên Khánh, ngoài một số chiến sĩ ra, lương dân trong thành nhiều người bị thiệt mạng. Oan hồn không tiêu, hóa thành ma quái. Những đêm thanh gió mát, người ta thường trông thấy bóng ma đi thơ thẩn chung quanh dinh trại và hành cung. Có lắm người bị vương vẩy, phải cung kính mới nạn khỏi tai qua. Hay quấy quá nhất là ba nữ quái, tục gọi là Ba Cô. Ba Cô, cô nào cũng trẻ cũng đẹp. Nhiều khi hiện hình cả lúc ban ngày và nói cười như người sống. Những chàng trai trẻ không biết, có điều bất kính, thường bị bắt đau ốm có khi đến điên cuồng. Quan Tỉnh lo sợ lập một am nhỏ ở trước dinh thờ phụng. Từ ấy bớt tác quái và ai cầu gì cũng linh thiêng. Am ấy gọi là Am Cô. Thời Pháp thuộc, tất cả các quan đầu tỉnh đều tỏ lòng cung kính. Khói hương không mấy lúc tàn.
Dưới triều Thành Thái (1889-1907) một viên thừa phái trẻ tuổi, có tiếng là háo sắc, đổi vào làm Ty Niết Khánh Hòa. Thầy thừa ăn cơm tháng nhà bạn và mướn nhà ở riêng một mình. Một đêm ngồi một mình, thấy có bóng người qua qua lại lại ở trước ngõ, dáng như chờ đợi cuộc hẹn hò. Thầy bước ra xem thì thấy một người con gái có nhan sắc. Buông lời trêu ghẹo. Người con gái nhoẻn miệng cười. Lại gần cầm tay. Không chút kháng cự. Thích quá kéo vào nhà bày chuyện mây mưa. Sáng hôm sau không thấy thầy thừa đến Ty, quan cho người đến gọi. Trước sau vắng vẻ. Xô cửa vào phòng, thấy thầy thừa cùng một mụ ăn mày rách rưới bẩn thỉu ôm nhau nằm ngủ ngon lành. Đánh thức dậy, thầy thừa hoảng hốt, mụ ăn mày cũng hoảng hốt, bỏ chạy như người điên. Sau khi đã bình tĩnh trở lại rồi, thầy thừa mới thú thật mọi nỗi. Ai nấy đều cho là bị ma mà mắc, trông gạch nát hóa vàng mười! Và ai cũng đoán chắc rằng là Ba Cô trừng trị để thầy chừa thói trăng hoa. 17
Dưới triều Duy Tân (1907-1916) lại xảy ra một chuyện nữa, cũng như chuyện trên, khó tin rằng có, khó ngờ rằng không! Thời bấy giờ cụ Đào phan Duân, đậu phó bảng, người Bình Định, ngồi Tuần Vũ. Nhân ngày Quốc Khánh mồng 2 tháng 5 (Gia Long phục quốc), cụ rước bạn hát Bình Định vào hát mừng. Các kép nổi danh trong tỉnh đều có mặt. Cầm đầu toàn ban là Bát Phàn, Cửu Khi và Chánh ca Đựng.
Ngày mồng 2, sau khi bái mạng ở Hành Cung rồi, thì khởi sự hát cho đến xế. Buổi chiều bạn hát nghỉ để dưỡng sức hát buổi tối. Đèn vừa đỏ, trong dinh tuần vũ, các quan cùng thân hào nhân sĩ lo vào tiệc để rồi đi xem hát cho sớm. Ngoài rạp, đào kép đã vẽ mặt bận áo xong xuôi, ngồi đợi các quan ra khai mạc.
Bát Phàn, Chánh ca Đựng và Cửu Khi đương ngồi uống nước dưới trang Tổ, chợt thấy ba người thiếu nữ ăn mặc theo kiểu thành thị và toàn đồ trắng, má phấn môi son, đầu trần, tóc bỏ xõa, vẹt màn bước vào, tươi cười nói: « Lũ bay ra làm tuồng cho chị em ta coi. Khi sáng mắc đi vắng không được thưởng thức tài nghệ Bình Định ».
Mọi người đều tưởng là người trong dinh. Bát Phàn đáp: « Chúng tôi không được lệnh. Nếu quí cô muốn xem sớm thì vào xin phép cụ ».
- Lũ bay vào xin đi.
- Chúng tôi không dám.
- Chị em ta cũng không dám.
Nói rồi biến mất. Chừng ấy mới biết là ma.
Thấy trước dinh tuần vũ có am thờ, anh em nghệ sĩ hỏi ra mới hay ma đó là Ba Cô thờ trong am. Ai nấy đều thất kinh! Câu chuyện không mấy chốc truyền khắp tỉnh Khánh Hòa rồi truyền ra đến Bình Định. Lúc cụ Đào phan Duân làm Tuần Vũ Khánh Hòa thì ông Nguyễn Đình Văn làm Án sát. Quan án đàn rất hay. Một đêm quan đốt trầm, một mình ngồi gảy đàn, thì bỗng nghe tiếng họa từ trong vách đưa ra. Âm thanh tuyệt diệu. Quan ngờ rằng Ba Cô ngoài am trêu cợt, nên bình tâm chính ý ngồi gảy cho hết khúc đàn.
Khúc đàn dứt, một người đàn bà diễm lệ xô cửa bước vào. Quan án giật mình! Người đàn bà cười, nói: « Thiếp không phải một trong Ba Cô thờ nơi am, mà là người có lương duyên cùng quan án ».
Nói đoạn, ung dung đến ngồi nơi kỷ và tiếp: « Thiếp là ma, nhưng không có tà ý. Cảm phục ngón đàn của quan lớn nên không nề u hiển, đến xin đươc kết duyên sắc cầm ».
Người đẹp như hoa, giọng nói trong như ngọc. Trong đêm thanh vắng, không mấy ai có thể làm Liễu hạ Huệ hay Nhan thúc Tử, mặc dù biết đó là ma. Cho nên quan án Nguyễn Đình Văn đã cùng người đẹp vầy cuộc ái ân, nơi văn phòng tĩnh mịch. Đêm nầy sang đêm khác, « đêm xuân tàn, xuân lại còn đêm ». Nhưng người ngoài và cả vợ con trong nhà không một ai hay biết.
Một hôm quan án, sau buổi làm việc, đến chơi dinh Tuần Vũ. Cụ Đào cầm ở lại ăn cơm tối rồi đánh tổ tôm cho vui. Ông Nguyễn từ chối. Cụ Đào có ý bất bình. Ông Nguyễn phải đem chuyện kín của mình ra thú thật, và nói: « Ban ngày đi đâu thời đi, làm gì thời làm. Nhưng từ lúc lặn mặt trời cho đến gà gáy sáng thì phải dành trọn cho nàng. Có việc thì phải báo trước. Nếu không tất bị nhiều chuyện cực lòng ».
Cụ Đào tin lời, không nỡ ép. Sau đó ông Nguyễn được thăng Phủ doãn Thừa Thiên. Người đàn bà ma cũng theo về Huế. Không bao lâu quan Phủ doãn thất lộc. Không biết tại số hay tại ma. 18
Cuộc đời trải nhiều dâu bể. Những chuyện xưa hoang đường cũng như thực hữu, đã cùng cung đình dinh trại trong thành Diên Khánh, theo mây khói tan vào cõi hư vô. Hiện nay cơ quan hành chánh quận đóng trong thành. Cảnh vật đã thay đổi mới. Những người qua lại hằng ngày cũng như những người đến thăm chơi chốc lát, không mấy ai đi sâu vào những nơi lấp cỏ mờ rêu, để bâng khuâng chút lòng cảm cựu. Gần đây Cổ bàn Nhân đến viếng thành, có mấy vần cảm tác:
Thành cũ đìu hiu vách nắng mưa,
Phong quang một mảnh bể dâu thừa.
Cờ lau phất gió cung rồng lấp,
Búa nguyệt mài sương ngục thép lưa!
Theo mới bụi lầm xe ngựa mới,
Tìm xưa tro lạnh miếu am xưa!
Bên hào sen lụn chân dừng bước,
Tiếng địch chiều thu trận cúc đưa.
B) LĂNG BÀ VÚLăng ở thôn Mỹ Hiệp, cách quận lỵ Ninh Hòa chừng một cây số.
Kiểu thức rập theo các lăng vua ở Huế. Tuy không nguy nga tráng lệ bằng lăng vua, nhưng ở miền Nam Trung Việt không thấy ngôi mộ nào có thể sánh về qui mô cũng như về kiến trúc.
Lăng nằm dưới chân một ngọn đồi, mặt hướng về Đông Nam. Hình chữ nhật. Có ba lớp thành:
- Thành ngoại, chiều ngang chừng 12 thước, chiều vô ra chừng 20 thước, chiều cao chừng một thước năm. Ở mặt trước có chừa cửa. Hai bên cửa có hai trụ ba biểu đội hai con kỳ lân ngồi đối diện. Phía trong cửa một bức bình phong cao rộng đứng chắn ngang. Lưng thành cao hơn mặt thành và xây hình cánh cung.
- Qua khỏi bình phong đến lớp thành thứ nhì. Cao chừng một thước. Cửa thành núp sau bình phong, và hai bên cũng có hai con kỳ lân ngồi đối diện.
- Vào khỏi cửa đến lớp thành thứ ba ôm lấy phần mộ. Thành thấp. Phía trước có nhà bia khắc bài ký ghi công đức của người dưới mộ.
Trên mặt tường phía trong lăng đắp nhiều hình ảnh nhiều tranh cảnh, nét đắp tinh xảo, như lưỡng long triều nguyệt, ngư tiều canh mục, Trúc Lâm thất hiền…
Lăng nầy của vua xây. Truyền rằng 19 : Nguyễn phúc Ánh bị quân Tây Sơn đuổi đánh. Chạy đến Mỹ Hiệp thì trời vừa tối. Bộ hạ vừa mệt vừa đói, Nguyễn Ánh lại thụ bệnh, không thể đi được nữa. Tình cảnh thật nguy khốn. Một người đàn bà trong thôn thấy vậy, đem về nhà cho ăn uống và lo thuốc thang. Nhờ đó mà thoát nạn.
Đến khi lên ngôi cửu ngũ, Nguyễn Ánh nhớ công ơn, muốn đền đáp, thì người ơn đã qua đời. Không rõ tên họ là gì nhà vua bèn phong hiệu là Nhũ Mẫu tức Bà Vú và truyền bộ Công đưa thợ vào xây dựng lăng. Nhà vua lại cấp cho một sở ruộng giao cho làng sở tại làm ruộng hương hỏa.
Mỗi năm đến ngày kỵ của bà, là ngày 12 tháng chạp âm lịch, quan tỉnh Khánh Hòa phải ra đứng chủ tế.
Lệ ấy từ ngày Pháp đô hộ Việt Nam, không còn thi hành nghiêm chỉnh. Và đến ngày toàn dân đứng lên chống Pháp, thì bỏ hẳn.
Ngày nay hương khói đã lạnh lùng mà phần mộ của bà cũng bị bìm lau lấp kín. Đường đi đến lăng lại bị phá hoại. Khách du quan muốn đến viếng không thể nào đi đến nơi!
Về Cổ Mộ Khánh Hòa còn nhiều như:
- Ngôi mộ ở sau trường Võ Cạnh, quận Vĩnh Xương.
- Ngôi mộ ở trước chùa Kim Liên tại ấp Đông Dinh quận Diên Khánh.
- v.v…
Nhưng kiểu thức không có gì đặc biệt.
Ngôi mộ ở Võ Cạnh truyền là của một vị tướng bị tử trận, đầu bay từ nơi chiến trường về đến làng quê. Nhưng hỏi họ tên và thời đại, người địa phương ở gần mộ đều cười « thông qua ».
Còn ngôi mộ trước chùa Kim Liên của ai cũng không ai biết. Nơi bia chỉ khắc « Tổ khảo chi mộ » và hai bên khắc câu đối:
Thiên sanh tàng bạch cốt,
Vạn cổ giám trung trinh.
Nghĩa là:
Nghìn đời chôn cốt trắng,
Muôn thuở rạng lòng trung.
Mộ quay đầu ra Bắc, chân trở vào Nam. Lấy hòn Dữ ở Diên Khánh làm hậu đầu và hòn Đồng Bò ở phần đất Diên Khánh làm tiền án. Theo cách phân hướng và tinh thần câu đối, thì người trong mồ là người có quyền vị của thời trước chớ không phải người bạch đinh. Nhân nói về Lăng Bà Vú, cũng có nói qua cho vui vậy.
VI. NHỮNG NƠI THỜ PHỤNGCoi như thắng cảnh cổ tích những nơi thờ phụng, như đền miếu, chùa chiền, xây cất đã trên trăm năm, hoặc dưới trăm năm mà có những dấu tích cũ, sự tích xưa đáng lưu truyền, hay có những phong cảnh đẹp, kiến trúc lạ đáng thưởng ngoạn.
Về phương diện tôn giáo không đề cập ở chương nầy. Nếu có nói qua, cũng chỉ để tô điểm cho cảnh vật mà thôi. Điều cốt yếu là đưa ra những cái xưa, cái lạ, cái đẹp, cái thú trong những cảnh vật hoặc đã mất hình nhưng còn bóng, hoặc đương còn hình tướng nhưng cái còn đó chỉ là hậu thân…
A) ĐỀN MIẾUTỉnh Khánh Hòa, cũng như các tỉnh khác ở Trung Việt, thời xưa đều có đắp những đàn để tế Trời Đất, tế Núi Sông, tế Quỉ Thần, như:
- Đàn Xã Tắc ở ngoài cửa Tây thành Diên Khánh. Đó là đàn tế Trời Đất, dựng năm Minh Mạng thứ 13 (1832). Đàn lộ thiên. Hai tầng đắp bằng đất. Tầng dưới vuông 10 trượng 4 thước 5 tấc, cao 1 thước 3 tấc. Tầng trên vuông 4 trượng 2 thước 3 tấc, cao 2 thước 5 tấc. Mặt xây về hướng Bắc. Đàn Xã Tắc ở các tỉnh là hình ảnh thâu nhỏ của đàn Xã Tắc ở Kinh Đô Huế. Quan đầu tỉnh thay mặt nhà vua đứng tế.
- Đàn Tiên Nông ở ngoài cửa Đông thành Diên Khánh. Đàn tế Thần Nông. Xây năm Minh Mạng thứ 13, sau khi xây xong đàn Xã Tắc. Đàn cũng bằng đất, một tầng. Vuông 3 trượng 6 thước, cao 2 thước 7 tấc.
- Đàn Sơn Xuyên ở ngoài cửa Tây thành Diên Khánh.
- Đàn tế Sông Núi. Xây năm Tự Đức thứ 5 (1852). Một tầng. Cũng bằng đất, cao rộng tương tự đàn Tiên Nông.
Những đàn nầy đã đổ nát từ ngày phong kiến nhường bước cho thực dân và hiện nay đã bị cào bằng thành bình địa không còn mảy may dấu tích!
Đó là những nơi tế tự dành riêng cho giai cấp cai trị địa phương. Chung cho mọi tầng lớp nhân dân là các đền các miếu. Những đền miếu quan trọng, tên được ghi vào sử sách, thân còn vững với nắng mưa, hiện nay không còn được mấy:
- Ở Diên Khánh có: Miếu Thái Tử, Đền Thiên Y A Na, Miếu Văn Thánh, Miếu Thành Hoàng, Miếu Hội Đồng.
- Ở Vĩnh Xương có: Miếu Sinh Trung, Đền Quá Quan.
- Ở Vạn Ninh có: Đền Mã Cảnh, Đền An Lương.
Còn một số ít nữa, tên tuy không thấy trong sách vở, nhưng danh được miệng thế truyền đi xa, như: Miếu cây Dầu Đôi, Cây Me ở Diên Khánh, Miếu Lỗ Lườn ở Ninh Hòa, v.v…
Những đền miếu nầy, qui mô không được rộng lớn, kiến trúc không có gì kỳ mỹ, cách trang trí cũng không lấy gì làm sang trọng xứng đáng với những vị thờ trong miếu trong đền. Lại thêm không được săn sóc thường xuyên, nên quang cảnh nhiều nơi hết sức tiêu điều ảm đạm. Người vãng cảnh nếu không nặng lòng cảm cựu thì không mấy ai có thể đứng lâu.
1) MIẾU THÁI TỬỞ tại Xuân Đài, thôn Phước Lương, xã Diên Phước. Miếu đứng dưới chân Hòn Ngang, cuối Đồng Lớn. Bên cạnh có một bụi tre sum sê và trước mặt một con mương gọi là Mương Hai chạy quanh co từ thôn Đảnh Thạnh vào Đồng Lớn. Miếu là một tiểu đình, mái ngói cột săn, tứ diện thông phong, đứng che một tảng đá vuông vức, mỗi chiều trên một sải, nằm giữa một đám đá lởm chởm. Trong miếu không có bàn thờ. Từ khí từ vật là một bàn cờ bằng đá có đủ bộ con cờ cũng bằng đá, một đôi giày đá và một bộ cối chày đá. Truyền rằng tảng đá vuông kia là tượng của Thái Tử. Hỏi Thái Tử là ai thì người địa phương đáp rằng là con vua Tần. Vua Tần tức là Vua Chàm. Tên nhà vua là gì không ai biết. Hỏi vì sao lại lấy tảng đá làm tượng, cũng không ai biết vì sao. Chỉ xưa thờ sao nay thờ vậy.
Miếu đã trùng tu nhiều lớp. Truyền rằng rất linh thiêng. Trong vùng, mỗi lần có người gặp chuyện oan ức nan giải, thường đem nhau đến miếu thề thốt. Thề xong cầm chày đá giã vào cối, vừa giã vừa lặp lại lời thề. Nhiều khi rất linh ứng. Vì vậy nhân dân địa phương rất kính sợ, không ai dám xâm phạm và ít người dám đến gần.
2) ĐỀN THIÊN Y A NAThường gọi là Am Bà, ở trên hòn Qua Sơn tức Núi Chùa, Trong thôn Đại Điền Trung, quận Diên Khánh 20. Truyền rằng bà Thiên Y Na giáng trần tại đây, và hiển thánh tại núi Cù Lao. Cho nên ở Cù Lao có tháp ở đây có đền. Đền lập đã lâu đời và đã trùng tu nhiều lớp. Trong đền có thần tượng bằng mít. Thời kháng chiến chống Pháp tượng bị hư, nhân dân địa phương tạc lại một tượng bằng thạch cao, thay thế. Ngôi đền không mấy đẹp. Nhưng phong cảnh chung quanh thật thanh kỳ. Phía sau, núi cao đá dựng, cây cối vướng víu cùng khói mây. Trước mặt, đồng lúa xanh bát ngát, và nhà cửa ẩn hiện trong vườn chuối bờ tre. Sau núi có hang cọp. Truyền rằng xưa kia có một con cọp mun ẩn náu. Cọp tu nên rất hiền, không bao giờ phạm sát. Trước đền có hai cây mã tiền, tức cây cổ chi sống lâu đời, cội cao tàn cả. Dưới gốc cây có mộ ông Tiều bà Tiều là cha mẹ nuôi của bà Thiên Y. 21
Thời thái bình, đền Thiên Y rất được du khách chú ý. Các tay phong nhã cũng thường đem nhau đến ngâm vịnh. Ai nấy đều khen là cảnh nên mộng nên thơ và đều say với cảnh:
Hương trầm thoảng vị gió đưa,
Mây trương cánh hạc nghìn xưa chập chờn.
3) VĂN MIẾUThờ đức Khổng Tử và tứ phối. Ở thôn Phú Lộc, quận Diên Khánh. Xây cất năm Gia Long thứ hai (1803). Trước kia ở phía trên nổng gò tục gọi Hòn Tháp 22. Sau bị lụt xói sông Cái lở vào tận chân miếu, nên phải dời miếu xuống hướng Đông. Đó là vào năm Tự Đức thứ hai (1849).
Trước kia văn miếu cũng không rộng lớn lắm. Đến đời Pháp thuộc, nhất là sau khi chữ Hán cáo chung, việc tu bổ lơ là dần dần. Rồi đến thời kháng chiến chống Pháp thì bị sập đổ nhiều nơi. Hiện nay miếu chỉ còn là một ngôi nhà ngói ba gian hai chái, trung trung, và cũ kỹ.
Bên cạnh miếu, dưới gốc một cây cổ thọ, có một bàn thờ xây gạch. Đó là bàn thờ Chúa Sơn lâm, tức là Cọp. Mỗi lần tế miếu, đều đem một tợ thịt heo ba sườn ra đặt nơi bàn thờ. Truyền rằng: Lúc miếu còn ở phía Tây, cũng như khi miếu đã dời sang Đông, hễ tế xong thì cọp đến tha thịt đi. Lúc đến cũng như lúc đi, cọp tỏ vẻ hiền lành như một con gia súc. Lại có lắm đêm cọp về nằm ngủ nơi bàn thờ. Ngủ đã giấc rồi đi chớ không bao giờ làm hại đến người hoặc súc vật. Từ ngày bỏ cúng tế theo cổ tục, cọp không về nữa.
Khi xưa lựa thôn Phú Lộc để lập Văn Miếu, một là vì thôn ở bên nầy sông, đối diện cùng tỉnh thành ở bên kia sông, cách mà không xa, việc đi lại tiện lợi. Hai là vì thôn Phú Lộc là một thôn trù phú và có nhiều nhân vật có uy danh. Trong thôn, gần Văn Miếu, có Trường Văn và Trường Võ. Cạnh trường võ có lò đúc súng, gọi là lò Gang. Ở xóm Đông lại có lò làm giấy. Nhờ vậy mà thời phong kiến thịnh vượng, thôn Phú Lộc nổi danh nhất Diên Khánh. Và con sông Cái được mang tên Phú Lộc vào sử sách, mặc dù sông chảy qua nhiều thôn. Cũng nằm trong thôn Phú Lộc, miếu Hội Đồng và miếu Thành Hoàng.
4) MIẾU THÀNH HOÀNGMiếu cất trên ngọn đồi Sơn Lâm, ở phía Đông Bắc văn miếu. Dựng năm Thiệu Trị thứ năm (1845). Sơn Lâm là một ngọn đồi bằng đá đứng giữa đồng bằng. Hình tròn đỉnh nhọn. Cây cối sầm uất. Bên đồi có một ao nước rộng chừng một sào. Bóng núi ngã vào ao trông như ngòi bút lông chấm vào nghiên mực. Do đó người địa phương gọi đồi là hòn bút, gọi ao là dĩa nghiên. Tức là Bút Sơn và Nghiên Trì. Khi quan Tỉnh chọn ngọn đồi để cất miếu Thành Hoàng, các nhân mỹ trong thôn không bằng lòng, song phép quan không dám cãi. Đỉnh núi bị phá bằng. Cây cối bị đốn trụi để lấy gỗ làm miếu. Hòn Sơn Lâm không còn giữ được quang cảnh thâm u của nghìn xưa. Truyền rằng: Trước khi Hòn Sơn Lâm chưa bị xâm phạm thì trong thôn có nhiều người học hành phát đạt. Nhưng từ khi « ngọn bút bị tà » thì việc học lần lần bị sút kém và văn phong văn khí không còn thịnh vượng như xưa.
5) MIẾU HỘI ĐỒNGNằm phía Nam miếu Thành Hoàng. Cất năm Gia Long thứ mười lăm (1816) bằng tranh. Trùng tu năm Tự Đức thứ hai (1849) lợp ngói. Ở Bình Định cũng có miếu Hội Đồng ở An Nhơn. Nhưng ở Bình Định thờ khác, Khánh Hòa thờ khác. Bình Định thờ Tam Giáo Đạo Sư:
- Ở giữa thờ Phật với tượng Tam Thế.
- Phía Tả thờ Tiên với tượng Tam Thanh.
- Phía Hữu thờ Thánh với tượng Tam Tòa. 23
Còn ở Khánh Hòa lại thờ Thần: Dương Thần và Âm thần. Có sáu bài vị:
- Hội Đồng Thượng đẳng Dương Thần.
- Hội Đồng Trung đẳng Dương Thần.
- Hội Đồng Hạ đẳng Dương Thần.
- Hội Đồng Thượng đẳng Âm Thần.
- Hội Đồng Trung đẳng Âm Thần.
- Hội Đồng Hạ đẳng Âm Thần.
Miếu ở Bình Định đã bị thời gian làm đổ nát rồi tay người hủy hoại từ lâu. Còn miếu ở Khánh Hòa gần đây đã biến thành trường. Trước miếu hiện còn cây cổ chi tức cây Mã tiền, sống lâu đời, thân cao tàn cả. Những gì của ngày xưa còn lại chỉ tìm thấy nơi gốc cổ thọ nầy.
6) TAM TÒAMiếu ở phía Đông Miếu Hội Đồng. Không biết cất thời nào vì Đại Nam Nhất Thống Chí không thấy chép. Có lẽ do địa phương đứng cất nên không được sử sách ghi tên. Ở Bình Định cũng có đền Tam Tòa, gọi là Tam Tòa Sơn Thần Từ. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí thì đền nầy do người Chiêm Thành lập ra để tỏ lòng nhớ ơn Oai Minh Vương con thứ tám vua Lý Thánh Tông, vì đã có công giúp vua Chiêm dẹp yên loạn trong nước. Sau vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành đến cửa Thi Nại, lên đền cầu đảo và phong làm « Tam Tòa Sơn chi thần ». Đền ở trên núi Phương Mai, tại biển Qui Nhơn. Nhưng theo lời các bậc phụ lão địa phương thì đền Tam Tòa Phương Mai do người Việt Nam lập để thờ chư vị thánh mẫu:
- Trên hết thờ: Đệ Nhất Thiên Thai, Đệ Nhị Thiên Đế, Đệ Tam Thiên Vị.
- Rồi đến: Tây Cung Vương Mẫu.
- Tiếp theo: Thập Nhị Tiên Nương, tục gọi 12 bà mụ, Lục thập Bổn Mạng Tiên Bà.
Đó là chỉ nghe truyền, chớ hiện thời đền không còn mảy may dấu tích, nên không biết sách chép đúng hay lời trong thế gian đúng. 24
Còn Tam Tòa ở Khánh Hòa thì gồm có ba ngôi:
- Ngôi chính thờ bà Thiên Y A Na với mười bản sắc của vua nhà Nguyễn phong tặng.
- Ngôi bên tả thờ thần Bạch Mã.
- Ngôi bên hữu thờ thần Ngũ Hành.
Và theo lời các vị phụ lão địa phương thì đền gọi là Tam Tòa bởi vì đền gồm có ba ngôi vậy. Đền không lấy gì làm đồ sộ nguy nga, song trang nghiêm thanh tịnh. Du khách bước chân vào đền tự nhiên cảm thấy bầu không khí linh thiêng huyền bí vây bọc chung quanh. Dù kẻ khinh bạc đến đâu cũng không dám hỗn xược phá phách. Nhờ vậy nên trải nhiều cơn dâu bể, đền vẫn không bị hư hại bởi tay người.
7) MIẾU CÂY DẦU ĐÔIMiếu ở ấp Phật tỉnh, thôn Phú Ân Nam, cạnh Quốc Lộ số 1 về phía Nam. Miếu thờ thần « Quan Đại Thánh ». Vì nằm dưới bóng cây dầu đôi, nên người đời lấy tên cây mà gọi miếu.
Cây Dầu Đôi là một « cổ tích » của Khánh Hòa. Cây sống trên trăm năm. Một gốc hai thân. Mỗi thân lớn đến ba ôm và cao cũng đến mười lăm hai mươi thước, đứng song song như hai trụ kinh thiên, trông thật hiên ngang ngạo nghễ. Cây Dầu Đôi chẳng những làm tên cho miếu mà còn làm tên cho cả vùng. Người ở các nơi bảo đến Phật Tỉnh thì có lắm người không biết là nơi nào chớ nói đến cây Dầu Đôi thì không một ai không biết. Người địa phương rất quí trọng Cây Dầu Đôi. Quí trọng vì tuổi tác vì lợi ích. Chẳng những quí trọng mà còn kính sợ e dè. Đó là vì cây đứng cạnh miếu, mà miếu lại có tiếng rất linh.
Truyền rằng: Thời Pháp thuộc, có một lúc cả vùng Cây Dầu Đôi bị bệnh dịch hạch, người chết khá nhiều. Thần đạp đồng lên cho biết rằng có ba con quái thử to lớn đã đem tai nạn đến gieo rắc trong vùng. Chúng ẩn trong hang dưới bụi duối sau miếu. Thần ban cho ba đạo phù, bảo đem đốt ở nơi miệng hang, rồi đào miệng hang cho rộng, lấy vôi bột đổ vào. Chung quanh hang lại bao lưới. Nếu quái vật chết trong hang thì thôi, bằng chạy ra ngoài thì lấy vôi vãi lên mình và lấy gậy đứng xa mà đánh. Người trong thôn làm theo và giết chết được ba con chuột cống lớn tày bắp vế. Lại theo lời thần dạy, những nhà có người chết đều rải vôi, và người sống phải tránh xa trong một thời gian. Nhờ vậy mà nạn dịch dứt. Người trong thôn trước kia đã tin thần linh, từ ấy lại càng tin thêm. Sau rồi mới biết ba con chuột kia vốn của Viện Pasteur nuôi để làm thí nghiệm về thuốc trị dịch hạch. Ba con chuột bị sẩy. Nhân viên ở viện chỉ tìm quanh quẩn trong vùng Nha Trang, không ngờ chúng chạy lên đến Diên Khánh.
Ngoài chuyện trừ bệnh dịch hạch rất khoa học, người địa phương mỗi lần có việc đến cầu đảo, Thần đều ứng vào mộng hoặc vào đồng vào cơ. Nhưng lần lần lòng người tin khoa học hơn tin thần thánh, miếu Cây Dầu Đôi cũng lần lần bớt linh thiêng. Tuy vậy người địa phương đối với miến với thần vẫn còn kính sợ, và hương khói vẫn còn đượm nồng.
8) MIẾU CÂY MEMiếu thuộc địa phận thôn Phú Ân Nam, cách miếu Cây Dầu Đôi chừng vài trăm thước, bên cạnh đường Quốc Lộ số 1. Thờ Phấn Nhĩ Quỉ Vương Thần Nữ, nhưng vì nằm dưới gốc cây me cổ thọ nên gọi là Miếu Cây Me.
Cây Me nầy sống đã lâu đời lắm, lâu đời hơn Cây Dầu Đôi rất nhiều. Gốc to đến mấy ôm và ruột bộng. Tán rộng, nhánh gân guốc khẳng khiu. Đây cũng là một món « đồ cổ » quí giá. Miếu tựa cây me, cây me tựa miếu. Cây me nhờ miếu mà thiên hạ sợ không dám xúc phạm. Miếu nhờ cây me mà tiếng hay khắp Bắc Nam. Nói miếu cây me thì ai cũng biết, chớ nói miếu thờ Bà Phấn Nhĩ Quỉ Vương thì không mấy người biết.
Miếu Cây Me linh có tiếng. Đi ngang qua, kẻ ngồi xe ngựa, phải xuống xe ngựa, kẻ đi bộ phải lấy nón cúi đầu. Truyền rằng: « Tả Quân Lê Văn Duyệt đi ngang qua miếu, cờ biển võng lọng nghênh ngang ». Quân bẩm: « Miếu linh thiêng, cúi xin ngài xuống võng ». Tả Quân bảo cứ đi. Hai tên khiêng võng không dám cãi lệnh. Vừa tới ngang miếu thì bụng tự nhiên đau nhói ngã quỵ, tay phải thả võng để ôm bụng… Tả Quân bị té xuống đất. Đứng dậy phủi áo, cười: « Tôi đi có việc gấp. Chị làm rắc rối làm chi thế, chị Phấn? » Hai người khiêng võng liền hết đau bụng. Tả Quân lên võng đi. Câu chuyện lan truyền, thiên hạ sợ càng thêm sợ.
Lại truyền rằng: Khi Khánh Hòa đã có xe kéo lên xuống Thành Diên Khánh và Nha Trang thì có nhiều chuyện kỳ quái xảy ra. Những anh phu xe đi gần đến miếu thì cắm đầu cắm cổ chạy chớ không dám ngó quanh. Một hôm một chiếc xe từ Thành về Nha Trang. Trên xe không người. Nhưng sau khi qua khỏi miếu, chậm bước ngoảnh lại thì thấy một mỹ nhân ngồi trên xe! Một hôm trời vừa chạng vạng, một chiếc xe kéo một thanh niên từ Nha Trang lên Thành. Khi gần đến miếu thì có một thiếu nữ xinh xắn xin cho đèo. Anh phu xe ham tiền, chàng thanh niên ham sắc, đều bằng lòng. Đi dọc đường, chàng thanh niên không giữ lễ. Khi đến gần tới thành thì thiếu nữ biến mất, còn thanh niên thì bị hộc máu chết tươi. Anh phu xe hết hồn đau liệt giường hàng tháng, v.v… Do đó hễ trời sắp tối thì không mấy ai dám đi ngang qua miếu. Rủi lỡ đường, mà thấy bóng đàn bà con gái thì lo chạy tránh. Miếu hiện còn, nhưng bớt linh.
9) ĐỀN SINH TRUNGĐền dựng trên núi Hà Ra, cạnh đầm Xương Huân về phía Tây Bắc, trong thành phố Nha Trang. Dựng năm Đinh Mão (1807) triều Gia Long. Trùng tu năm Tự Đức thứ năm (1852). Đền thờ 350 công thần của nhà Nguyễn đã bị tử trận hay bị mệnh vong vì bệnh trong lúc tranh hùng cùng nhà Tây Sơn. Phần đông là những người mất tại Khánh Hòa. Tên trước kia Tinh Trung sao đổi là Sinh Trung. Tuy là đền thờ công thần, nhưng qui mô không được rộng lớn. Cách thờ phượng ngó cũng sơ sài, đối với đền miếu của đồng bào bình dân thật không hơn không kém. Nhưng phong cảnh rất mỹ quan 25. Cạnh đền có cây cao. Trước đền có sân rộng.
Dưới chân núi, đầm Xương Huân láng lai và ăn thông ra sông Hà Ra, một nhánh của sông Nha Trang chảy ra biển. Bên kia đầm, khu Xương Huân và Xóm Cồn, nhà tôn chen nhà ngói. Và ngoài xa, ngó thẳng ra Bắc, núi nối liền núi, ngó xiêng xiêng xuống Đông, biển nối liền trời. Màu ngói sắc cây, bóng mây hơi nước… lớp ẩn lớp hiện, nơi tỏ nơi mờ. Xa cũng như gần, một ngó đều thâu trọn vào mắt.
Ba mặt Đông, Nam, Tây, thành phố Nha Trang mở rộng tận chân non, mặt biển. Cửa nhà chen chúc, đường rộn rịp xe chạy người đi. Những bồn hoa xinh xinh, những hàng cây rậm rậm. Đứng trên nhìn xuống, khách giàu tưởng tượng không khỏi ngỡ rằng mình đương ngắm cảnh Hàng Chân tả trong vần thơ cổ: « Sơn ngoại thanh sơn lầu ngoại lầu », mà Trường Xuyên phỏng dịch:
Xanh dờn non tiếp liền non,
Ngoài lầu hoa lại những còn lầu hoa.
Cảnh đã đẹp lại ở gần thành phố, cho nên khách phong lưu thường đến thưởng ngoạn. Xúc cảnh sanh tình, người làng thơ thường lưu lại được nhiều giai tác. Được nhiều người thuộc, có hai bài chữ Hán của cụ cử Nguyễn Tạo và của nhà Nho Trần Khắc Thành:
« DU SANH TRUNG TỪ NGẪU TÁC »
I.
Nhàn lai huề hữu thưởng xuân dương,
Lộ đáo Sinh Trung miễn lực cường.
Oanh chuyển hoa khai cung thẳng khái,
Sơn triều thủy nhiễu nhập bình chương.
Lâu đài ngoại vọng văn minh hóa,
Tướng sĩ trung lưu tánh tự hương.
Từ diện thanh quang đô khả ái,
Danh lam thiên tạo xuất tầm thường.
(Tr.K.Thành)
II.
Mích thắng xuân du khách tứ đồng,
Lưỡng tương huề thủ thượng Sanh Trung.
Hiến đồ nhập hoa giang san sắc,
Sùng tự trường minh tướng sĩ công.
Tiếp ngạn lâu đài ba diệm giã,
Cách thông gia liễu ấm thanh thông.
Danh đô huống thị phùng giai tiết,
Vô hạn di tình thưởng thức trung.
(Nguyễn Tạo)
Gần đây có mấy ông bạn yêu văn chương ở Bình Định và Quảng Ngãi vào Khánh Hòa, đến viếng đền Sinh Trung. Nhân cao hứng diễn hai bài thơ trên ra quốc ngữ:
DỊCH BÀI CỦA TRẦN TIÊN SINH
I.
Mình dạo tìm xuân với bạn mình,
Sinh Trung lần bước bước thinh thinh.
Oanh ca hoa nở câu nhàn hứng,
Nước điền non tô nét phẩm binh.
Hương khói ngạt ngào danh tướng sĩ,
Lâu đài thấp thoáng bóng văn minh.
Vời trông bốn bức phong quang trải,
Cao vút danh lam cảnh hữu tình.
(Nguyễn Hoài Văn)
II.
Tầm phương mình với bạn mình,
Sinh Trung thẳng bước thỏa tình đăng cao.
Oanh hoa giúp hứng thêm hào,
Non xanh nước biếc hiện vào bình chương.
Văn minh giợn bóng phố phường,
Danh thơm tướng sĩ mùi hương đượm đà.
Tranh treo bốn bức yên hà,
Xa vời thế tục một tòa danh lam.
(Trần Thúc Lâm)
DỊCH BÀI CỦA NGUYỄN TIÊN SINH
I.
Tìm xuân bước khách nhẹ thinh thinh,
Viếng cảnh Sinh Trung bạn với mình.
Màu sắc nước non in nét họa,
Công lao tướng sĩ tạc đền linh.
Lâu đài tiếp biển hoa lồng thắm,
Dừa liễu kề thôn bóng rợp xanh.
Trong chốn danh đô vầy thắng cảnh,
Cảnh thêm giai tiết xiết bao tình.
(Hồ Thăng)
II.
Vui xuân khách cũng đồng vui,
Sinh Trung dìu bạn lên chơi với mình.
Non sông vẽ bức tranh tình,
Hồn hương tướng sĩ đền linh ngạt ngào.
Biến lồng hoa thắm lầu cao,
Cách thôn dừa liễu dạt dào sóng xanh.
Danh lam ẩn bóng thị thành,
Gặp tuần giai tiết thỏa tình lãng du.
(Nguyễn Đình Mẫn)
10) ĐỀN QUÁ QUANTrong sách vở thì chép là Quá Quan từ. Nhưng người địa phương gọi là Miếu. Trong số từ miếu còn sót lại đến thời Pháp thuộc, đền Quá Quan là ngôi đền cổ nhất. Đền lập từ thời Hậu Lê, hoặc trong niên hiệu Vĩnh Hựu (1735-1740), hoặc trong niên hiệu Cảnh Hưng (1740-1786). Đền ở thôn Xuân Phong, quận Vĩnh Xương. Cất dưới chân ngọn đồi tục gọi là Núi Đá Lố hay Hòn Lố. Kiểu thức cổ kính: Ba gian hai chái, mái ngói tường gạch, cây gỗ toàn danh mộc.
Phong cảnh kỳ tú. Hòn Đá Lố, tuy nhỏ thấp, nhưng hình thù cổ quái. Đá mọc ngổn ngang và chồng chất lên nhau, gồ ghề hốc hỉu. Nhiều cây cổ thọ, hoặc gầy guộc khúc khuỷu, hoặc bóng cả thân cao, chen chúc trong đá, xấp xới quanh đền. Sắc đá màu cây trộn lẫn cùng màu vôi sắc ngói, được thời gian « châm chước » thành một bức tranh màu sắc dịu dàng nhịp nhàng. Sau lưng núi Đá Lố là núi Mặt Quỉ. Gọi như thế là vì sườn núi đá mọc lởm chởm. Nhiều hòn kỳ hình dị dạng. Đứng xa trông vào thấy mắt miệng tai mũi, chỗ đen chỗ xám chỗ trắng chỗ xanh… chỗ lõm chỗ lồi, u nầng nham nhở, giống như mặt quỷ Dạ Xoa. Sau núi Mặt Quỉ, núi non trùng điệp. Đền ngó vào Nam. Trước mặt có bàu sen rộng lớn nằm trên cánh đồng ruộng mênh mông. Xa xa hàng tre xanh trên bờ sông Cái, chạy từ Tây xuống Đông đoanh lộn quanh co như một con thanh long uốn khúc. Phía Tây hòn núi Chúa ở Đại Điền Trung nhìn xuống. Phía Đông, biển Nha Trang và vùng núi Cù Lao với mấy ngọn cổ tháp nhìn lên. Nhìn khắp bốn bên, mắt rộng lòng cũng rộng.
Đền thờ Bà Thiên Y A Na. Trước kia xuân thu nhị kỳ, các quan Tỉnh phải sang dâng lễ. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí chép rằng khi xưa cống sứ nước Chân Lạp đi ngang qua đền, có vào bái yết. Đó là một sự kiện lịch sử đáng ghi. Nhưng tiếc rằng không biết việc xảy ra vào thời đại nào. Tuy vậy cũng có thể đoán rằng sau khi chúa Nguyễn đã làm chủ lãnh thổ của nước Chiêm Thành và Thủy Chân Lạp. Thời bấy giờ con đường thiên lý chạy từ Nam chí Bắc, đến Khánh Hòa, phải đi ngang qua đền Quá Quan. Nếu từ trong đi ra thì đến thành Diên Khánh không xuống Nha Trang theo con đường Quốc Lộ số 1 hiện thời, mà qua sông Cái sang Phú Lộc, ra Đại Điền Đông, Phú Cấp, Xuân phong… Nếu ở ngoài đi vô thì đến Lương Sơn, không qua đèo Rù Rỳ để vào Nha Trang như hiện thời, mà lại quay lên hướng Tây Nam, qua đèo Tam Đảnh ở Đắc Lộc, đi xiêng xiêng vào Xuân Phong… Con đường Thiên Lý ngày xưa chạy ngang qua trước đền Quá Quan để vào thành Diên Khánh. Đó là con đường Liên Hương số 1 của tỉnh Khánh Hòa ngày nay. Biết rõ đường đi thì việc cống sứ vào bái yết đền Quá Quan không lấy gì làm lạ.
Nhưng sách Đại Nam nói rằng: « Nhân việc cống sứ vào bái yết mà gọi tên đền là Quá Quan » thì chưa lấy làm ổn. Theo lời các vị phụ lão địa phương thì bà Thiên Y A Na, từ Núi Chúa xuống tháp Cù Lao, hoặc từ tháp lên núi, đều đi ngang qua đền. Những lúc Bà đi thì một luồng hào quang sắc xanh, lớn như một cây lụa trải, bay giữa lừng trời. Đến đền thì hạ xuống giây lâu rồi mới bay tiếp. Đền coi như một cửa quan Bà qua lại, nên mệnh danh là Quá Quan. Có lẽ đúng như thế.
Đền đã bị súng đại bác của quân Pháp phá hủy năm Bính Tuất (1946) thời kháng chiến. Cây cối trước kia bị phá một phần, ngày nay phá một phần nữa. Nhưng đá vẫn còn lỳ gan với nắng mưa. Hiện nay tên « Quá Quan » trở thành một địa danh. Người phương xa qua lại, không ngờ trước kia có đền.
11) ĐỀN AN LƯƠNGỞ thôn An Lương, quận Vạn Ninh. Lập thời nào không rõ. Đây là một đền cũ nhất trong tỉnh Khánh Hòa. Các bậc phụ lão đoán chừng đồng thời cùng đền Quá Quan, vào khoảng Lê Cảnh Hưng. Đền thờ Bà Thiên Y A Na, thần Bạch Mã, thần Thủy Hoàng và Thành Hoàng.
12) ĐỀN MÃ CẢNHỞ tại đèo Cổ Mã cạnh đường Quốc Lộ số 1 26. Thờ thần Chúa Vàng và Chúa Sắt 27. Xây cất đời nào không rõ. Đã cũ và hư sập nhiều nơi. Nhưng hành khách ra vào đều tỏ lòng sợ sệt, mặc dù không biết rõ Chúa Sắt Chúa Vàng là vị thần nào, của ta hay của Chàm, và đã làm gì có lợi ích cho nhân dân mà được thờ phụng. Phong cảnh nơi đền, trên non dưới biển, trông rất hữu tình. Song phần thì sợ Chúa thờ trong miếu, phần thì sợ Chúa ngoài sơn lâm, cho nên không mấy ai dám dừng chân thưởng ngoạn. Tuy vậy vẫn có thơ đề:
Chúa Vàng Chúa Sắt là ai?
Một tòa cổ miếu trong ngoài quạnh hiu!
Chim rừng chiu chít tiếng kêu,
Biển khơi hờ hững nước triều xuống lên.
Đường đời rộn bước đua chen,
Đèo cao vực thẳm ghe phen hãi hùng.
Gan vàng dạ sắt ai nung?
Nước non gánh nợ ai cùng chung lo?
Hương lòng dẫu tắt còn tro,
Mong sao vàng sắt giữ cho vững bền.
13) MIẾU LỖ LƯỜNMiếu ở tại Hòn Đỏ ngoài vịnh Vân Phong, thuộc hải phận Ninh Hòa. Miếu đã lâu đời do các ngư phủ làm lưới đăng thiết lập để thờ một vị nữ thần trên đảo. Danh hiệu nữ thần là gì không ai biết. Bên miếu có một hang đá. Trong hang, vách có chỗ nổi lên hõm vào trông phảng phất như cơ quan sanh sản của phái nữ. Người địa phương gọi trại là Lỗ Lườn. Hang do đó mà mệnh danh.
Miếu vốn không tên riêng, nên cũng mượn tên hang mà gọi. Truyền rằng: Thần miếu Lỗ Lườn rất linh. Đến mùa làm cá, các ngư phủ phải sắm lễ vật ra đảo cúng tế. Nếu không thì chẳng những đánh không được cá mà còn gặp phải tai nạn gớm ghê. Thần ăn thịt sống. Xưa kia tế vật là một đồng nam hay một đồng nữ. Các chủ lưới đăng phải thay phiên nhau mà cung cấp. Người ta thường mua trẻ em của đồng bào Thượng về tế thần. Sau lệ tế người bị cấm và thay bằng lễ tam sinh. Bò heo dê làm thịt sạch sẽ nhưng để sống và nguyên con. Tế xong, người ra về hết. Phẩm vật để y tại chỗ. Sáng hôm sau đến xem thì chỉ còn thấy những xương.
Việc cúng tế hiện nay vẫn còn. Nhưng không còn tế người hoặc tam sinh như trước, mà dùng đồ nấu nướng như mọi nơi. Lễ vật tuy thay đổi, song có một nghi tiết từ xưa đến nay phải thi hành nghiêm chỉnh là: Cúng tế nơi miếu xong, vị chủ tế phải đến hang, trịnh trọng cầm khúc chày gỗ để sẵn thọc vào Lỗ Lườn ba lần, rồi mới lễ tất. Tục nầy của người Chiêm Thành truyền lại.
Người Chiêm Thành có một bộ lạc thờ thần Lingam (Dương vật) và thần Yoni (Âm vật). Tượng Thần hiện còn thấy đôi nơi. Tại Musée Chàm Đà Nẵng hiện còn hai tượng lớn. Lỗ Lườn tức là Yoni Việt Nam hóa vậy. Lỗ Lườn còn gọi là Lỗ Đĩ Dàng. Dàng là tên một vị thần của Chàm. Một số người Thượng cũng dùng tiếng Dàng để gọi thần linh. Nhưng không hiểu tại sao gọi là Đĩ. Ở Vạn Ninh, tại thôn Vinh Huề có một cái bàu gọi là Lỗ Đĩ. Bàu nằm trong một cánh rừng, hình bầu dục, rộng chừng năm sào ta, sâu lút một cây sào chân vịt. Cá, trạnh, ba ba, rùa… rất nhiều và rất lớn. Tiếng Đĩ ở bàu này và tiếng Đĩ ở miếu Lỗ Lườn có lẽ đồng nghĩa. Nhưng cổ nhân thủ nghĩa như sao, chưa một ai giải thích được thỏa đáng.
Cách đặt tên miếu và nghi thức hành lễ ở Lỗ Lườn là ngoại lệ. Toàn tỉnh Khánh Hòa, trong đất liền cũng như ngoài biển khơi, không còn nơi thứ hai vậy. 28
°
Đền Miếu ở Khánh Hòa cũng như ở các tỉnh khác ở Trung Việt, từ ngày Pháp đặt nền đô hộ trên lãnh thổ Việt Nam, đều lần lần bị triệt hạ hoặc bỏ hoang phế. Đến thời chiến tranh, những ngôi còn sót, lại bị tàn phá một lần nữa. Nên hay không còn được mấy. Và những di tích không được bảo tồn nầy, bị nắng mưa phũ phàng, e không thể tồn tại được lâu lắm.
Những đền miếu cổ, phần vật chất ngó không giá trị bao lăm, nhưng mặt tinh thần tưởng rất quan trọng. Bởi trước hết là của ông cha để lại, lẽ nào con cháu nỡ xem thường xem khinh. Sau nữa, những kiến trúc nầy không bị ảnh hưởng văn minh Âu Mỹ. Nhìn vào, các nhà khảo cổ có thể tìm được ít nhiều dân tộc tính Việt Nam Cho nên việc bảo tồn không phải không cần thiết vậy.
B) CHÙA CHIỀNKhánh Hòa hiện nay có lẽ là tỉnh nhiều chùa chiền hơn tất cả các tình Miền Nam Trung Việt. Tất cả lớn nhỏ, cũ mới, cộng trên vài trăm ngôi, trên núi có, dưới đồng bằng có, nơi thôn quê có, nơi thị thành có. Nhưng không có ngôi chùa nào đồ sộ nguy nga. Nếu dồn nhân lực tài lực lại mà dựng một ngôi chùa vĩ đại trên một dãy núi cao để cho mọi người chiêm ngưỡng thì công hoằng pháp tưởng còn cao bội phần, vì lòng của phật tử tập trung vào một nơi và cảnh trang nghiêm hùng tráng ngày ngày trông thấy dễ dẫn dắt lòng hồi hướng của thế nhân.
Riêng nói về cổ tự Khánh Hòa cũng không thua Bình Định, Phú Yên, là nơi Phật giáo truyền bá trước. Và các Tổ khai sơn các ngôi chùa có danh ở các tỉnh, hầu hết là người Trung Hoa, như chùa Thập Tháp, chùa Linh Phong… ở Bình Định chẳng hạn. Ở Khánh Hòa, các Tổ khai sơn đều là người Việt Nam, người trong tỉnh có người ngoài tỉnh có. Đó là một đặc điểm của Khánh Hòa. Trừ Cam Lâm và Khánh Dương là hai quận mới, quận nào trong tỉnh cũng có ít ra là một ngôi chùa cổ. Như thế chứng tỏ việc tu hành của người Khánh Hòa, ngày xưa thạnh vượng biết bao! Ở Vạn Ninh, ngôi chùa cổ nhất là:
1) LINH SƠN TỰChùa nằm tại thôn Hiền Lương. Thủy tổ khai cơ là Hòa Thượng Đại Bửu, Pháp hiệu là Kim Cang Đại lão Tổ sư. Ngài quán Quảng Nam băng ngàn vào Hiền Lương hoằng pháp. Năm Cảnh Hưng thứ 22, tức năm 1761 Dương Lịch mới lập chùa đúc chuông, gây cơ sở vững chắc. 29
Ban sơ chùa gọi là Sa Long Tự. Triều Tự Đức, năm thứ 21 (1867) chùa bị thất hỏa. Sau khi xây cất lại, cải tên là Linh Sơn Tự. Từ bấy đến nay, chùa đã được trùng tu nhiều lần. Kiến thức cổ phác, và hoàn toàn Việt Nam. Mái ngói tường gạch. Chánh điện ba gian, Phía đông phía tây có tăng phòng, tịnh thất. Cách thờ phụng đơn giản nhưng trang nghiêm, đại khái cũng như các chùa cổ ở Trung Việt. Vườn chùa rộng rãi và có nhiều cây cối tươi mát. Phía trước có tường vôi và cửa Tam quan cổ kính. Trước mặt chùa là đồng lúa bát ngát, có hồ sen sâu rộng, có sông Hiền Lương quanh co. Và xa xa núi cao chập chờn. Phong cảnh quang đãng nhưng thanh tịnh. Trong vườn chùa có hai cây cổ thụ: một cây xoài, một cây kén. Cây Xoài ở trước chùa, cạnh ngõ bước vô. Thuộc giống xoài mủ, sống trên trăm năm. Thân cao vút và nhánh mọc tua tủa như những cánh tay gân guốc giơ lên trời. Sắc lá xanh láng, màu da cây lại trăng trắng mông mốc. Đứng xa trong như một cây lọng trương nửa chừng. Vừa kỳ vừa cổ! Cây Kén đứng phía sau chùa. Thân cao vút và tuổi chắc là từ 300 trở lên. Chính ngài Đại Bửu ngồi tu nơi gốc cây kén nầy trước khi chùa thành lập.
Vùng Hiền Lương trước kia là một cánh rừng rậm, có nhiều dã thú. Lúc ngài Đại Bửu đến tu thì cây kén đã là một cây đại thọ. Khi phá rừng dựng chùa, các đệ tử giữ cây kén lại làm kỷ niệm. Truyền rằng: Khi Hòa thượng ngồi tu dưới gốc cây, thì một con hổ đến sanh nở bên cạnh một cách tự nhiên. Hòa thượng cũng ngồi tu một cách tự nhiên. Không có gì là lạ.
Bác sỹ Yersin, khi đi tìm Dalat, gặp một con rắn hổ mang cất cổ toan làm dữ. Bác sỹ đứng yên. Hồi lâu rắn bỏ chạy. Người ta ngờ rằng Bác sỹ có thuật thôi miên. Nhưng Bác sỹ cho biết: « Thú dữ cắn người, trước hết là để tự vệ. Nhưng chúng đều có tánh linh và rất nhạy cảm. Một khi chúng đã thông cảm rằng mình không có ác tâm, không có ý làm hại chúng, thì chúng có cần hại mình làm chi ».
Trường hợp của ngài Đại Bửu cũng thế. Từ thiện căn lực của ngài tỏa ra khi thiền định, khiến cho con hổ yên tâm lo nhiệm vụ của mình. Các vị chân tu sống bình yên trên núi cao đều nhờ sức mạnh của đức từ bi, chớ không phải nhờ thần thông chế ngự được thú dữ. Nhưng người đời không rõ, tưởng ngài Đại Bửu có phép lạ, nên đến xin qui y mỗi ngày một đông.
Quả hồng chung trong chùa cũng là một vật duy trì đức tin của bổn đạo. Nguyên thời nhà Nguyễn gia Miêu cùng nhà Tây Sơn tranh hùng, các chuông chùa đều bị tịch thu để đúc súng đạn. Đem chuông ra đúc súng đạn thật chẳng khác bắt các vị tu hành tòng chinh. Để cho chuông khỏi « phạm giới sát sanh », nhiều chùa ở Khánh Hòa đem dấu nơi vực sâu hố thẳm. Nhưng đến khi yên giặc giã, thì phần nhiều không tìm lại được, bởi lớp bị kẻ gian phi lấy trộm, lớp bị nước lụt trôi.
Quả hồng chung chùa Linh Sơn tìm lại được do một sự tình cờ đượm vẻ huyền bí: Một bà lão đi mò ốc phát kiến tại của sông Hiền Lương. Sợ quá liền tri hô. Cửa sông Hiền Lương vốn nằm giữa thôn Hiền Lương và Tân Đức. Biết hồng chung là vật xưa quí giá, làng Hiền Lương và làng Tân Đức tranh nhau để chiếm hữu. Việc phải đưa đến cửa quan. Quan xử: « Làng nào có chùa, chuông về làng ấy ».
Hiền Lương có chùa Linh Sơn, Tân Đức không có chùa, nên Hiền Lương được kiện. Làng khiêng chuông về đem cúng cho chùa Linh Sơn.
Việc dấu chuông của chùa Linh Sơn, nhiều vị phụ lão thường nghe nói đến. Lại thêm nơi thành hồng chung có ghi rõ năm tháng chú tạo: « Cảnh Hưng nhị thập nhị niên, Tân Tị, bát nguyệt » đúng vào năm Tổ Đại Bửu khai sơn. Nên ai nấy đều mừng « châu về Hợp Phố ». Quả chuông tìm lại được đó là quả chuông thuộc hạng « tiểu hồng chung ». Chùa còn một đại hồng chung không biết vùi lấp nơi đâu hay đã hóa kiếp. Những đêm trời trong gió lặng, người quanh vùng thỉnh thoảng nghe tiếng chuông ngân nơi hồ sen trước chùa. Nhiều người tin chắc rằng quả đại hồng chung còn ẩn náu trong hồ, và sẽ trở về với chùa một ngày nào đó.
Chùa Linh Sơn có tiếng là linh thiêng. Việc quả hồng chung trở về chùa làm cho các tín đồ thêm vững lòng mộ đạo. Lại còn một sự kiện nữa xảy ra thời Tiền Chiến, khiến nhiều người kém đức tín cũng phải tin rằng chùa linh thiêng thật sự. Lúc bấy giờ Nhật đóng khắp lãnh thổ Việt Nam. Tàu bay Mỹ ngày nào cũng đến oanh tạc. Khánh Hòa cũng không thoát khỏi nạn bom rơi. Năm 1944, một quả bom hạng nặng rơi ngay trên nóc chùa. Nhưng không nổ mà cũng không lăn xuống đất. Ai cũng lấy làm lạ. Vì quả bom nầy nếu nổ thì chùa bị tan tành. Không nổ thì sức nặng cũng đủ chọc thủng nóc chùa hoặc lăn theo mái chùa để xuống đất bằng cho hợp lý. Cớ chi lại nằm chình ình trên nóc mà tứ bề không có vật gì cản ngăn? Người Nhật nghe tin bom nằm trên nóc chùa thì đến lấy mang đi, chớ không có một lời giải thích. Các ông già bà cả bảo rằng: « Các vị thần giữ chùa làm cho quả bom tắt ngòi. Rồi để cho người đời tin sự linh thiêng, các ngài đem đặt bom trên nóc chùa và giữ không cho rơi xuống đất ».
Người đã tin thêm tin. Người không tin không biết sao mà cãi 30. Chùa Linh Sơn là tổ đình của hầu hết các chùa quận Vạn Ninh. Cổ nhất quận Ninh Hòa là:
2) THIÊN BỬU TỰChùa ở thôn Mỹ Hiệp. Tổ khai sơn là ngài Tế Hiển, pháp hiệu Bửu Dương. Chùa dựng thời Lê Cảnh Hưng. Nhưng không rõ năm nào. Chùa mới sửa lại. Vì nằm trong vùng ngay dưới chân đường hỏa xa và chung quanh có nhiều nhà cửa chen chúc, quang cảnh chùa không được khoản khoát bằng chùa Linh Sơn. Tuy vậy kiểu thức của chùa vẫn giữ được bản sắc cổ truyền và không khí trong chùa vẫn đượm đà mùi Đạo.
Đây là Tổ đình của hầu hết các chùa trong quận, và là nơi đã đào tạo được nhiều danh sư, như ngài Đại Phước kế truyền ngài Tế Hiển, ngài Đạo Phước kế truyền ngài Đại Phước. Đến đời thứ tư, ngài Liễu Bửu pháp hiệu Huệ Thân, được vua Minh Mạng vời ra Kinh đô dự « Thủy lục Đạo tràng » siêu độ trận vong quan binh, tổ chức vào tiết Trung Nguyên năm Minh Mạng thứ 16 (1835) và rồi được sắc tứ giới đạo và độ điệp. Hiện chùa còn giữ.
Ngoài tổ đình Thiên Bửu Tự, Ninh Hòa còn hai ngôi chùa cổ nữa cũng lập vào thời Lê Cảnh Hưng. Đó là: Phổ Hòa Tự, Thanh Lương Tự.
3) PHỔ HÒA TỰChùa ở thôn Bình Thành xã Ninh Bình. Ngài Tế Đường, pháp hiệu Châu Cấp là Tổ khai sơn. Ngày thành lập không được rõ. Vì chùa Phổ Hòa cũng như hầu hết các chùa cổ trong tỉnh đều mất tự phổ vì loạn lạc. Nhưng vì Tổ khai sơn cùng chữ Tế như ngài Bửu Dương chùa Thiên Bửu, nên có thể biết đại khái rằng chùa Phổ Hòa cũng lập thời Lê Cảnh Hưng (1740-1786).
4) THANH LƯƠNG TỰChùa ở thôn Nhĩ Sự xã Ninh Thân. Tổ khai sơn là vị nào không rõ. Chùa có một quả đại hồng chung rất xưa, trên thành có khắc ngày tháng chú tạo là mồng 8 tháng 4, tức ngày Phật Đản, năm Cảnh Hưng thứ 8 tức năm 1747 Dương lịch. Lại có khắc cả tên hòa thượng chứng minh chú tạo là ngài Tế Hiển chùa Thiên Bửu.
Để tránh nạn dùng chuông đúc súng, chùa Thanh Lương cũng như phần nhiều chùa trong tỉnh, đem quả đại hồng chung dấu nơi Bàu Bơi (Ninh Thân) ; nhưng rồi tìm không thấy. Sau người làng Đại Cát, Đại Tập, Nhĩ Sự đến câu nơi bàu, thình lình thấy chuông tự nhiên nổi lên rồi chìm xuống. Lặn xem thử thì thấy úp sấp trên cát. Xúm nhau kéo lên, kéo hết hơi sức, vẫn không chút di chuyển. Sau làng Nhĩ Sự thiết hương án cầu nguyện, thì chuông tự nhiên nhẹ bổng, khiêng về chùa một cách dễ dàng.
Chính nhờ quả đại hồng chung mà các vị trụ trì đương thời mới biết được các vị tổ khai sơn chùa Thiên Bửu, chùa Phổ Hòa, chùa Thanh Lương sống thời Hậu Lê, và các chùa tạo lập đời Cảnh Hưng vậy.
Sang đời nhà Nguyễn, Ninh Hòa còn tạo lập thêm nhiều ngôi chùa khác, như: Chùa Thiên Đức, Chùa Thiên Phước. Là hai chùa có danh vì các vị tổ khai sơn là những ngài có đại đức.
5) THIÊN ĐỨC TỰChùa cất trên ngọn đồi thôn Bình Tây, xã Ninh Hải, khu vực Hòn Khói. Cất năm Minh Mạng nguyên niên (1820). Tổ khai sơn là Hòa Thượng Liễu Đức, Pháp hiệu Huệ Giáo. Người đương thời gọi Ngài là Hòa Thượng Đò. Gọi như vậy là vì trong vùng có một bến đò, qua lại phải chờ đợi rất bất tiện. Hòa Thượng bèn ra công bắc cầu. Không biết lấy gì đền ơn cho xứng đáng, người địa phương ghi công đức trên bia miệng bằng mấy chữ bình dân: Hòa Thượng Đò. Nghe thì nôm na mà ý nghĩa sâu sắc:
- Bắc cầu để giúp người đời qua khỏi dòng nước khó qua là tượng trưng cho việc lấy Phật pháp để đưa chúng sinh ra khỏi biển khổ.
- Hòa Thượng Đò là vị Hòa thượng đã hiến thân làm chiếc thuyền từ để tế độ chúng sinh.
Thật là một lời nói nhuần đạo vị.
Cầu ở dưới chân đồi. Trên đồi còn một công tác khác nữa của Hòa Thượng. Vùng Bình Tây vì gần biển gần ruộng muối nên nước giếng măn mẳn khó uống. Hòa Thượng bèn nạy đá đào giếng. Giếng sâu thăm thẳm và nước ngọt như nước cam tuyền. Cả vùng đều đến múc uống. Và để tỏ lòng tri ân, gọi giếng là Giếng Thảo. Tiếng « Thảo » đối với người bình dân có ý nghĩa tương đương với chữ « từ bi » đối với giới Phật học. Vì tìm nước ngọt để thay nước mặn là một cách làm cho người hết khổ và đem vui lại cho người.
Cầu tượng trưng công tế độ của Hòa Thượng. Giếng biểu thị lòng từ bi của Hòa Thượng. Đạo h?