Một chuyến nghỉ đông
Người phụ nữ tới đảo Madeira vào đêm hôm trước. Chị đón tắcxi đến thẳng khách sạn, thuê phòng, và nằm vật lên giường. Mặc dù khách sạn giá đắt, nhưng chủ yếu là chị đã tới đây, và nhờ Trời, chị còn đủ tiền để thuê phòng.
Sau bữa điểm tâm tại phòng ăn rộng mênh mông của khách sạn vào sáng hôm sau, chị lang thang tại khu trung tâm, đi bộ dọc theo dãy du thuyền, đến viện bảo tàng nghệ thuật tôn giáo, thăm chợ để trố mắt ngạc nhiên trước vô số trái cây và những con cá espada tươi xanh. Cá espada là đặc sản địa phương, nằm ở đầu thực đơn đắt tiền trong món cá chiên ăn với khoai tây luộc…
Trở về khách sạn, chị leo lên giường nằm đọc tạp chí thời trang. Sáu giờ chiều chị vô phòng tắm nằm ngâm nước nóng, diện bộ đồ bằng lụa đắt tiền và lịch sự, trang điểm hơi kỹ, xức nước hoa Chanel Số Năm. Xong chị lặng lẽ ngắm tấm hình trong khung bạc mà chị đặt ở đầu giường ngay từ khi mới nhận phòng. Rồi chị nghiêng người, hôn nhẹ lên tấm hình, thở dài trước khi xuống cầu thang đến quầy bar.
* * *
Người đàn ông thuê phòng đặc biệt.
Phần lớn thời gian anh ta chỉ ở trong phòng, đọc báo, coi TV. Đôi khi anh ta ngồi vào bàn, viết lên tờ giấy có kẻ hàng. Hình như không vừa ý với những gì vừa viết, anh vò nát trang giấy, ném vào sọt rác. Thậm chí anh thường dùng bữa ngay trong phòng. Bữa ăn rất sang, luôn có rượu đắt tiền kèm theo, do bồi phòng mang lên. Có khi anh ngồi rất lâu ngắm biển qua khung cửa sổ, suy nghĩ mông lung, khuôn mặt không hề biểu lộ tình cảm gì đặc biệt… Nhưng tối nay anh quyết định xuống quầy rượu của khách sạn. Trước khi ra khỏi phòng, anh bôi chút nước hoa Chanel dành cho đàn ông vào hai bên má…
* * *
Người phụ nữ ngồi ở bàn dành cho hai người đang uống rượu vang và hút thuốc lá Marlboro, bắt tréo chân, thở khói ra đằng mũi. Chị chưa tới 30, mảnh khảnh, nét mặt thanh tú, nổi bật trong quầy bar khi những bàn khác đều có đôi có cặp. Chị làm bộ coi thực đơn.
Khi bước vô quầy bar, người đàn ông đưa mắt nhìn chung quanh một lượt, dừng lại vài giây khi bắt gặp ánh mắt của người phụ nữ nhìn lại. Anh ta tiếp tục đi tới quầy rượu, mỉm cười với nhân viên phục vụ, nói: “Chào Felipe”.
Felipe nghiêng đầu, với chai Chivas Regal trên kệ phía sau lưng, rót vô ly, bỏ thêm ít cục nước đá, trao cho khách quen. Khách cũng lúi húi đọc thực đơn.
* * *
Bữa tối giống như một màn kịch.
Người phụ nữ vô phòng ăn trước người đàn ông khoảng 10 phút, ngồi tại bàn gần cửa sổ, nơi có thể ngắm những vì sao nhấp nháy và thành phố rực ánh đèn. Người đàn ông ngồi tuốt tận phía bên kia phòng ăn. Giữa họ là một dãy dài bàn ghế trống.
Khi người đàn ông ăn xong thì người phụ nữ đang nhâm nhi cà phê với bánh ngọt, đưa mắt nhìn bâng quơ. Người đàn ông mỉm cười làm quen. Người phụ nữ mỉm cười đáp lại. Bên nam tiến lại bàn bên nữ: “Tôi muốn mời cô ly rượu, mong cô nhận lời.”
Vậy là họ ngồi chung bàn, cùng thưởng thức ly Martell XO. Không hơn, không kém. Nhưng ai mà biết rồi sự việc sẽ đi đến đâu và tại sao…
Rồi vẫn là nam lên tiếng trước:
— Cô tới đây nghỉ đông?
— Phải, ít ngày thôi. Còn ông?
— Dài ngày – Người đàn ông cười. Nụ cười hơi là lạ. Da của anh ta hình như không chuyển động, những nếp nhăn hình như không đúng vị trí.
Người phụ nữ cố giấu vẻ ngạc nhiên khi thấy anh ta cười, làm như chị nửa nhận ra người đối diện, nhưng lại không nhớ ra đó là ai. Người đàn ông ngưng cười rất nhanh, không để ý đến vẻ mặt người phụ nữ, hỏi:
— Cô đã tới đây bao giờ chưa?
— Chưa.
— Tôi rất vui nếu được dẫn cô thăm cảnh vật nơi đây. Bãi biển phía bắc rất đẹp. Nét đẹp hoang dã với những thác nước. Và chạy xe ngang dãy núi. Ở Encumeada, cô có thể ngắm nhìn bờ biển cả hai phía nam và bắc. Tôi có thể kiếm một chiếc xe hơi.
Người phụ nữ phản đối chiếu lệ. Người đàn ông năn nỉ. Có đáng gì đâu. Đây là niềm vui của anh ta mà.
* * *
Vậy là ngày hôm sau họ dẫn nhau đi về phía tây và phía bắc của hòn đảo. Hôm sau nữa về phía đông. Người đàn ông chỉ cho người phụ nữ những khu vườn cây ăn trái, nhà thờ Paul de Serra, miệng núi lửa hình mặt trăng… Anh kể lịch sử của đảo, về Christopher Columbus và John Blandy, từ Dorset tới đây cùng với đại tướng Beresford năm 1801 và ở lại đảo xây dựng vương triều. Anh đãi cô món cá espada chiên…
Nhưng anh không nói gì về mình.
Anh cũng không vội đòi hỏi tình dục. Làm như anh chỉ cần một bạn đồng hành để nói đủ thứ chuyện, trừ chuyện về anh ta. Một lần, có lẽ do thấy chiếc nhẫn cưới trên ngón tay người phụ nữ, anh hỏi:
— Cô đã kết hôn?
— Anh ấy đã qua đời.
— Tôi rất tiếc…
— Tự sát. Do tiền. Anh ấy mất sạch.
— Ồ!
Sau một lát im lặng, người phụ nữ hỏi:
— Còn anh?
— Mọi chuyện đã qua, dường như lâu lắm rồi…
Khoảng một tuần sau khi họ quen nhau, người phụ nữ nói khi họ cùng ngồi ăn trưa:
— Ngày mai chúng ta có thể dạo bộ chơi không? Tôi rất thích lang thang trên triền núi.
Những triền núi trên đảo nhiều chỗ rất đẹp, nhưng cũng có những chỗ, theo miêu tả trong sách hướng dẫn du lịch, “nguy hiểm đến chóng mặt” với những vách đá dựng đứng, với khe vực sâu hun hút – người phụ nữ dừng lại chút xíu trước khi tiếp – Chúng ta có thể đi pic-nic. Chúng ta nói lái xe thả chúng ta xuống đó và vài giờ sau quay lại đón.
— Nếu cô thích, chúng ta sẽ đi.
* * *
Chị chuẩn bị cho bữa ăn nhẹ ngoài trời một cách chu đáo, nhờ đầu bếp của khách sạn. Chị muốn bữa ăn thật đặc biệt, đơn giản nhưng để lại kỷ niệm không bao giờ quên. Cá hồi hun khói Scott với những lát bánh mì mỏng, tôm vịnh Dublin, bít-tết lòng đào, chút nấm hương, phó-mát stilton. Rồi những trái đào mơn mởn. Thức uống gồm nửa chai La Grande Dame, chai Latour, và một chai brandy Napoléon 100 năm. Cà-phê tuyệt ngon trong bình thuỷ. Tốn khá bộn tiền và càng đáng nói hơn khi số tiền còn lại của chị chẳng là bao. Tay thám tử tư, dĩ nhiên, đã khiến chị mất khá nhiều tài sản. Nhưng chị chẳng buồn phiền gì. Anh ấy đã từng chiều tất cả những gì chị thích.
Chị còn cẩn thận mượn đầu bếp con dao thật bén để gọt và cắt đào. Chị mỉm cười nói với đầu bếp:
— Đây là cơ hội để tôi cám ơn anh ấy sau những gì anh ấy đối với tôi suốt tuần qua.
Đầu bếp đưa chị con dao, cũng mỉm cười khi nghĩ người đàn ông là một anh chàng may mắn.
* * *
Thực là một ngày pic-nic tuyệt vời. Tháng Chạp ở Madeira có thể ẩm và nhiều gió, nhưng mặt trời rực rỡ khi xe hơi đưa họ tới chân núi. Tài xế bỏ họ xuống Ribeiro Frio và họ đi bộ ngược lên đồi, tới chỗ triền núi với những cây khuynh diệp, lần theo con đường mòn quanh co.
Cảnh vật bắt đầu thay đổi, cây ít hơn và gió lộng hơn, rồi họ tới một khoảng bằng phẳng toàn cỏ non, bên cạnh một vực sâu thăm thẳm. Chị đề nghị họ dừng lại nghỉ ngơi và ăn trưa. Chị thong thả bày đồ ăn. Họ nói rất ít, và anh ta ăn cũng như uống đều nhiều hơn bạn đồng hành. Chị chỉ nhấm nháp qua loa cho có lệ.
Cuối cùng họ ngồi uống cà-phê, người đàn ông ngắm nhìn những ngọn đồi xanh và biển cả hun hút dưới vực sâu. Chị lục tìm trong túi xách, lấy ra tấm hình lồng trong khung bạc:
— Có cái này tôi muốn anh xem qua.
Anh cầm lấy, chau mày sững sờ, như đứa trẻ nhận món quà bất ngờ. Rồi mắt anh giựt giựt khi anh liếc nhanh từ chị sang tấm hình và ngược lại:
— Chồng cô?
— Phải – Giọng chị cố giữ bình tĩnh.
— Vậy anh ta…
— Anh ấy không có lựa chọn nào khác. Anh đã lấy hết của anh ấy, bóc lột sạch sành sanh. Có lẽ anh ấy đã hành động đúng. Chỉ còn nợ ngập đầu, không tương lai, không hy vọng với người vợ và đứa con cần chu cấp. Nên anh ấy đã mướn một khách sạn rẻ tiền với một chai Scotch và ít viên thuốc ngủ, viết ít lá thư, để sáng hôm sau bồi phòng phát hiện anh ấy tắt thở trên giường ngủ.
Người đàn ông nhìn chị, khuôn mặt như giãn ra, nhưng rất khó đọc. Kinh ngạc, hốt hoảng, sợ hãi… Khó mà đọc được một khuôn mặt đã qua phẫu thuật nhiều lần, độn chất dẻo.
— Sao cô tìm được tôi?
— Tôi thuê thám tử chuyên nghiệp. Cảnh sát không tìm ra anh khiến anh đắc chí. Anh biến mất với nhiều triệu đô-la tiền mặt, xoá mọi dấu vết vay mượn, đầu tư. Anh còn cẩn thận đến bác sĩ thẩm mỹ sửa lại nhân dạng.
— Chẳng bao giờ cô chứng minh được điều ấy đâu. Ngay cả khi cô chứng minh được, tôi vẫn không thể bị dẫn độ về nước. Tôi cứ việc thong dong ở lại trên hòn đảo này, ăn tiêu cho đã đời.
— Tôi có muốn chứng minh điều gì đâu? Tôi có nói về dẫn độ đâu?
Ngay tôi cũng thấy hạnh phúc hơn nếu anh cứ ở lại đây suốt đời.
Người đàn ông bình tĩnh trở lại, mỉm cười:
— Vậy ra cô cần tiền? Bao nhiêu?
Người phụ nữ cũng mỉm cười:
— Ồ, không. Tiền bạc chẳng có ý nghĩa gì đối với tôi.
— Vậy cô muốn gì nào?
— Muốn giết chết anh!
Vừa nói chị vừa đưa tay ra. Con dao bếp, dài 20cm lưỡi bằng thép không gỉ, lấp lánh trong tay chị, trong khi chị tiếp:
— Tôi đã học sử dụng dao trước khi tìm đến đảo để gặp anh. Một thầy dạy võ nổi danh. Anh không có cơ hội thoát nổi đâu.
Chị đứng dậy, nhanh nhẹn quay người nửa vòng, dồn người đàn ông quay lưng về phía vực thẳm.
Người đàn ông cũng đứng dậy, mấy mẩu bánh mì còn dính trên áo khoác, đưa mắt dáo dác nhìn quanh. Khuôn mặt anh ta, khuôn mặt nạ bằng plastic, vẫn không lộ vẻ gì rõ ràng. Người phụ nữ đưa cao lưỡi dao, tiến tới một bước, mũi dao nhắm ngay động mạch chủ nơi cổ đối thủ. Theo bản năng, người đàn ông vừa vung tay đỡ, vừa lùi lại một bước. Lưỡi dao khéo léo lách qua một bên, rồi lại vút tới, vẫn nhắm ngay động mạch chủ, và người phụ nữ tiến thêm một bước nữa. Người đàn ông lùi thêm nửa bước thì người phụ nữ hơi thu mình, mắt chăm chú nhìn ngay cổ đối thủ rồi thẳng tay đâm tới khiến đối thủ chỉ còn cách tiếp tục bước lui. Nhưng phen này anh ta lảo đảo bên bờ vực, rồi tơi tõm vào khoảng không phía sau lưng. Tiếng thét kinh hoàng vang vọng lên từ lưng chừng vực thẳm trước khi có tiếng vật nặng rớt xuống đáy vực và tiếp đó là sự im lặng hoàn toàn.
Chị vẫn đứng đó, lưỡi dao trên tay chưa hề chạm vào đối thủ. Chị ngồi phịch xuống đất, buông dao, bật khóc nức nở…
Phóng tác