← Quay lại trang sách

Chương 5

Bà Vũ thức dậy sau một giấc ngủ rất ngon. Trời đã sáng, bà ngủ suốt đêm không thức giấc một lần nào. Bà nhớ lại trong ký ức, thật quả chưa bao giờ bà ngủ một cách ngon lành như thế. Cây nến mới chị Giang đặt đêm qua trên án thư cạnh giường, vẫn còn giữ nguyên cái tim trắng.

Cảm giác đầu tiên của bà Vũ là một sự an nghỉ hoàn toàn. Cơn mệt nhọc đã rời bỏ thể xác và linh hồn bà. Sự dễ chịu này xem chừng như quen thuộc với bà Vũ lắm. Bà trở lui về dĩ vãng, khuấy động những kỷ niệm trong đời sống dồi dào của bà, và nhớ lại sau mỗi lần sinh con, bà cũng đã từng cảm thấy. Trong mười tháng cưu mang, cái thai càng ngày càng lớn, càng ngày càng nặng và gần ngày sinh nở hơn; bà phải hết sức tự chủ để duy trì tính dịu dàng thường nhật. Rồi đến giờ sinh con, điều ấy đối với bà ít quan trọng hơn là thấy thân thể mình lại trở về với mình trọn vẹn. Khi nghe tiếng trẻ khóc thét lên, đứa trẻ lọt khỏi lòng bà, thì tư tưởng bà liền hướng về sự tự do đã phục hồi. Khi người ta đã tắm rửa, mặc áo cho đứa bé xong, bà yêu nó ngay, chứ không bao giờ yêu nó như một phần của chính mình.

Mà sáng hôm ấy bà Vũ cũng nhận thấy mình có một cảm giác nguyên vẹn như thế, nhưng rõ rệt hơn, sâu sắc hơn. Nhiệm vụ bà đã chu toàn. Trong nhà này không một ai thiếu điều gì cần thiết cả.

Hình ảnh Phan lại hiện lên trong trí bà. Bao lâu anh chưa lấy vợ, là bấy lâu bà chưa có tự do hoàn toàn.

Nghĩ đến đây, bà liền ngồi dậy xỏ chân vào đôi giày xa tanh đen thêu mà Giang thường đặt trên cái băng nhỏ, thấp và dài, để trước giường. Bàn chân của bà Vũ nhỏ và hẹp hơn chân thường một chút. Từ bao năm trước, khi bà còn là một đứa bé lên năm, mẹ bà đã bắt đầu bó chân bà. Cha bà xuất dương với Hoàng tử Lý Hồng Chương. Đứa bé thấy ảnh thân phụ mình chụp ở các nước xa lạ, và chị vú nói cho em biết về sự khôn ngoan cùng nhân từ của người. Thân mẫu em cũng thường nói đến những điều ấy, nhưng mỗi lần nói, chỉ là để sửa chữa một vài khuyết điểm của con…

"Con làm thế, nếu ba con biết được, người sẽ nghĩ sao?" bà thường nói với con như thế.

Và bao giờ cô gái nhỏ cũng nhượng bộ, vì em không biết trả lời ra sao.

Một hôm bà thân mẫu gọi Ái Liên đến, và khi thấy cái băng vải trắng dài, em liền òa khóc. Em đã từng thấy cũng một việc như thế xảy ra cho người chị cả của em. Người chị ấy trước kia chạy nhảy vui chơi, nhưng sau phải ngồi yên một chỗ, im lặng thêu suốt ngày, ngay cả khi đứng cũng không dám nữa, vì hai chân đau nhức nhối.

Bằng đôi mắt rất nghiêm khắc, mẹ em nhìn em nói:

- Nếu ba con trở về mà thấy hai chân con bẹt ra như chân một đứa trẻ nhà quê, thì liệu ba con sẽ nghĩ như thế nào?

Những tiếng nức nở của đứa bé giảm bớt dần và em đã để cho người ta bó chân.

Suốt đời em bé nhớ mãi đến cái tháng dở sống dở chết ấy. Rồi một lá thư của thân phụ em báo tin ngày trở về. Vì lòng kính mến cha, em đã chịu đựng đau đớn thêm mười lăm ngày nữa. Và khi người trở về, em đã cố cất bước đến cùng người. Nhưng sự vui mừng nào có thể so sánh được với sự vui mừng tiếp theo đó! Em chưa kịp nhìn mặt cha hay gọi đến tên người, thì người đã thét lên một tiếng thất thanh, và nâng bổng con gái trên tay.

- Hãy mở ngay băng chân con tôi ra.

Lệnh truyền ấy đã gây nên một cơn bão tố và nhiều lời than trách trong nhà. Bà Vũ không thể nhớ lại tiếng nào trong cuộc cãi vã của người lớn, nhưng bà khó quên được cơn giông bão hôm ấy. Mẹ bà khóc, bà nội thét lên vì giận dữ, và ngay cả ông nội bà cũng không ngớt kêu gào. Nhưng thân phụ bà đã ngồi xuống và đặt con lên đùi mình. Tự tay người lần mở dần băng vải và giải thoát đôi bàn chân con. Người lần lượt cầm lấy chân con, nhẹ nhàng chà xát để dẫn máu lại. Và khi máu trở về lại trong những đường mạch cũ đã bị bó ép, trước tiên làm cho em bé đau đớn vô cùng, rồi tiếp đến là sự vui mừng vô hạn.

Người lẩm bẩm:

- Không bao giờ… không bao giờ nữa!

Em bé nép sát vào mình cha, vừa khóc vừa rên rỉ:

- Nếu cha không trở về!...

Người đã trở về kịp thời để cứu nàng. Vài tháng sau, nàng bắt đầu chạy chơi như cũ. Nhưng hai bàn chân của chị nàng thì không làm gì được nữa vì xương đã vỡ.

Sau việc ấy, luôn ba năm trời, trong nhà cứ xảy ra những sự bất hòa. Cha nàng đã nhìn thấy tại chỗ các tập quán mới của những nước tân tiến, nên nài nỉ cho Ái Liên học chữ. Sau ba năm, người qua đời vì bệnh dịch tả trong một mùa hè oi bức. Lúc bấy giờ người ta không thể bó lại chân Ái Liên, và cũng đã quá chậm không thể nhấn chìm nàng trong sự ngu dốt, vì nàng đã biết chữ. Người ta cho phép nàng tiếp tục đọc sách, vì đã được hứa hôn. Thân sinh chồng nàng rất vui lòng vì nàng dâu biết chữ và không bó chân. Một lần mẹ nàng đã nói:

- Chúng ta may mắn được gặp một gia đình giàu sang và đại lượng.

Sáng hôm ấy, lúc đặt bàn chân mảnh dẻ của mình vào đôi giày vải, bà Vũ lại nhớ đến cha. Nghĩ đến sự tự do của đôi chân lúc bây giờ, bà cảm thấy lại một chút vui vui trong lòng. Bà mỉm cười. Thấy bà mỉm cười, Giang hóm hỉnh nói:

- Thưa bà, sáng hôm nay bà sung sướng quá!

Chị ta lại đăm đăm nhìn chủ, và bà Vũ không sao nhịn cười được, mặc dầu rất muốn làm nghiêm.

- Chị có vẻ như một đứa trẻ ranh. Đừng có tìm hiểu tôi làm gì. Cớ sao lại băn khoăn? Con người của ta ra sao, cứ sống y như vậy. À, trời hôm nay có tốt không?

- Thưa bà, trời tốt lắm ạ. Trông như thể đêm qua không mưa.

- Vậy thì mặc áo cho bà. Điểm tâm xong, bà đi thăm bà Khương. Bà định hỏi cô Liên Chi cho cậu Phan nhà ta, ý chị thế nào?

- Xứng đôi vừa lứa lắm rồi ạ! Nhưng thưa bà, nên tái diễn việc tốt, chứ không nên lặp lại một việc xấu. Cậu cả nhà ta được hạnh phúc với người trưởng nữ của bà Khương. Nhưng cậu hai đã đánh vợ hồi hôm.

- Cậu Thế đánh vợ à? Bà Vũ hỏi dồn.

- Con nghe mợ ấy than khóc. Chắc là bị đánh.

Bà Vũ thở dài.

"Vậy là ta không được bình yên trong nhà này rồi!" Bà thầm nghĩ.

Bà điểm tâm một cách vội vã rồi đi đến nhà người con thứ. Nhưng Thế đã đi vắng từ sáng tinh mơ. Đứa ở gái nói Tố Lan còn ngủ chưa dậy. Bà Vũ không muốn hỏi con ở vì sao Thế đã đánh vợ. Bà chỉ bảo:

- Nói lại cho cậu Thế biết, chiều nay bà sẽ gặp cậu ấy.

Sau đó, như mọi ngày, bà đi kiểm soát nhà bếp và các khuôn viên khác. Khi xem xét xong tất cả, bà khen ngợi, hoặc bình phẩm rồi trở về nhà riêng.

Hai giờ sau, bà Vũ bước ra khỏi nhà. Hai năm về trước ông Vũ có mua một chiếc xe hơi, nhưng đường hẹp quá, dùng nó rất bất tiện. Bà không muốn thấy thiên hạ đứng nép vào tường nhà, trong lúc chiếc xe to lớn chạy qua, choán mất cả đường phố. Bà không thích chiếc xe kéo có trần mà ông Vỹ đã tặng cho bà ngày nọ. Bà chỉ thích dùng cái kiệu cũ kỹ, vật hồi môn của bà. Bà bảo Giang đi theo thằng xe kéo. Rồi một trong bốn anh phu kiệu vén màn mời bà lên an vị và buông màn xuống. Qua khung kính nhỏ gắn ở màn hiệu, bà có thể nhìn thấy rõ cảnh vật bên ngoài mà không bị ai trông thấy mình.

Như thế, bốn người khiêng kiệu bà đi dọc theo đường phố đông đúc mà không làm trở ngại cho ai. Sức nặng của bà không làm cho mấy người phu mệt nhọc, và cái kiệu hẹp nên không một ai phải tránh cả.

Bà Vũ cực lòng biết bao khi nghĩ đến lời Giang đã nói với bà: "Vậy ra cậu Thế đã đánh vợ".

Bà tự nhủ: "Mình không nên tin, cho đến khi khám phá ra sự thật". Và bà đã xua đuổi tư tưởng ấy, không nghĩ đến nữa.

Nhà họ Vũ và nhà họ Khương rất xa nhau, phải đi qua hầu hết phố xá mới đến nơi. Nhưng bà Vũ không muốn vội vàng. Bà thích nhìn mặt trời chiếu trên đường phố còn ướt mưa đêm. Đá lát đường ướt, rất sạch, và mọi người xem ra vui vẻ sung sướng vì sắc trời xanh trong. Chợ búa huyên náo tấp nập, những người nhà quê gánh những gánh cải xanh tươi, những thúng trứng đầy ắp, và những bó rạ đun bếp. Cái nhịp sống rộn rịp này bao giờ cũng làm cho lòng bà Vũ dịu lại. Nhà họ Vũ chỉ là giữa muôn ngàn nhà khác trong thành phố này. Thật là một điều thú vị, khi nghĩ đến trong tất cả những ngôi nhà ấy đều có đàn ông và đàn bà chung sống với nhau, rồi sinh con đẻ cháu, Và trong nước có biết bao thành phố giống như thành phố này, trên thế giới có biết bao nước khác, mà người đàn ông và đàn bà cũng sống một cuộc đời như thế dưới những khung cảnh khác nhau. Bà Vũ thích đắm chìm trong tư tưởng ấy. Như thế, đời sống riêng tư của bà được thu gọn lại đúng theo khuôn khổ của nó. Phải chăng là một nỗi buồn trong bao nhiêu nỗi buồn khác tương tự, hay là một niềm vui độc nhất trong một thế giới có không biết bao nhiêu niềm hoan lạc?

Khoảng một giờ sau, kiệu bà Vũ đặt trước cổng nhà họ Khương. Dĩ nhiên là chị Giang đã sai người đi báo tin trước, nên người ta đang đợi. Hai cánh cửa lớn sơn đỏ mở rộng, có một người đứng túc trực tại đó. Khi rời khỏi xe, Giang vội vã chạy đến đỡ bà Vũ xuống kiệu. Chị mang trong tay hộp đồ trang điểm, phòng lúc bà chủ muốn sửa lại mái tóc hoặc tô thêm chút phấn.

Hai người bước vào cổng, nhưng chưa qua khuôn viên thứ nhất, họ đã trông thấy bà Khương đích thân ra đón bạn. Hai bà thân mật nắm lấy tay nhau. Bà Khương vồn vã chào:

- Bà chị của tôi ơi! Chị có tình với em quá!

Bà tò mò muốn nghe chính miệng bà Vũ nói cho bà biết những việc đã xảy ra. Bọn tôi tớ hai nhà thường qua lại với nhau luôn nên bà Khương biết rõ bạn mình đã thi hành ý định. Bà biết ngay cả việc đêm qua Thu Minh đã qua khuôn viên ông Vũ.

Bà Vũ nói:

- Thưa chị, tôi đến để nói với chị nhiều điều, nhưng tôi đến hơi sớm, tôi đã phá rầy chị.

- Sao chị lại nói thế?

Nhìn khuôn mặt xinh tươi yêu kiều của bạn, bà Khương không thấy gì thay đổi cả. Nét nhìn vẫn điềm đạm, cái miệng bình tĩnh duyên dáng, và làn da trắng màu ngọc. Thật chưa bao giờ bạn bà đẹp như thế.

- Chị đẹp quá! Bao giờ cũng đẹp, bà Khương dịu dàng nói, mặc dầu biết đầu tóc mình rối bù, bà vẫn không ngại ngần tiếp bạn.

- Tôi dậy sớm, bà Vũ nói. Bây giờ chị hãy trang điểm đi, tôi đợi.

- Xin chị đừng quan ngại đến đầu tóc của tôi. Chiều tôi mới sửa soạn, chứ buổi sáng ít thì giờ quá!

Bà vừa cười vừa nói, vừa quay lưng lại, vì sau lưng bà một lũ trẻ con không biết ở đâu kéo đến. Nào con nào cháu lẫn lộn. Bà Khương cúi xuống bồng đứa nhỏ nhất. Nó chưa biết đi, nhưng nó đứng được là nhờ có cái khăn vấn quanh mình, do một con ở cầm hai đầu chéo. Đứa bé mặc áo xa tanh, nhưng dơ bẩn vì chưa tắm rửa. Bà Khương ẵm nó sát vào mình, hôn một cách yêu thương như nó vừa ở bồn tắm ra.

Cả hai bà cùng đi vào, ngang qua hoa viên, đến khuôn viên bà Khương ở. Bà Khương để đứa bé xuống đất, đưa hai bàn tay mập mạp khoát đuổi lũ trẻ:

- Đi ra hết đi.

Thấy mặt chúng xìu xuống, bà thò tay vào túi áo cụt rộng, rút ra một nắm xu bỏ vào tay đứa ở gái lớn nhất, nói:

- Đi mua lạc rang cho chúng nó.

Khi lũ trẻ hí hửng đi ra, bà gọi giật lại bảo:

- Nhớ mua thứ gì có vỏ để giữ lâu mà ăn.

Thấy lũ trẻ chạy xô ra đường, bà vội cười vang. Rồi bà cầm lấy tay bà Vũ kéo vào phòng và đóng cửa lại. Bà nói:

- Bây giờ chỉ có hai chị em mình.

Khi bà Vũ ngồi xuống ghế, bà ngồi theo, khom người về phía trước, hai bàn tay để trên gối.

- Chị kể lại tất cả cho tôi nghe với nào.

Bà Vũ nhìn bạn, đôi mắt có vẻ kinh ngạc.

Sau một phút yên lặng, bà nói:

- Lạ thật, tôi tưởng không có gì để nói cả kìa!

- Sao lại có thể như thế được? Bà Khương đáp. Vậy, cô gái đó là ai? Chị có thích cô ta không? Ông ấy có vừa ý không?

- Tôi thích cô ta lắm.

Và trong lúc bạn làm thinh, bà Vũ thấy rằng suốt buổi sáng hôm ấy, bà định tâm nhất thiết không nghĩ gì đến ông Vũ và Thu Minh. Cô ta có làm đẹp lòng ông không? Bà Vũ không giải đáp câu hỏi đang cấu xé tâm can mình như một con rắn độc. Nhưng bà Khương đã nhắc tới nên buộc lòng bà phải tiếp tục câu chuyện.

- Tôi đặt tên cô ấy là Thu Minh. Cô ta, kể ra thì hơi tầm thường nhưng phúc hậu. Tôi chắc ông nhà tôi sẽ yêu mến cô ta. Vả lại, cô ta không có vẻ gì đáng ghét cả. Mọi người trong nhà sẽ không ai ghen ghét cô ta.

Bà Khương kinh ngạc nói:

- Trời ơi! Chị nói như chị vừa thuê một người vú em cho cháu. Tôi còn nhớ khi cha tôi lấy vợ hầu, thì mẹ tôi khóc lóc cố tìm cách thắt cổ. Cha tôi đã phải canh chừng ngày đêm. Rồi khi ông cụ cưới thêm nàng hầu nữa, thì bà hai đã nuốt chửng đôi hoa tai, và tấn tuồng ấy cứ tiếp diễn như thế mãi. Bà thứ năm là người chót. Họ ghen ghét nhau và tranh giành cha tôi (bà Khương bật cười sằng sặc). Họ gây gổ nhau về đôi giày của ông cụ, vì cụ đến với bà nào thì để giày trong phòng bà ấy. Vậy là một bà khác lấy trộm đi. Cuối cùng để được yên ổn, ông cụ phải chia thì giờ của mình ra cho họ đồng đều nhau.

- Các người vợ hầu ấy dại dột quá! Bà Vũ thản nhiên nói. Mỹ Trinh này, tôi không có ý nói mẹ chị. Dĩ nhiên là bà cụ đặt tất cả tín nhiệm vào người đàn ông. Nhưng các bà vợ hầu như thế thì…

- Không bao giờ có hạng người đàn bà như chị, chị Ái Liên ạ! Tôi hỏi thật, đêm qua chị ngủ có được không?

- Đêm qua tôi ngủ thật ngon, nhờ mưa rơi trên mái ngói.

- Ồ, vì mưa rơi trên mái à?

Rồi bà bật cười lớn, cười đến chảy nước mắt, phải đưa cánh tay áo lên lau. Bà Vũ mỉm cười, đợi trận cười của bạn ngớt, bà nói một cách nghiêm trang:

- Chị Mỹ Trinh. Tôi có một việc cần nói với chị.

Thấy vậy, bà Khương liền làm ra vẻ quan trọng hơn.

- Thôi tôi không cười nữa. Chuyện gì thế?

- Chị biết thằng Phan tôi bên nhà? Theo ý chị, tôi có nên gởi nó đi học không?

Bà đặt câu hỏi này một cách khéo léo, nếu bà Khương bảo không cần thì bà xin cưới Liên Chi ngay; còn trái lại thì…

- Không bao giờ tôi có thể biết được nó muốn gì. Nó chỉ có việc lớn lên như thổi. Nhưng, một người mẹ phải chăm sóc con trai mình khi nó đã quá mười bảy tuổi.

- Thì đã hẳn.

Bà cắn môi và nghĩ đến Phan. Chàng ta có cái phong độ ngạo nghễ và tế nhị như một lưỡi dao sắc bén. Giọng bà Vũ lại nghiêm trang:

- Tôi thú thật với chị, tôi nghĩ, nên trộn máu chúng ta lại một lần nữa, cùng một dòng. Phan với Liên Chi, chị nghĩ sao?

Bà Khương vỗ tay và reo lên:

- Tốt, tốt lắm!

Rồi bà để rơi hai bàn tay mập mạp xuống. Buồn bã nói:

- Theo tôi thì cậu Phan và con Liên Chi nhà tôi rất tốt đôi. Nhưng phần nó, không biết nó nghĩ sao.

- Lẽ ra, chị không nên cho cô ấy học trường ngoại quốc. Hồi ấy tôi cũng đã can chị rồi.

- Chị đã có lý. Bây giờ trong nhà không có cái gì vừa ý nó cả. Nó gây sự cả với nhà tôi khi ông nhổ bậy ra nền nhà. Thật tội ông nhà tôi quá! Nó muốn đặt ống phóng để nhổ. Nhưng khổ nỗi, lũ trẻ cứ lấy chơi làm rơi vỡ cả. Con Liên Chi nó bực mình cả đến việc mặc quần hở đít cho lũ trẻ. Nhưng trong nhà có những mười ba đứa trẻ mà không đứa nào nín được mỗi khi có việc cần thì làm sao được! Ông bà chúng ta đã dạy khôn cho chúng ta khi bày ra quần không đáy. Chúng ta có nên bỏ đi hay chê là xưa không? Nhà tôi có đến ba người thợ giặt.

- Sang bên tôi, Liên Chi sẽ khỏi bị trẻ con quấy rầy. Còn con cô ta sau này thì dĩ nhiên là cô phải tự liệu lấy.

Bà Vũ không muốn nói rõ rằng nhờ thế mà bà có thiện cảm với Liên Chi. Ở nhà bà Khương, lũ a hoàn và bọn vú em thường để trẻ con đại tiện ra nhà, đến nỗi không biết đặt chân vào đâu. Không bao giờ bà Vũ tha thứ các việc ấy. Lũ tôi tớ phải đưa các em bé đến những chỗ dành riêng cho việc ấy, hoặc sau các gốc cây.

Bà Khương nhìn bạn với vẻ ngại ngần:

- Tôi sung sướng được cho chị con Liên Chi nhà tôi. Nó phải có chồng để nó biết lo. Nhưng vì quá thương chị, tôi không thể giấu chị những khuyết điểm của nó. Tôi tưởng, dẫu nó muốn lấy cậu Phan chăng nữa, nó cũng buộc cậu ấy phải có một nền học vấn Tây phương. Nó sẽ lấy làm xấu hổ nếu cậu Phan không biết nói một thứ tiếng ngoại quốc nào.

- Nhưng nó nói thử tiếng ấy với ai đã chứ? Bà Vũ hỏi. Chả lẽ hai anh chị ngồi nói chuyện với nhau bằng tiếng ngoại quốc? Thế thì vô lý!

- Đúng thế. Nhưng đối với hạng gái trẻ ấy, chúng xem việc nói tiếng ngoại quốc là một điều hãnh diện.

Đôi bạn nhìn nhau, nghĩ ngợi. Rồi bà Vũ nói một cách dứt khoát:

- Hoặc là Liên Chi bằng lòng lấy thằng Phan, hoặc là tôi sẽ hủy bỏ ý định của tôi. Thời thế đang có mòi chiến tranh, con tôi không thể ở trong các thành phố miền duyên hải. Ở đây chúng ta được yên thân, vì tỉnh chúng ta xa miền bể.

Bà Khương bỗng trở nên tươi tỉnh:

- Khoan. Tôi đã có cách. Trong thành có một giáo sĩ ngoại quốc. Tại sao ta không nhờ ngài dạy riêng cho câu Phan? Được thế, tôi sẽ nói với Liên Chi rằng cậu Phan đang học tiếng Tây phương.

- Một người ngoại quốc? Bà Vũ nhắc lại một cách ngần ngại. Nhưng làm sao mà rước ông ta về ở trong nhà được? Như vậy sẽ không phiền phức sao? Tôi nghe nói, tất cả người phương Tây đều đa dâm và tàn bạo.

- Người này là một giáo sĩ. Đạo đức và tác phong đều đáng kính.

Bà Vũ suy xét vấn đề một cách thiết thực hơn. Cuối cùng bà hỏi:

- Vậy, nếu cô Liên- Chị nhất định đòi hỏi cho được điều ấy thì có lẽ tiện hơn là tôi gởi thằng Phan đi học xa, tại một trường ngoại quốc…

- Thế được rồi.

Bà Vũ đứng dậy nói:

- Vậy thì chị hãy nói với Liên Chi. Còn tôi, tôi sẽ nói với thằng Phan.

- Nhưng nếu Phan từ chối thì sao?

- Nó sẽ không từ chối đâu, vì tôi biết lựa lúc nói. Với đàn ông, dầu già hay trẻ, điều cần nhất là biết chọn đúng lúc của họ.

- Chị khôn ngoan thật!

Hai bà đứng dậy và tay trong tay, họ ra khỏi phòng. Nước trà và bánh ngọt đã dọn sẵn ngoài hoa viên.

- Mời chị ở nán lại một chốc, dùng trà đã.

- Chị bỏ lỗi cho, tôi xin về thôi. Có lẽ hôm nay là ngày thuận tiện để tôi nói chuyện ấy với thằng Phan.

Bà Vũ không muốn cho bạn biết về những lo âu của mình. Bà sợ tinh thần Phan bị xao động, vì chàng đã thấy Thu Minh trước khi nàng qua nhà ông Vũ.

Bà Vũ cáo từ và để lại một ít tiền thưởng công cho chị ở hầu trà.

Giang đang ngồi tán gẫu ở dưới bếp cũng đứng dậy ra về với chủ.

Lúc về đến nhà, người đầu tiên bà Vũ gặp không phải là Phan mà là cô Hsia.

Vì bọn tôi tớ các nhà trong thành phố đều hay biết những việc xảy ra tại hai gia đình to lớn như nhà họ Vũ và nhà họ Khương, nên bà Vũ nghĩ rằng, ông bếp nhà cô Hsia cũng biết tin kia và đã nói lại với chủ.

Cô Hsia đã vào trong cổng và đang đi ngang qua sân chính. Lúc trông thấy bà Vũ, cô dừng lại reo lên:

- Ồ bà Vũ. Tôi vừa nghe tin… Nhưng chắc không phải như thế chứ?

Bà Vũ thân mật nói:

- Xin mời cô vào. Ngày hôm nay không đẹp sao? Về mùa này ít khi trời trong như thế này. Chúng ta ra ngoài hoa viên, rồi chị Giang sẽ mang thức ăn đến. Gần đứng bóng rồi.

Bà đưa cô Hsia qua sân chính, đến hoa viên của bà. Bà nói:

- Xin mời cô ngồi. Tôi phải vào trong phòng một lát. Cô ngồi nghỉ và hãy thưởng thức buổi sáng tươi đẹp này.

Bà Vũ tươi cười nghiêng mình chào và lui về phòng riêng. Giang đi theo sau càu nhàu:

- Xem bộ trời sắp mưa rồi! Yêu tinh đã hiện ra cả!

- Im đi! Bà Vũ mắng.

Nhưng bà mỉm cười khi ngồi xuống tấm gương soi. Bà chữa lại một đường tóc lệch, thoa thêm một chút phấn, cất đôi hoa tai vàng và mang một đôi khác bằng ngọc. Đoạn bà rửa tay, bôi nước hoa vào tay rồi ra hoa viên.

Khuôn mặt xanh xao của cô Hsia đầy cảm tình. Cô đứng dậy bước tới một cách vụng về.

- Ôi, bà bạn thân mến của tôi! (cô thở ra). Bà đã gặp phải thử thách nặng nề làm sao! Tôi không bao giờ ngờ đến. Tôi xem ra ông Vũ rất khác các người đàn ông khác. Tôi cứ tưởng…

Bà Vũ với một giọng dịu dàng và một nụ cười rất ấm áp:

- Sáng nay cô đến chơi, tôi rất mừng. Cô có thể giúp tôi một việc.

Cả hai cùng ngồi xuống ghế. Cô Hsia nghiêng mình tới phía trước, hai bàn tay bụm lại với nhau.

- Xin bà cứ hỏi tôi về bất cứ điều gì, bà Vũ thân mến ạ! Đôi khi Thượng đế phạt kẻ mà ngài thương.

Đôi mắt bà Vũ mở lớn.

- Thưa cô, phải chăng cô muốn giảng Phúc âm sáng nay. Nếu thế thì tôi sẽ hoãn điều tôi muốn nói lại vào dịp khác.

- Ồ, không! Tôi nói thế chỉ là để an ủi bà, để giúp đỡ bà thôi.

- Nhưng tôi có sao đâu?

- Tôi nghe nói, tôi tưởng…

Cô Hsia ấp úng không nói nên lời. Cô rất lấy làm kinh ngạc.

Bà Vũ tiếp:

- Không nên để ý đến chuyện lũ tôi tớ. Bao giờ chúng cũng muốn tung ra những tin giật gân. Nếu sự việc mà xẩy ra theo đúng như ý muốn của chúng nó, thì chúng ta sẽ đau một ngày, rồi hôm sau sẽ chết đi và ngày thứ ba sống lại.

Cô Hsia sửng sốt nhìn bà Vũ. Phải chăng đây là một câu nói khôi hài. Có lẽ bà Vũ không muốn tỏ ra sầu khổ.

- Vậy câu chuyện ấy không có thực sao? Cô hỏi.

- Tôi không biết cái gì thực, cái gì không, nhưng cô nên nhớ rằng, trong nhà này không có việc gì xảy ra mà tôi không biết, hoặc không có phép của tôi.

Bà Vũ cảm thấy thương hại khi khuôn mặt xanh xao của cô Hsia ửng đỏ. Bà tiếp:

- Cô bao giờ cũng tốt. Cô có muốn giúp tôi không?

Bà Vũ đưa chiếc khăn tay bằng lụa thơm khẽ chấm chấm vào đôi môi đẹp đẽ của mình.

- Tôi thấy cậu con trai thứ ba của tôi thiếu kiến thức, bà nói bằng một giọng ngọt ngào, mà sự ngọt ngào ấy hình như bao giờ cũng tạo nên một khoảng cách giữa bà và người đối thoại. Tôi định cho nó học với một người ngoại quốc để có thể nói được tiếng tây phương và đọc sách của nước ấy. Dù sao, điều mà tổ tiên chúng tôi lấy làm đủ, không còn làm cho chúng tôi hài lòng nữa. Đại- dương không còn ngăn cách các dân tộc, và trời xanh không còn là một vòm riêng của chúng tôi nữa. Cô có thể chỉ giúp cho tôi một người ngoại quốc trong thành này, để tôi nhờ dạy cho cháu Phan. Như thế có được không ạ?

Cô Hsia bối rối, vì lời yêu cầu ấy không liên quan gì đến tiếng đồn đang lan rộng. Cô nín lặng một lúc, không nói được lời nào.

- Người ta nói với tôi, có một vị giáo sĩ ngoại quốc. Cô biết gì về vị ấy không?

- Một giáo sĩ à? Cô Hsia lẩm bẩm.

- Người ta nói với tôi thế.

Rồi bà mỉm cười tiếp:

- Nhờ cô nói với vị giáo sĩ ấy đến cho tôi gặp.

Bà ngạc nhiên thấy khuôn mặt xấu xí của cô Hsia lại ửng hồng.

- Người ấy không có vợ. Nếu tôi đến gặp, không hiểu ông ta sẽ nghĩ về tôi như thế nào!

Bà Vũ khoan hòa nắm lấy bàn tay xương xẩu của cô Hsia. Bà nói:

- Không ai có thể nghi ngờ đức hạnh của cô được.

Cử chỉ này đánh tan vẻ ngượng nghịu của người đàn bà ngoại quốc.

- Bà Vũ thân mến. Để tôi giúp bà, tôi có thể làm bất cứ một công việc gì…

Trong giọng nói của cô có lẫn một chút cứng cỏi. Nhưng bà Vũ vốn ghét sự cứng cỏi. Bà vỗ tay ra hiệu cho Giang bưng đến một khay trà và bánh ngọt.

- Bây giờ cô thích cầu kinh trước khi ra về không?

- Thế thì tôi sung sướng lắm.

Cô Hsia nhắm mắt, cúi đầu thưa chuyện với một đảng vô hình bằng một giọng sốt sắng. Trong lúc ấy, bà Vũ giữ một vẻ thinh lặng. Bà không muốn nhắm mắt. Bà ngồi ngắm khuôn mặt người đàn bà ngoại quốc. Con người cô độc như thế, xa quê nhà như thế, trong lòng sẽ trống trải biết bao! Cô ta đã vượt trùng dương đến đây để chăm lo các công cuộc từ thiện. Mọi người đều rõ công việc của cô làm, các buổi nhóm họp hàng tuần của cô để dạy may vá. Đời sống nghèo nàn của cô, các của bố thí của cô, mà hầu hết những gì mà cô có, thiên hạ đều biết rõ. Than ôi! Một cuộc sống như thế cô độc biết ngần nào! Một niềm yêu thương dịu dàng bừng dậy tự đáy tâm can của bà Vũ.

Khi mở mắt, cô Hsia ngạc nhiên thấy trong đôi mắt đẹp của bà Vũ hiện ra biết bao vẻ dịu dàng, ấm áp. Trong khoảnh khắc, cô tưởng như lời cầu nguyện của cô đạt được kết quả một cách nhiệm mầu. Phải chăng Thiên – Chúa đã làm cho lòng người đàn bà ngoại giáo này xúc động?

Bà Vũ đứng dậy cả quyết nói để nhắc cô Hsia ra về.

- Cô sẽ mời vị giáo sĩ ấy đến cho tôi chứ?

Và lời yêu cầu ấy là một mệnh lệnh.

Cô Hsia miễn cưỡng phải nhận lời.

- Tôi biết đền đáp ơn cô thế nào đây? Bà Vũ nhã nhặn nói. Cô Hsia ạ, ít ra, xin cô để tôi nói điều này. Cô tìm cho con trai tôi một thầy học, rồi để tỏ lòng biết ơn cô, tôi xin cô cầu nguyện cho tôi mỗi khi cô muốn…

Và bà từ giã khách.

°

° °

Suốt ngày hôm ấy, bà Vũ không sao quên được lời chị Giang đã nói với bà về tiếng khóc của Tố Lan trong đêm khuya. Nhưng đã từ lâu bà hiểu rằng, công việc trong một gia đình to lớn phải được xếp đặt một cách tuần tự. Lòng trí vẫn luôn luôn nghĩ đến sự trật tự này. Bà đã tập cho mình chăm lo các việc lặt vặt, trong lúc tâm trí vẫn suy nghĩ đến những việc to lớn.

Bà cho gọi người đầu bếp đến để kiểm xét sổ chi tiêu trong tháng. Lẽ ra công việc này đã xếp đặt xong từ hai ngày trước. Nhưng anh ta thấy trong nhà còn đang lộn xộn, nên chưa dám mang sổ đến trình. Bà Vũ kiểm xét các khoản và cho biết giá rạ đun bếp quá đắt. Giang luôn luôn kiếm cách đứng cạnh bà Vũ mỗi khi chồng chị mang sổ đến trình. Vì, nếu người ta cho rằng không thể nào tìm ra một người hầu bếp nào giỏi hơn anh, thì chính chị lại nhận thấy anh ta hoàn toàn thiếu thông minh. Khi bà Vũ ám chỉ đến việc củi lửa. Giang liền hiểu ngay có người đã bươi móc về việc ấy. Đó là một người đàn bà đứng tuổi đã tỏ tình với chồng chị. Nhưng ngoài Giang ra, anh đầu bếp cố tránh không chú ý đến một người đàn bà nào khác. Bởi thế, sự tỏ tình liều lĩnh ấy đã trở thành oán thù, và người đàn bà kia thường kiếm cách tìm cho ra lỗi của Giang, hoặc chồng chị.

Nghe lời bình phẩm của bà Vũ, Giang liền mắng chồng:

- Đồ ngốc! Tôi đã bảo là đừng mua rạ ở chợ cửa Tây, ở đấy cái gì cũng đắt.

Bà Vũ nói:

- Chúng ta không nên mua rạ sớm như thế. Rạ nhà cũng đủ dùng đến tháng tám, rồi chừng ấy sẽ cắt rạ mới.

Anh bếp thưa:

- Thưa bà, ông quản lý đã cho cắt mất mấy đống rạ rồi ạ.

Bà Vũ biết có nói thêm cũng vô ích. Bà nhận sự bào chữa ấy, vì bà đã nói ra sự nhận xét của mình. Bà gấp sổ lại và trao trả cho anh bếp. Rồi bà đi mở tủ lấy tiền bù vào số đã thiếu trong tháng, và đưa thêm để tiêu trong tháng tới. Gia đình có trên sáu chục miệng ăn, nên số tiền tiêu bao giờ cũng nhiều.

Tiếp đó, người gia nhân phụ trách quần áo đến, có hai chị thợ may theo sau. Bà Vũ cùng với họ lo liệu áo quần mùa nắng cho tất cả kẻ ăn người ở trong nhà, và xem xét lại việc thay đổi mùng màn, mền chiếu, v.v… Khi công việc này xong, thì thợ mộc đến để định giá việc sửa chữa hai mái nhà dột, và làm thêm một căn nhà kho.

Bà Vũ chú tâm vào công việc một cách tỉ mỉ. Khi làm việc gì, bà có tài đem hết tâm trí vào việc ấy và quên hẳn các việc khác. Khi đã xong một việc bà liền lo sang việc thứ hai, cũng với một sự chu đáo hoàn toàn như vậy. Ngày hôm ấy, bà hết giải quyết việc này đến việc khác. Mãi đến hoàng hôn, khi mọi việc trong nhà đã hoàn tất, bà mới để trí óc mình hướng về những suy tưởng riêng tư. Bà nghĩ đến Phan.

"Thì ra hôm nay mình chưa bàn gì về những điều đã quyết định về nó cả"

Bà ngồi làm việc suốt ngày trong thư phòng, không rời khỏi cái ghế bành rộng lớn cạnh bàn đọc sách. Vẫn như bao giờ, bà nhất quyết cưới Liên Chi cho con trai. Tuy nhiên, bà nhận thấy cần nói cho Phan biết. Giang đang dọn dẹp ở phòng bên, bà bảo:

- Chị gọi cậu Phan đến để tôi nói chuyện.

Bà ngập ngừng trong lúc Giang đứng đợi. Đoạn bà tiếp:

- … Và khi chị đi gọi cậu Phan, chị ghé mời dì hai tối nay đến dùng cơm chung với gia đình.

Giang cắn môi và đi ra. Bà Vũ ngồi đợi, ngón tay cái và ngón tay trỏ tì lên môi.

Lúc ấy chắc có Phan ở nhà, vì đã gần đến bữa cơm tối. Nếu Phan nghe lời bà, bà sẽ đến dùng cơm chung với mọi người trong gia đình, thay vì ăn riêng như mấy hôm nay. Đã đến lúc bà trở về chỗ cũ của mình giữa mọi người trong nhà.

Vài phút sau, bà nghe tiếng chân Phan. Bà nhận ra tiếng bước chân của từng người con một. Bước chân của Lăng thì chậm và quả quyết, bước chân của Thế thì hung hăng và không đều, còn Dân thì ở đâu cũng chạy. Nhưng Phan thì đi với một nhịp riêng, bao giờ ba bước trước cũng nhanh hơn bước thứ tư. Phan hiện ra ở ngưỡng cửa thư phòng, vận đồng phục học sinh màu xanh, đầu đội mũ kết bằng nỉ màu xanh có đính một cái băng nhỏ mang chữ: "Trường Trung học Phục Hưng Quốc Gia"

Bà Vũ mỉm cười với con và ra hiệu cho chàng vào.

- Chữ Phục-Hưng-Quốc-Gia ấy có nghĩa là gì thế con? Bà hỏi, hơi có vẻ khôi hài.

- Thưa mẹ, chỉ là một danh từ.

Chàng ngồi xuống một cái ghế cạnh mẹ, cái mũ xoay xoay trong tay.

- Vậy danh từ ấy không có nghĩa gì với con cả sao?

- Dĩ nhiên là mọi người chúng ta ai cũng mong phục hưng xứ sở.

Vẫn một giọng vui vẻ, bà Vũ nói:

- Không biết chữ phục hưng bao gồm ý nghĩa gì?

Phan bật cười, chàng nói:

- Lúc này con đang gặp khó khăn về môn đại số học. Có lẽ khi nào con vượt qua khỏi sự khó khăn ấy, con mới hiểu nghĩa phục hưng quốc gia một cách rõ ràng hơn.

- Đại số học… bà Vũ nói với một vẻ trầm ngâm. Có nhiều loại trong các môn khoa học ấy bắt đầu ở Ấn- Độ, rồi sau mới du nhập sang Âu- châu.

Phan lấy làm ngạc nhiên. Chàng không ngờ mẹ chàng đã tự học những điều ấy. Thấy vậy, bà Vũ cũng vui vui trong lòng.

Bỗng bà nói với chàng:

- Con xanh quá! Con có ăn cao lộc của con đấy không?

- Thưa, nó tởm hơn cá thối nữa.

Bà Vũ tươi cười, hòa nhã nói:

- Thế thì thôi. Tại sao con lại ghét uống thuốc đến thế?

Lại một lần nữa Phan ngạc nhiên.

- Cám ơn mẹ.

Bà Vũ khom mình về phía trước, hai tay chắp trên gối. Bà nói:

- Phan này, đã đến lúc bàn đến cuộc đời của con.

- Đời của con?

Phan ngước mắt nhìn mẹ, tay ngừng xoay cái mũ.

- Ừ, về đời của con. Cha con và mẹ đã nói chuyện với nhau về việc ấy.

Phan hung hăng:

- Thưa mẹ, mẹ đừng có tưởng con sẽ bằng lòng để mẹ chọn vợ cho con.

- Đúng thế! Đây, mẹ chỉ muốn kể tên một vài cô cho con nghe và hỏi xem con thích cô nào. Dĩ nhiên mẹ đã xem xét các sở thích của con, cũng như hoàn cảnh của gia đình nhà ta. Mẹ đã bỏ qua không kể đến các cô như cô gái thứ của gia đình họ Trần, vì cô này giáo dục theo lối cổ.

- Quả thật, con không thích một cô gái như thế.

- Đã hẳn thế rồi. Nhưng còn một điểm khó khăn khác, bà Vũ nói với một vẻ bình tĩnh. Ngày nay chính bọn con gái đòi hỏi quá đáng không như thời mẹ. Mẹ phó thác việc ấy trong tay bà ngoại con và người chú ruột thay mặt cha. Nhưng bây giờ những cô gái, hàng gái làm con thích ấy, Phan ạ - họ từ chối những thanh niên không biết nói tiếng ngoại quốc, ít nhất là một thứ tiếng.

- Con có học Anh văn ở trường, Phan tự hào nói.

- Nhưng con nói không giỏi. Mặc dầu mẹ không biết tiếng Anh, nhưng mẹ nghe con nói bập bẹ và hay ngập ngừng. Không phải là mẹ chê trách con, nhưng đó là sự thật.

Phan tức tối hỏi:

- Cô nào không thích con?

Bà Vũ lợi dụng cơn giận đó để đạt mục đích của mình, giống như chiếc tàu nương theo ngọn sóng để cập bờ:

- Cô con gái thứ bà của bà Khương đấy. Cô Liên Chi.

Chưa bao giờ bà Vũ thấy hai người để ý đến nhau. Nhưng cơn giận hiện tại đã đủ, Phan đã quan tâm.

- Cái cô gái ấy à? Phan lẩm bẩm. Xem bộ cô ta hãnh diện lắm. Con ghét cái dáng điệu ấy lạ!

- Thật ra, cô ta rất đẹp. Nhưng đó không phải là điều quan trọng. Mẹ nhắc đến nàng chẳng qua là kể chung tên nàng cùng với tên các cô gái khác. Nếu cô Liên Chi biết gia đình và hoàn cảnh nhà ta mà còn bắt bẻ, thì liệu chúng ta có thể đi hỏi một người nào khác hơn cô ấy không?

- Mẹ có thể gởi con theo học ở một trường ngoại quốc, Phan hăng hái nói.

Với một giọng êm ái nhưng cương quyết, bà Vũ nói:

- Mẹ không muốn thế. Trong vài năm nữa chiến tranh sẽ bùng nổ khắp toàn cầu. Lúc bấy giờ hết thảy các con mẹ phải có mặt ở nhà.

Phan nhìn mẹ sững sờ:

- Thưa mẹ, sao mẹ có thể tiên đoán được những điều như vậy?

- Mẹ không phải là người ngu ngốc, mặc dầu mọi người quanh mẹ đều ngu ngốc cả. Khi người ta tiến từng bước, không bị ai ngăn cản, ấy mới là tiến bộ.

Chàng thanh niên nhìn mẹ. Đôi mắt chàng cũng to và đen như đôi mắt bà Vũ, nhưng không có bề sâu. Chàng thinh lặng như cố hiểu lời mẹ nói.

Bà Vũ tiếp:

- Mẹ nghe nói có một vị giáo sĩ ngoại quốc ở đây, trong thành này, ông ta rất thông thái. Có lẽ với một số tiền nào đó, ông có thể dạy ngoại ngữ cho con. Vậy con có thích không? Cái vốn ngoại ngữ ấy, một ngày kia sẽ giúp ích cho con. Mẹ không chỉ nghĩ đến việc hôn nhân của con mà thôi. Thời thế rồi đây sẽ có nhiều đổi thay.

Giọng bà rất trong suốt, rất dịu dàng. Dưới mắt Phan, mẹ chàng bao giờ cũng có lý, họa hoằn có đôi khi Phan làm trái ý mẹ, và tuy bà không phạt, chàng vẫn mang lấy hình phạt, dần dà chàng nhận biết lời mẹ đầy khôn ngoan. Chàng cố nêu lên một vài điểm khó khăn:

- Một giáo sĩ! Con không tin đạo.

- Mẹ không bảo con phải tin đạo. Việc ấy không thành vấn đề.

- Người ta muốn cảm hóa con theo đạo. Cô Hsia luôn luôn tìm cách lôi cuốn người nhà ta theo đạo. Mỗi lần gặp con, cô đưa ngay cho con một tờ giấy về Thánh Kinh.

- Con có cần để người ta lôi cuốn theo đạo đâu. Con yếu đuối đến thế kia à? Con phải học cách đón nhận ở mỗi người những gì tốt nhất, kỳ dư không cần phải biết các điều khác. Vậy, con học thử với vị giáo sĩ ấy trong một tháng, và nếu con không muốn tiếp tục nữa thì mẹ cũng không ép.

Đó là cái bí quyết của bà. Không bao giờ bà để người ta tưởng ý muốn của bà là tuyệt đối. Bà cho họ thì giờ và hứa hẹn chấm dứt, rồi dùng thì giờ ấy để uốn nắn các biến chuyển theo hướng mà bà thích.

Phan lại bắt đầu xoay cái mũ két trong tay một cách chậm rãi.

- Vậy thì một tháng. Nhưng nếu con không thích thì không quá một tháng đấy.

- Ừ, một tháng.

Bà Vũ ưng thuận. Bà đứng dậy nói:

- Thôi, bây giờ mẹ con ta đi ăn cơm tối, kẻo cha con chờ.

Trong nhà họ Vũ, đàn ông và đàn bà đều có bàn ăn riêng. Tới phòng ăn, Phan tách khỏi mẹ để đến với cha, các anh và những người anh em họ đang ngồi ở cuối phòng. Bà Vũ với một vẻ duyên dáng thường lệ, tiến về phía bàn ăn dành cho phụ nữ. Khi bà đến, mọi người đều đứng dậy. Bà Vũ thấy Thu Minh ngay. Nàng ngồi hơi nhích ra đàng sau, bồng một đứa trẻ trên gối. Khi đứng dậy, nàng bồng lên đứa trẻ trong tay và e thẹn nép mình sau nó. Nhưng bà Vũ cũng có đủ thì giờ để nhìn nàng. Thu Minh có vẻ rất nghiêm trang, nhưng ở giữa một nơi mới lạ như thế này đó là lẽ tự nhiên. Có mặt nàng ở đấy là đủ.

Bà Vũ nhã nhặn nói với mọi người:

- Xin mời tất cả ngồi xuống.

Bà ngồi vào chỗ của mình, nơi cao trọng nhất, và cầm đũa. Mai đã xới cơm vào chén cho mọi người, bà Vũ đặt đũa xuống bàn nói:

- Mai, con làm thay mẹ một chút. Cả ngày bận lo công việc nên mẹ cảm thấy hơi mệt.

Bà dựa lưng vào thành ghế, mỉm cười nói chuyện với các nàng dâu, mỗi người một vài câu như thường lệ. Bà cũng không quên nói chuyện với thằng bé con của Mai, nó đang ngồi trong tay người vú. Đứa bé vùng vẫy, bà vú lấy đũa chọn một miếng thịt nhỏ gắp đút cho nó. Rồi bà quay về phía Thu Minh thân ái nói:

- Dì hai, mời dì cứ ăn tự nhiên. Dì nên ăn cá. Cá rất tốt.

Thu Minh ngước nhìn bà Vũ, mặt đỏ bừng. Nàng ẵm đứa bé đứng dậy, khẽ nói:

- Cám ơn chị cả.

Nàng ngồi xuống, không nói thêm gì. Khi một chị ở đặt chén cơm trước mặt nàng, nàng bắt đầu cho đứa bé ăn.

Nhưng bà Vũ dựa vào lời nói khả ái ấy, loan báo cho cả nhà hay Thu Minh đã có địa vị định sẵn, và cả gia đình phải thừa nhận nàng trong cuộc sống hàng ngày. Mọi người đều lắng tai nghe và tiếp theo là một sự im lặng hoàn toàn. Rồi một đứa đầy tớ thì thầm, các vú em nói chuyện với mấy đứa trẻ, để đánh tan bầu không khí thinh lặng ấy.

Bà Vũ bắt đầu ăn. Đứa cháu trai bà khóc, đòi ngồi trên gối bà, để được ăn thịt. Mai âu yếm mắng con:

- Không được, miệng và tay con bẩn lắm.

Bà Vũ ngước mắt lên như vừa tỉnh một giấc mơ.

Bà hỏi:

- Cháu nó đòi mẹ phải không?

- Cháu nó bẩn quá mẹ ạ.

- Biết rồi, đưa cháu cho mẹ.

Bà đưa tay nâng đứa bé nặng nề đặt lên trên gối. Bà lấy một đôi đũa sạch, chọn trong các đĩa đồ ăn những miếng thịt nhỏ, gắp đút cho đứa bé. Bà không nói gì, mà chỉ mỉm cười mỗi khi đút thịt vào miệng nó.

Đứa trẻ không mỉm cười đáp lại. Xem tuồng nó khoan khoái lắm. Nó há cái miệng bé nhỏ ra, nhai từng miếng với một sự thích thú yên lặng. Bào giờ bà cũng gây được nhiều vui thích cho lũ trẻ, chúng chỉ có việc ở bên bà là bà có thể truyền cho chúng cái niềm vui thích ấy mà không phải nhọc công gì. Và sự vui thích của đứa cháu chiếu dội lại trên khuôn mặt bà. Nhìn cháu, bà cảm thấy bổn phận mình đối với gia đình đã hoàn tất, bà cũng nhận ra rằng, nhờ nó sự cô độc âm thầm của bà trong tòa nhà to lớn này có phần dịu bớt. Bà không biết có sự cô độc ấy, và nếu ai đả động đến thì bà gạt đi, vì sợ người ta hiểu lầm. Nhưng bà sống quá riêng rẽ, nên người ta không hiểu thấu lòng bà. Tâm hồn bà đã vượt khỏi sự sống đi tiêu diêu ở cõi xa, ra khỏi bốn bức tường mà phần thể xác bà đương sống. Nó đi chu du khắp thế giới vươn về quá khứ, vượt đến tương lai, và tư tưởng của bà đùa giỡn trong những cuộc phiếm du thường xuyên ấy. Nhưng thỉnh thoảng tâm hồn ấy lại trở về chỗ ở của nó, trong tòa nhà này. Lúc bấy giờ bà Vũ ý thức đầy đủ về đứa trẻ và vai trò của nó. Các thế hệ kế tục nhau, thế hệ của bà chấm dứt, thế hệ của đứa bé bắt đầu.

Cái miệng nhỏ bé của đứa trẻ đang há ra chờ. Bà tiếp tục đút thịt cho nó và thì thầm một cách yêu thương: "Con trai của con trai tôi!"

Khi đứa bé đã no, bà trao trả cho mẹ nó.

Bà ăn xong trước mọi người. Bà đứng dậy mời mọi người cứ tiếp tục, rồi khoan thai bước ra khỏi phòng. Ông Vũ và các con trai đứng dậy chào bà khi bà đi ngang qua bàn họ. Bà mỉm cười nghiêng đầu đáp lại và cứ tiếp tục đi.

Đêm ấy, bà ngủ đến sáng, không thức giấc lần nào.

Đối với Thu Minh, sự hiện diện của bà Vũ trong nửa giờ hôm ấy, thay thế cho nghi thức hôn nhân. Đêm vừa qua đã lưu lại cho nàng bao nỗi băn khoăn. Ông có vừa ý về nàng không? Ông không nói gì với nàng và đã rời bỏ nàng trước rạng đông. Suốt buổi, không có ai đến với nàng ngoài con ở gái. Tiếp đến, Giang tới mời nàng đi dùng cơm tối với gia đình. Thu Minh vội vàng sửa soạn, và đến giờ, nàng lẻn vào phòng ăn giành bồng lấy một đứa bé trong tay chị vú mà nó vẫn không khóc. Nhưng với nàng, không bao giờ bọn trẻ khóc cả. Trước kia, ở trong làng, nàng đã từng giữ con cho các bà nhà quê.

Từng người một, những người đàn bà bây giờ đã thành thân thuộc với nàng, bước ra chào nàng với dáng điệu nửa dửng dưng nửa bối rối, và nàng chỉ biết khẽ nghiêng mình đáp lễ.

Nàng nuốt không trôi cơm, nhưng liền sau khi bà Vũ đi ra, nàng cảm thấy đói, nên đã lựa chiều ngồi để khỏi đối diện với ai, rồi vội và rất mau hết hai chén cơm với thịt.

Ăn xong, nàng đợi Mai và Tố Lan đi ra, nhưng càng lâu càng ngượng nghịu, Mai còn ngồi nán lại một lát để nói chuyện với nàng.

- Mai tôi sẽ đến thăm dì, dì hai ạ!

- Tôi không dám… Thu Minh khẽ đáp.

Nàng không dám nhìn thẳng mặt Mai, Mai biết lòng nàng đang sợ sệt và lo buồn. Chị tiếp:

- Tôi sẽ đến thăm dì và đem cháu bé theo nữa. Thu Minh đi ra cùng một lần với mấy người đàn bà và con trẻ. Nàng lẩn tránh giữa họ để các người đàn ông không trông thấy. Nhưng họ kín đáo nhìn nàng mỗi người theo một cách riêng.

Tối hôm ấy ông Vũ đến vườn mẫu đơn rất sớm. Thu Minh chưa đi ngủ. Nàng đang tiếp tục may nốt số áo quần còn bỏ dở. Khi ông Vũ bước vào phòng, nàng đứng dậy và quay mặt đi nơi khác. Ông ngồi xuống ghế trong lúc nàng vẫn đứng. Ông đằng hắng, để tay lên gối và nhìn nàng:

- Này em, ông nói mà không gọi bằng tên. Em đừng sợ tôi.

Nàng không nói một tiếng nào. Hai tay nàng bấu chặt lấy cái áo đang may dở, nàng đứng trước mặt ông, cứng đờ như khúc gỗ.

- Trong nhà này sẵn có tất cả để làm em sung sướng, ông Vũ tiếp. Mẹ chúng nó rất tốt. Nhà có nhiều đàn bà trẻ, các con dâu tôi, vợ của những người anh em họ tôi, và nhiều trẻ con. Xem ra em là người có tư cách, chắc em sẽ vui thích. Ở đây em sẽ rất sung sướng.

Nàng vẫn làm thinh. Ông Vũ ho và nới nịt ra thêm một nấc nữa. Ông ăn rất nhiều, nên thấy no và nghẹt thở. Ông nói chưa xong điều mình muốn giải thích:

- Với tôi, em chu toàn một vài công việc thôi. Tôi thích ngủ muộn. Đừng có làm tôi thức dậy nếu tôi còn an giấc. Ban đêm, khi tôi không ngủ, tôi thích uống trà, nhưng không phải là thứ trà đỏ. Tôi có máu nóng nên không chịu được hai cái chăn, dẫu mùa đông cũng thế. Những điều ấy và một vài điều khác nữa, rồi em sẽ hiểu.

Nàng để rơi cái áo xuống, ngước mắt nhìn ông và quên cả e thẹn.

- Thế người ta bằng lòng về tôi à?

Nàng hỏi ông với một lòng khao khát được gặp một nơi nương tựa

- Dĩ nhiên rồi. Ta đã chẳng chứng minh điều ấy với em sao?

Ông cười và gương mặt sáng ra bởi một sức nóng bừng cháy trong người.

Thu Minh thấy thế hiều ngay.

Đêm ấy nàng không sợ nữa. Cuối cùng, để có nơi nương tựa, việc đền đáp lòng tốt một người đàn ông cũng chẳng có gì... rất ít...