Cái chết của cha tôi
Người nằm trong quan tài tên Henry Colfax. Ông là cha tôi.
Ông mặc bộ đồ hải quân màu xanh nhạt, cổ thắt cà-vạt cũng của hải quân màu xanh còn nhạt hơn – đơn vị binh chủng trước khi ông nghỉ hưu. Mái tóc dầy muối tiêu của ông được chải gọn gàng.
Hiếm khi ông ăn mặc chải chuốt như vậy lúc sinh thời, tuy nhiên, thoạt trông người ta vẫn có cảm giác ông đang muốn “làm một ly”.
Một người đàn ông mặc áo sơ-mi lụa, tóc hung đỏ đang nghiêng đầu nhìn người quá cố trong quan tài với cặp mắt kiếng dầy cộm. Ông tên Dennis Dooley, nhưng mọi người luôn gọi ông theo biệt danh mà cha tôi đã đặt cho ông: Dooley Đầu Chó.
Ông Dooley mở quầy rượu Nappy ngay trung tâm làng Island Notch, Vermont, nơi cánh đàn ông con trai thường xuyên lui tới.
Cách nay khoảng 25 năm, cha tôi đã đặt cho ông biệt danh trên. Bữa ấy là sáng thứ Bảy, cha tôi bước vào quán Nappy cùng với mấy người bạn thân như thường lệ, dẫn theo con chó lông đỏ pha nâu lớn cỡ con cừu và khẩu súng nòng 22 mà ông dùng để bắn sóc.
Cha tôi chọn chiếc ghế đẩu cao chân nằm cuối quầy rượu, nơi chật ních những người đi săn vào cuối tuần cùng với súng ống của họ. Con chó sục sạo trong quán và lớ ngớ thế nào không biết, nó đứng bằng hai chân sau cạnh Dennis Dooley, hai chân trước bám vào quầy rượu bằng gỗ đào hoa tâm. Nó thè lưỡi thở hồng hộc. Đúng lúc Dennis Dooley cũng thè lưỡi; ông thường phải làm như vậy để thở bằng miệng vì ông có vấn đề về mũi.
Thế là cha tôi nháy mắt với mấy người bạn và họ lập tức im lặng, vì họ biết cha tôi sắp có chuyện gì vui nói với họ. Giữa bầu không khí im lặng ấy, cha tôi lên tiếng với Dennis, lớn giọng hơn bình thường và rất chậm: “Coi kìa, Dooley, tôi thấy anh có người phụ việc để giúp anh khi bận rộn.” Thoạt đầu Dooley không hiểu, nhưng nhìn theo hướng ngón tay trỏ của cha tôi, ông nhận ra con chó. Nhiều tiếng cười cất lên, nhưng ông vẫn chưa hiểu nguyên nhân, nên ông đáp: “Đâu phải người phụ việc, Henry, đó là con chó của anh.”
Cha tôi khoái chí đấm mạnh lên mặt bàn làm các ly rượu rớt xuống nền. Dennis tưởng đâu có ai vừa nổ súng. Nhưng rồi ông hiểu ra người ta đang chế nhạo ông.
Cha tôi và mọi người trong quầy rượu càng cười lớn. Ông nhại giọng Dooley: “Đâu phải, đâu phải, anh bạn Đầu Chó!”.
Lúc này ai nấy đều phá lên cười. Ờ nhỉ, mái tóc của Dennis Dooley cũng có màu hơi giống lông con chó săn. Và con chó bỗng cất tiếng sủa ầm ĩ làm như thể nó cũng cười hùa theo mọi người.
Cha tôi coi vụ này là một trong những trò hay nhất của ông trong suốt nhiều năm sinh sống tại Island Notch. Sau đó hàng chục năm, mỗi khi nhắc lại tên “Dooley Đầu Chó” cha tôi vẫn tỏ ra khoái chí.
Nhưng rồi cách nay bốn ngày, khi cha tôi đến uống rượu tại quán Nappy, chính Dooley Đầu Chó là người đầu tiên phát hiện ông bị té khỏi chiếc ghế đẩu cao chân và nằm chết ngắc.
* * *
Dennis Dooley đến ngồi chung bàn với chúng tôi. Chúng tôi gồm mẹ tôi, tôi và em gái tôi. Ông kể cho tôi nghe những giây phút cuối của cha tôi. Mẹ tôi, dù đã nghe nhiều lần vẫn làm bộ chăm chú, thỉnh thoảng lại cầm chiếc khăn tay lên chậm nơi khoé mắt.
— … sau khi hái nấm về, ông nói ông rất đói, nên tôi dọn cho ông chiếc bánh xăng-uých kẹp thịt và ly rượu Moosehead. Xong tôi ra phía sau quầy rửa ly chén. Lúc ấy quán đang mở nhạc lớn nên tôi không để ý thấy tiếng động có người té ngã khỏi ghế. Mãi đến khi rửa xong đồ, tôi trở lại quầy định hỏi ông có cần thêm gì nữa không, mới hay ông đã nằm trên sàn nhà. Đúng lúc ấy Slim bước vào, giúp tôi vực ông đứng dậy, nhưng ông đã tắt thở tự hồi nào, nên Slim chạy đi kêu bà…
Dennis tạm ngưng, nhìn mẹ tôi. Thấy bà vẫn im lặng, ông nhìn qua tôi, tiếp:
— Rồi mẹ anh tới, chỉ ít phút sau. Bà đặt tai lên ngực ông, nói: “Ổng chết rồi… ”
Dennis gỡ mắt kiếng, hỉ mũi, vỗ vỗ lên vai mẹ tôi trước khi bước ra ngoài.
* * *
Tôi rời làng Island Notch khi 17 tuổi với cánh tay gẫy, do bị cha tôi đánh.
Làng chẳng thay đổi bao nhiêu suốt mười mấy năm qua. Không rạp hát, không thư viện. Nhà thờ có một trường học ngay trong khuôn viên, đó là nơi tôi và em gái tôi theo học; thầy giáo là các vị tu sĩ.
Cha tôi đánh tôi gẫy tay khi tôi bênh em gái tôi. Ông tát nó tới tấp đến nỗi tôi sợ nó bị vỡ mặt, nên đã nhảy vào kéo áo ông, chẳng may làm ông té. Thế là ông nổi khùng lên, đứng phắt dậy, vớ cây gậy đập tôi gẫy tay, và còn có thể khiến tôi bị nhiều vết thương trầm trọng hơn nếu tôi không kịp vắt giò lên cổ bỏ chạy, cả em gái tôi cũng vậy. Tôi chạy đến bệnh viện tại thị trấn gần đó, và đâm đơn kiện cha tôi ra toà. Thẩm phán nhận đơn ngay, sau đó sắp xếp để tôi sống với ông cảnh sát sát trưởng và gia đình ông ta. Cha tôi mướn luật sư, nhưng luật sư chẳng làm được gì đáng kể.
Cha tôi nói với quan toà ông không muốn ngó ngàng gì đến tôi và cả em gái tôi nữa. Mẹ tôi phát biểu “Ông nhà tôi luôn nói thật.” Nhưng bà tránh nhìn ngay mắt thẩm phán.
Đến lượt hai anh em tôi nói. Chúng tôi kể cha tôi đã nhiều lần đánh chúng tôi. Tôi đoan chắc đây là lần cuối cùng ông đánh tôi vì chúng tôi muốn được pháp luật che chở. Quan toà ra phán quyết chúng tôi được pháp luật bảo vệ, lệnh cho cha tôi phải trả một số tiền theo định kỳ để nuôi dưỡng chúng tôi – nhưng ông chẳng khi nào bỏ ra một xu.
Rốt cuộc chính ông bà thẩm phán trở thành cha mẹ nuôi của hai anh em tôi, và chúng tôi được nuôi dưỡng, ăn học đàng hoàng. Em tôi nay là giáo viên dạy văn chương Anh tại một trường trung học ở Manhattan, còn tôi hiện là luật sư tập sự ở Brooklyn.
Chuyến dự lễ tang cha tôi là lần đầu tiên chúng tôi trở lại làng Notch kể từ ngay tôi bị đánh gẫy tay.
* * *
Trằn trọc mãi không sao dỗ được giấc ngủ, tôi vùng trở dậy thay quần áo, lặng lẽ ra khỏi nhà, tới quán rượu Nappy. Đêm đã khuya và Dooley đang khoá cửa, chiếc khăn lau quầy vắt ngang vai. Tuy ngạc nhiên khi thấy tôi, nhưng ông cũng sửa lại cặp mắt kiếng và rót cho tôi ly uýt-ki pha xô-đa theo yêu cầu của tôi. Tôi hỏi:
— Ông Dooley, ông nghĩ sao về cha tôi?
Ông nhìn tôi một lát trước khi trả lời:
— Không ưa mấy. Nhiều người khác cũng vậy. Nhất là do các trò đùa của ổng.
— Tôi còn nhớ… – sém chút nữa tôi buột miệng gọi ông bằng biệt danh “Đầu Chó”.
Dooley tự rót cho mình một ly uýt-ki:
— Notch là một ngôi làng nhỏ, không giống New York. Tại New York, nếu anh không thích ai, chỉ việc tránh mặt người đó. Ở đây, dù thích hay không, anh vẫn cứ phải giáp mặt mỗi ngày.
— Và ông thích gặp cha tôi?
— Ồ, không, không khi nào – Mặt ông chợt đỏ bừng, và tôi có thể thấy sự giận dữ trong ánh mắt ông. – Anh nghĩ thử, anh có thích kẻ nào đặt cho anh cái tên “Đầu Chó” hay không? Và trong suốt bao nhiêu năm, cả làng cười nhạo anh về cái tên ấy?
Tôi lắc đầu:
— Tôi nói thẳng là không thích.
— Tất nhiên không thích. Nhưng như tôi vừa nói, kẹt nỗi ở đây tôi cứ phải chạm mặt cha anh hàng ngày – Ông ta buông ly rượu, đấm mạnh tay lên mặt quầy – cho đến lúc tôi không thể nào chịu nổi nữa.
Tôi chăm chú nhìn Dooley một lát, và suy nghĩ của một luật sư chợt đến với tôi. Tôi nhớ lại lời kể của ông Dooley về cái chết của cha tôi… Và tôi buột miệng hỏi:
— Có thật ông rửa chén xong, bước lên quầy đã thấy cha tôi nằm chết?
Ông nhìn tôi như thăm dò một lát trước khi đáp:
— Nói thật, ổng còn thở. Nhưng lúc ấy trên vai tôi cũng đang vắt chiếc khăn lau như vầy. Nhớ lại mối thù, tôi đã dùng khăn siết cổ ổng cho tới khi nghe tiếng chân Slim…
Phóng tác