← Quay lại trang sách

Chương 6

Cô Hsia bao giờ cũng chu toàn công việc một cách nhanh chóng. Bà Vũ không ngờ nó chóng đến thế, vì tám ngày sau khi chị Giang đến tìm bà. Đôi mắt nhỏ tròn của chị chiếu ngời sự ngạc nhiên, chị kêu lên:

- Bà! Bà ơi!

Bà Vũ đang đi dạo giữa vườn lan, vội dừng chân lại, vẻ phật ý.

- Giang! Bà gắt. Chị câm mồm lại, gì mà có vẻ như cá mắc câu thế? Việc gì? Bình tĩnh nói đi.

Giang vâng lời, nhưng lại bối rối ngay.

- Một người đàn ông, to hơn tất cả các người mà con đã thấy. Một người ngoại quốc! Ông ta bảo là bà cho người đi mời ông đến.

- Tôi à? Bà Vũ kinh ngạc.

Rồi bà nhớ lại

- À, phải rồi, có lẽ...

- Thưa bà, bà không nói cho con biết gì cả. Con cấm anh gác cổng không được để người ấy vào. Vì bất cứ lý do gì. Không bao giờ một người ngoại quốc lại đến nhà này.

- Không phải cái gì tôi cũng nói với chị cả. Chị ra mời người ấy vào đây.

Giang đi ra, ngơ ngác. Bà Vũ vẫn tiếp tục cuộc tản bộ giữa những khóm lan. Sau một thời gian ngắn, lan đã lấy lại sức, chúng lên rất tốt trong hoa viên im mát này. Bà Vũ tự hỏi mẫu đơn có được tốt như thế không. Lúc ấy, bà nghe một tiếng nói trầm trầm từ cửa vào hoa viên.

- Thưa bà!

Bà Vũ đang chờ nghe một tiếng nói, nhưng không ngờ tiếng nói ấy lại hùng mạnh đến thế. Bà ngẩng lên và nhìn thấy một người rất lớn, đôi vai rộng, bận áo chùng thảm, ngang lưng thắt dây. Đó là vị giáo sĩ. Tay phải của ngài cầm lấy tượng thánh giá mang trên ngực. Bà biết tượng thánh giá ấy là biểu tượng của đạo Thiên chúa, nhưng điều đó không làm bà quan tâm. Bà lấy làm lạ về sự to lớn và sức mạnh của bàn tay cầm thánh giá ấy.

- Tôi không biết gọi ngài là gì, bà Vũ nói với một giọng nhẹ nhàng và trong trẻo. Nếu không, tôi đã đáp lại lời chào của ngài. Xin mời ngài vào.

Vị giáo sĩ cúi đầu bước qua cửa hoa viên. Chị Giang theo sau, mặt tái mét vì khiếp sợ.

- Xin mời ngài vào trong thư phòng, bà Vũ nói.

Đến thềm nhà, bà Vũ tránh ra, nhường vị giáo sĩ bước lên trước. Nhưng người buông cây thánh giá xuống và đưa tay mỉm cười nói:

- Ở xứ tôi, người đàn bà đi trước.

- Thế à? Vậy thì tôi đi trước dẫn đường cho ngài.

Bà Vũ tiến vào trong thư phòng, ngồi xuống chỗ thường nhật của bà, và mời vị giáo sĩ ngồi xuống chiếc ghế bành ở phía bên kia bàn. Giang lẻn ra, đứng lấp ló ngoài cửa, trố mắt nhìn. Thấy vậy, bà Vũ nói:

- Giang, đi chỗ khác đi.

Rồi bà quay lại khẽ mỉm cười với vị giáo sĩ.

- Con ngốc ấy chưa bao giờ thấy một người to lớn như ngài nên nó không thể không nhìn. Xin ngài bỏ lỗi cho nó.

Vị giáo sĩ đáp bằng một câu nói rất lạ kỳ:

- Có lẽ Chúa ban cho tôi tấm thân khổng lồ này để làm vui mắt cho những người nhìn tôi. Dù sao, cười là chuyện tốt.

Giọng nói của người vang dội khắp phòng.

Giang nhìn lên sườn nhà, khẽ lẩm bẩm:

- Trời! nghe như tiếng sấm.

Để trấn tĩnh chị ta, bà Vũ bảo:

- Giang, đi mang trà nóng lại đây.

Giang như một con mèo, chuồn ra ngoài.

Vị giáo sĩ ngồi bất động, thân người choán chật cái ghế bành chạm. Tuy thế trông người vẫn thanh thản và có vẻ ốm gầy. Bây giờ bà Vũ mới nhận thấy điều ấy. Cây thánh giá trên ngực bằng vàng. Da người hung hung, đôi mắt đen sẫm, sâu và chiếu sáng, trong trẻo, u buồn. Tóc người hơi quăn, không dài mà cũng không ngắn. Râu người đen và mảnh sợi, giữa bộ râu ấy đôi môi lộ ra với một màu đỏ đặc biệt.

Bà vũ hỏi:

- Thưa ngài, tôi phải gọi ngài như thế nào? Tôi quên hỏi cô Hsia tên của ngài.

- Tôi không có tên riêng. Đôi khi người ta gọi tôi là cha An-Rê. Tôi muốn bà gọi tôi là thầy An-Rê.

Bà Vũ chẳng tỏ vẻ gì, bà không gọi tên cũng không gọi chức tước. Nhưng bà lại hỏi một vấn đề khác.

- Ngài theo tôn giáo nào?

- Đừng nói đến tôn giáo ngày hôm nay.

Bà Vũ mỉm cười:

- Tôi tưởng tất cả các giáo sĩ đều thích nói đến tôn giáo chứ.

Thầy An-Rê nhìn thẳng vào mặt bà Vũ. Mặc dù nét nhìn mãnh liệt, nhưng không một mảy may táo bạo, nên không làm bà Vũ khiếp sợ. Nét nhìn ấy vô ngã, như cây đèn nâng cao lên để soi một con đường xa lạ. Thầy nói:

- Thưa bà, người ta nói với tôi rằng, bà muốn gặp tôi.

- Vâng chính thế...

Nhưng bà Vũ ngừng lại, vì bà nghe có tiếng thì thầm, tiếng động nhẹ nhàng ở cửa, bà biết ngay là Giang đã xuống bếp và loan tin có người ngoại quốc đến trong nhà. Trông ra, bà thấy mấy đứa trẻ và lên tiếng gọi chúng bằng một giọng khả ái:

- Các cháu ơi! Vào đây, vào đây mà xem.

Tức thì một đoàn trẻ con hấp tấp bước lên thềm. Dưới ánh mặt trời ban mai, lũ trẻ giống như những bông hoa, bà Vũ cảm thấy hãnh diện về chúng. Bà giải thích:

- Chúng muốn xem ngài.

- Sao lại không? Vị giáo sĩ vừa nói vừa quay về phía lũ trẻ.

Chúng thụt lùi, rồi thấy vị giáo sĩ ngồi yên và mỉm cười, chúng lại đến gần.

- Ngài không ăn thịt trẻ con đâu, bà Vũ nói với lũ trẻ. Có lẽ ngài sống bằng hoa quả như các thầy trong chùa ấy mà.

- Đúng thế, thầy An-Rê nói.

Một đứa trẻ hổn hển hỏi:

- Tại sao thầy to lớn thế?

Cậu bé là con người anh em họ với ông Vũ.

- Thiên Chúa sinh thầy như thế.

- Tôi đoán song thân thầy cũng to lớn như thầy, bà Vũ nói.

Thầy An-Rê không nói gì.

Một em bé trai hỏi:

- Quê hương thầy ở đâu?

Nó đang tuổi đi học, nên biết có nhiều nước khác nhau.

- Thầy không có quê hương. Chỗ nào thầy ở, chỗ đó là quê hương thầy.

- Thầy ở đây đã lâu rồi à? Thầy nói tiếng chúng tôi thạo quá! Bà Vũ nói.

- Tôi biết nhiều thứ tiếng để có thể tiếp xúc với tất cả.

- Nhưng thầy ở trong thành chúng tôi đã lâu rồi chứ?

Con người này đánh thức tính hiếu kì của bà Vũ đến cực điểm.

- Một năm mà thôi.

Bọn con nít bạo gan, chúng đến sát bên giáo sĩ.

- Cái gì treo ở sợi dây nơi cổ thầy thế? Một đứa trẻ đưa ngón tay nhỏ xíu chỉ vào tượng thánh giá hỏi.

- Tượng thánh giá của thầy.

Thầy nâng cây thánh giá lên, và đưa cho chúng xem.

Một em bé hỏi:

- Em cầm có được không?

- Được lắm chứ!

Bà Vũ vội vã nói:

- Không được! bé đừng có sờ.

Thầy An-Rê quay về phía bà:

- Nhưng thưa bà, thánh giá này vô hại.

- Nó sẽ không sờ đến đâu, bà lạnh lùng nói.

Thầy An-Rê buông cây thánh giá xuống ngực; hai bàn tay to chắp lại trên gối và làm thinh.

Giang mang trà đến, chị rẽ lũ trẻ để bước vào. Chị nói lớn:

- Mẹ các em gọi kìa! Các bà đang gọi cả đấy.

- Thôi về với mẹ các cháu đi. Bà Vũ dịu dàng bảo.

Tức thì bọn trẻ quay chạy đi.

Đột nhiên, thầy An-Rê nhìn bà với một nét sâu sắc và sáng suốt:

- Chúng không sợ bà, nhưng vâng lời bà.

Sung sướng vì được hiểu biết, bà Vũ đáp:

- Chúng là những đứa trẻ dễ dạy.

- Bà cũng tốt, thầy nói với giọng bình thản. Nhưng tôi không chắc là được hạnh phúc.

Lời nói ấy thốt ra với bao bình tĩnh, đã đánh động bà Vũ một cách sâu xa, dường như một con dao vô hình xuyên thấu người bà, nhưng bà không biết đích xác vết thương nằm ở nơi nào. Bà vội chối:

- Trái lại, tôi tràn trề hạnh phúc. Tôi đã tổ chức đời sống hoàn toàn theo ý tôi muốn. Tôi có nhiều con trai…

Thầy ngước nhìn bà với đôi mắt sâu sắc, minh mẫn, mà không nói gì. Thầy chăm chú lắng nghe. Vẻ chăm chú và sự yên lặng tuyệt đối ấy làm cho bà Vũ do dự. bà Vũ tiếp:

- … Nghĩa là… tôi sẽ hoàn toàn hạnh phúc nếu tôi không cảm thấy cần phải có nhiều kiến thức hơn. Chính tôi cũng không hiểu về loại kiến thức nào…

- Có lẽ bà không cần phải biết nhiều thêm, bằng phải hiểu một cách sâu sắc hơn, những điều bà đã biết.

Sao lại nói chuyện mình với người ngoại quốc này? Bà Vũ suy nghĩ một lát, đoạn gạt bỏ ngay ý tưởng đó.

- Không phải tôi mời thầy đến cho tôi, mà cho đứa con trai thứ ba của tôi. Tôi muốn nó học ngoại ngữ.

- Thưa bà, bà muốn chọn thứ tiếng nào?

- Thứ nào hay nhất?

- Tiếng Pháp là tiếng đẹp nhất, tiếng Ý thi vị nhất, tiếng Nga hùng mạnh nhất, tiếng Đức oai dũng nhất. Nhưng tiếng Anh sẽ giúp cậu ấy được nhiều việc hơn cả.

- Thế thì học tiếng Anh, bà Vũ nói một cách quyết định.

Bà ngước nhìn khuôn mặt màu nâu của vị giáo sĩ:

- Thầy cho trả bao nhiêu?

Thầy An-Rê bình thản đáp:

- Tôi không đòi hỏi gì cả. Tôi không mảy may cần đến tiền bạc.

- Một giáo sĩ mà không cần tiền!

- Tôi không một mảy may cần đến, thầy nhắc lại và nhấn mạnh chữ tôi.

- Nhưng thầy hạ địa vị tôi xuống, nếu thầy bắt tôi phải nhận không một việc gì. Thế tôi không thể cho tôn giáo của thầy tiền để làm việc thiện sao?

- Không, tôn giáo không nhận những của cho theo kiểu này.

Thầy nghĩ ngợi một lát, rồi tiếp:

- Có thể, đôi lúc có những việc cần làm trong thành phố của bà – chẳng hạn một ngôi nhà cho trẻ mồ côi. Chính tôi đã mang về một vài đứa và đang tìm cho chúng những người tốt để làm cha mẹ. Khi nào gặp những việc như thế, thưa bà, tôi sẽ nhờ đến bà. Và sự giúp đỡ của bà sẽ là một phần thưởng của tôi.

- Nhưng những việc thầy làm trong thành phố của tôi không phải là làm cho thầy, không có gì cho bản thân thầy cả sao?

- Thưa bà, điều ấy là vinh dự của tôi.

Tiếng nói của thầy vang dội khắp phòng. Và bà Vũ không tìm cách cãi lại. Giang trở lại, nhìn vào thư phòng, và lui ra kho nhìn thấy hai người vẫn ngồi ở chỗ cũ.

Bà Vũ hỏi:

- Khi nào thì bắt đầu học được?

Bà thấy không thể cãi lại người này.

- Nếu bà muốn thì ngay bây giờ. Lúc nào cũng được cả.

- Thầy có thể đến mỗi bữa chiều được không? Ban ngày con tôi bận đi học trường nhà nước.

- Lúc nào cũng được, nếu người ta cần đến tôi.

Bà Vũ đứng dậy gọi Giang.

- Giang, bảo cậu Phan đến đây.

Bà đứng trên ngưỡng cửa, một bên là vườn, một bên là thư phòng. Phút chốc, bà có cảm tưởng như mình đang ở giữa hai thế giới. Bà bước ra hoa viên và để vị giáo sĩ ngồi một mình, bà lắng tai như chờ đợi tiếng gọi bà. Nhưng không một tiếng động nào vẳng đến. Như thường lệ, mỗi buổi chiều vào giờ ấy, một con họa mi đến đậu vào bờ thành nó hót bốn tiếng líu lo, chậm rãi. Rồi nhìn thấy bà, nó cất cánh bay đi.

Bà hối hận đã lỡ nhờ đến một giáo sĩ Tây phương. Biết bao điều kì lạ có thể dạy bằng tiếng của phương trời xa ấy. Bà vội vàng quá! Bà trở lại cửa và liếc nhìn vào trong. Để thầy ngồi một mình, thầy có cho là vô lý không nhỉ? Nhưng bà thấy thầy cuối đầu xuống ngực, hai mắt nhắm lại. Thầy ngủ chăng? Không, miệng thầy đang lẩm nhẩm. Bà mừng rỡ thấy Phan từ cửa chính đi vào, và bà cất tiếng gọi: "Phan!".

Bà quay lại, và thấy vị giáo sĩ ngửng đầu lên, đôi mắt đen mở ra, chiếu sáng. Bà lại gọi:

- Phan, lại đây con!

- Dạ.

Lát sau, Phan đến trước mặt bà, chàng rất trẻ trung và quá bé bỏng đối với vị giáo sĩ to lớn. Bà ngạc nhiên thấy con mình quá bé nhỏ, người con mà bao giờ bà cũng xem là đã lớn. Bà nắm lấy tay con và dẫn vào thư phòng.

- Đây là Phan, con trai thứ ba của tôi.

- Phan! Vị giáo sĩ nhắc lại.

Lẽ ra theo phép xã giao, thầy phải gọi là "cậu ba" nhưng người chỉ lặp lại tên chàng: Phan

- Tôi là thầy An-Rê, người nói và ngồi xuống.

- Ngồi xuống cậu Phan, mẹ cậu nhờ tôi dạy ngoại ngữ cho cậu, bà muốn cậu học Anh văn.

Bà Vũ có ý nhấn mạnh:

- Nhưng chỉ Anh văn thôi.

Lúc sắp bắt đầu học, bà Vũ tự hỏi, bà phó thác tâm trì con bà cho người ấy như vậy, bà có khỏi lỗi lầm không? Vì khi người ta giáo dục tâm trí là người ta đã ngự trị nó.

- Chỉ Anh ngữ thôi, thầy An-Rê lặp lại.

Thầy nhận ra một vẻ lo sợ lẫn trong lời nói của bà Vũ, nên vội nói:

- Thưa bà, xin bà đừng sợ, tôi là một người chân chính. Tôi xem tâm trí con bà là một của thiêng liêng.

Bà Vũ cảm thấy ngượng vì sự tế nhị của người ngoại quốc ấy. Bà không ngờ trong tấm thân đầy lông lá kia có một trực giác tinh tế đến thế. Bà khẽ cuối đầu chào và trở ra hoa viên.

Một giờ sau, vị giáo sĩ hiện ra ở ngưỡng cửa thư phòng. Người nói với Phan bằng những tiếng kì lạ. Người đọc một cách rõ ràng, chậm rãi, Phan lắng nghe như thể không có một tiếng gì khác ở trần gian lọt đến tai chàng.

Bà Vũ hỏi:

- Thầy đã dạy cho nó học tất cả những thứ tiếng ấy à?

Bà ngồi trong chiếc ghế bành mây đặt dưới một khóm cây, hai tay chắp lại trên gối.

- Thưa bà, bây giờ cậu ấy còn chưa hiểu. Nhưng tôi dạy mà không nói tiếng gì khác ngoài thứ tiếng cậu ấy học. Trong vài hôm nữa, cậu ta có thể tự mình dùng những thứ tiếng ấy.

Quay về phía Phan, thầy nói:

- Tôi về cậu Phan nhé! Mai ta tiếp tục.

Và khi đã chào bà Vũ, thầy đi ra cổng với những bước chân dài đều đặn.

Sau khi vị giáo sĩ khổng lồ đi ra, mọi vật đều trở lại như cũ.

- Này con! Bà Vũ nói

Nhưng Phan vẫn còn vẻ bàng hoàng:

- Chỉ trong một chốc lát mà người đã dạy con học rất nhiều.

- Con lặp lại cho mẹ nghe nào.

Phan lặp lại vài tiếng.

- Chữ ấy nghĩa là gì thế?

Phan vẫn giữ vẻ sửng sốt, lắc đầu.

- Con không biết. Ngài không nói gì cả.

Bà nghiêm nghị nói:

- Ngày mai thầy ấy phải cắt nghĩa cho con nghe. Mẹ không muốn người ta đọc ở đây những tiếng mà trong chúng ta không ai hiểu cả.

Tiếng đồn về sự thăm viếng của vị giáo sĩ khổng lồ đã lan rộng ra khắp nhà một cách mau lẹ và thấu đến tai ông Vũ. Ngày hôm sau, vào khoảng xế chiều, bà Vũ đang soạn lụa để chị thợ may thêu giày cho lũ trẻ, thì thấy ông từ phía nhà ông đi sang.

Khi đến gần, ông nói:

- Cho mụ này đi chỗ khác.

Bà Vũ thấy ông như có điều gì bất bình. Bà dẹp lụa lại và nói với chị thợ may:

- Chốc nữa chị trở lại.

Chị thợ may lui ra, ông Vũ ngồi xuống, quẹt diêm châm điếu hút:

- Tôi nghe nói mình đã mời một ông giáo sư ngoại quốc đến dạy cho con, thế mà mình không nói qua một tiếng cho tôi hay.

- Quả thế, lẽ ra tôi phải nói với mình trước. Bà Vũ dịu dàng nói. Đó là lỗi của tôi. Nhưng tôi nghĩ mình không thích bị quấy rầy, và tôi nhận thấy rằng cần phải hướng thằng Phan chú ý đến con Liên Chi.

- Tại sao thế?

Đã từ lâu, bà Vũ biết rằng không có gì lợi cho một người đàn bà bằng nói sự thật với chồng. Chưa bao giờ bà nói dối ông Vũ, thì nay cũng thế.

- Hôm trước, Phan thấy Thu Minh trong lúc nàng còn ở đây. Tôi không tin có tia lửa nào bùng cháy giữa hai người. Nhưng, Phan đang độ thanh xuân, một việc như thế rất có thể xảy ra, nếu người đàn bà trẻ và đẹp. Vì thế, tôi thổi ngọn lửa tạt sang một hướng khác. Nếu xảy ra những sự đáng tiếc trong nhà thì thật là bất tiện.

Cũng như bao giờ, sự thật làm ông Vũ khó chịu, và bà nhận thấy những giọt mồ hôi báo hiệu tiết ra ướt chân tóc ông.

Ông nói:

- Tôi muốn mình đừng hình dung ra loại chuyện ấy một cách dễ dàng. Mình luôn luôn để tâm vào việc ghép đôi đàn ông lại với đàn bà. Mình có quan niệm xấu về tất cả mọi người đàn ông, tôi thấy thế. Tôi chắc mình cũng cho tôi là một con dê già.

- Nếu tôi đã lảm cho mình có cảm tưởng như thế, thì thật tôi vụng về quá! Bà nói một giọng hết sức nhẹ nhàng.

Bà ngồi với một vẻ duyên dáng khôn tả, nó làm cho bà xa cách ông như chính bà đang ở trong một gian phòng phác. Bà biết rõ điều ấy lắm. Tỏ vẻ nhượng bộ cho ta nhiều nghị lực hơn là phản đối; và nhận lỗi ngay là chứng tỏ một sự cứng rắn không lay chuyển, bà Vũ nhận thấy như vậy từ lâu.

Nhưng ông Vũ vẫn còn thấy bị thương tổn, và trong thâm tâm, bà lấy làm hổ thẹn vì đã vụng về làm mất lòng chồng.

- Ước gì mình có thể thấy được mình hôm nay, bà bảo ông với một nụ cười khả ái. Chưa bao giờ mình đẹp như thế này, chỉ có mấy hôm mà mình trẻ ra đến mười tuổi.

Ông đỏ mặt và bật cười.

- Thật không?

Ông bắt gặp một tình yêu thương trong nét nhìn của vợ, và ông chồm mình về phía bà, ngang qua cái bàn chia cắt giữa hai người.

- Ái Liên! Không có ai tồn tại được bên cạnh mình. Sánh với mình, tất cả đàn bà đều nhạt nhẽo. Chỉ vì mình nài nỉ quá tôi mới thế.

- Em biết lắm, em xin cảm ơn mình. Trong cuộc sống chung bấy lâu, bao giờ mình cũng chiều theo ý muốn của em. Và lần này nữa, dầu em đã yêu cầu mình đến thế mà mình vẫn còn nghe.

Đôi mắt chồng bà ươn ướt vì cảm động.

- Tôi đem vật này đến tặng mình.

Ông vừa nói, vừa móc túi lấy gói giấy lụa và mở ra. Ở trong có hai cái trâm vàng hình cành hoa và con bướm nạm ngọc.

- Hôm qua nhìn thấy cái trâm này làm tôi nhớ đến mình. Thật tôi nhớ đến mình luôn.

Ông lau trán.

- Ngay cả ban đêm, tôi cũng nhớ đến mình, ông thì thầm mà không nhìn bà.

Khi nghe ông nói, khuôn mặt bà trở nên nghiêm nghị.

- Không nên nghĩ đến tôi. Như vậy là không công bình với Thu Minh. Dầu sao bây giờ đời sống của cô ta cũng đã hoàn toàn phụ thuộc vào mình.

Ông vẫn giữ một vẻ thiểu não.

- Cô không dễ chịu với mình sao? Bà hỏi

- Ồ, nàng dễ chịu lắm, ông nói một cách miễn cưỡng. Nhưng dạo này mình giữ thái độ xa cách tôi quá! Chúng ta cứ phải sống cuộc đời còn lại của chúng ta cách biệt như thế này mãi sao? Mình là người luôn sống ở trung tâm cuộc đời tôi…

Đôi môi dày của ông run run.

Bà Vũ cảm động đến nỗi, bất giác bà đứng dậy và tìm đến với chồng. Ông ôm lấy bà trong tay và áp mặt vào thân thể vợ. Một cái gì rung lên trong người bà và bà sợ hãi. Không phải vì ông mà vì chính bà. Giây phút yếu đuối ấy đã phá hủy những gì bà xây dựng.

Ông thì thầm:

- Ôi! Mình là châu ngọc! là trầm hương!

Bà dịu dàng lách mình ra, chỉ để hai bàn tay lại cho chồng.

- Mình sẽ được sung sướng hơn bao giờ hết.

- Mình có trở lại với tôi không?

- Có, nhưng với một cách khác. Bà hứa với ông như thế.

Phút cảm động đã biến mất, bây giờ bà thấy chồng với cái miệng cau có, đôi môi mềm nhũn. Trước cảnh này, bà cảm thấy thân thẻ mình thành một cột đá cẩm thạch lạnh lẽo. Bà rút luôn cả hai tay về.

- Còn việc thằng Phan, mình đừng bận tâm về người giáo sư đó, hình như con Liên Chi muốn thằng Phan học tiếng Anh, nếu không nó sẽ cho là hủ lậu. Thằng Phan sẽ cưới con Liên Chi trong vòng một tháng nữa, để rồi mình xem.

Ông Vũ cười nói:

- Mình đa mưu quá! Một mưu sĩ và là người dẫn đạo cuộc sống của đàn ông.

Ông tìm lại được sự vui vẻ. Ông đứng dậy và đi ra, vừa cười vừa lắc đầu.

Một lát sau, Giang vào, trong lúc bà Vũ đang miên man suy nghĩ. Thấy chị ở, bà ngửng đầu:

- Giang! Chị lấy thứ xà phòng thơm tôi dùng cho Thu Minh và bảo cô ta chỉ nên dùng thứ ấy.

Giang nghe chướng tai, đứng yên không nhúc nhích.

- Đừng nhìn sững tôi như thế. Lấy cho cô ấy một cái lược gỗ đàn hương để chải tóc, và rải phấn hương mộc vào áo lót cô cho thơm.

- Xin vâng ý bà, Giang đáp với một giọng chua cay.

Khi ấy, bà Vũ thấy cái điếu của chồng. Bà liền hiểu ông cố ý để quên, để chỉ dấu ông sẽ trở lại. Cái điếu mà người đàn ông lưu lại trước lúc ra đi, là một dấu hiệu xưa cũ giữa đàn ông và đàn bà.

Giang đi ra lúc bà Vũ đưa tay chỉ cái điếu và vắn tắt nói:

- Giang! Ông để quên cái điếu, chị mang đến cho ông.

Giang quay lại, không nói một lời, cầm lấy điếu và ra đi.

Khi bà Vũ cầm lại mấy tấm lụa, thì trời đã tối không phân biệt được màu sắc nữa. Bà đi thắp nến, thì Phan từ trong tranh tối tranh sáng bước ra. Chàng đã thay bộ đồng phục học sinh, và bận một cái áo dài lụa màu kem. Tóc chàng chải lật ra sau để lộ chiếc trán vuông. Bà đáp lại lời chào của Phan và cất tiếng khen:

- Có một cái áo dài tử tế thì tốt hơn là có nhiều quần áo đẹp, bà vừa nói vừa nhìn trán con

Thật là một vầng trán đẹp, nhưng nó không thể cho người ta đoán được cái tư chất mà nó ẩn che. Phan vừa mới bắt đầu trở thành một người đàn ông.

- Con còn nhớ những chữ con học tối hôm qua không? Bà Vũ cười hỏi.

Chàng châm một điếu thuốc ngoại quốc. Thế là chàng nghiện thuốc nặng. Dường như khói thuốc đang vươn lên kích người chàng. Phan không muốn ngồi, chàng sải từng bước một trong thư phòng, rồi dừng chân và lặp lại rõ ràng những tiếng ngoại quốc.

- Con có hiểu không?

Chàng lắc đầu:

- Không, nhưng chiều hôm nay con sẽ hỏi thầy ấy.

Chàng ngừng nói, nghe ngóng rồi kêu lên:

- Kìa, ngài đã đến rồi đấy.

Cả hai người nghe tiếng chân mạnh mẽ bước từng bước dài. Tiếng đế giày da vang dội trên nền đá lát. Thầy An-Rê hiện ra trên ngưỡng cửa, có người gác cổng theo sau. Anh này biến mất khi thấy bà Vũ đứng dậy.

- Thầy đã xơi cơm chưa? Bà Vũ hỏi thầy thay lời chào thân mật.

- Tôi chỉ dùng một bữa cơm trưa thôi.

Thầy mỉm cười vui vẻ, gần như cả thẹn.

Trước sự hiện diện của con người to lớn này, bà Vũ lại cảm thấy gian phòng, Phan, và chính mình bà thu nhỏ lại. Nhưng xem ra thầy không để ý gì đến hình vóc và con người của mình.

Khi mọi người ngồi xuống ghế, bà Vũ nói:

- Cậu Phan đọc lại những tiếng thầy dạy chiều qua, nhưng chúng tôi không hiểu là gì.

Thầy An-Rê đáp:

- Tôi đã đọc cho bà và cậu nghe lời của một người Anh nói một hôm nọ. Nghĩa là người ấy sinh tại Anh quốc, nhưng tâm hồn đi phiêu lưu khắp các nước ngoài.

Thầy ngừng lại, ra chiều suy nghĩ, rồi dịch và đọc lời thánh vịnh:

"Bình minh đây đó sáng ngời

Riêng mình một cõi chân trời phương đông

Vầng dương lần vượt không trung

Phương đoài rạng rỡ tận cùng xóm quê"

Bà Vũ và Phan lằng nghe, uống từng tiếng như uống nước trong. Bà do dự hỏi:

- Không phải là kinh đạo chứ?

Phan nói:

- Đó là thi ca.

Thầy An-Rê bảo chàng:

- Tôi dạy cho cậu những tiếng Anh đầu tiên mà người ta đã dạy cho tôi. Và ngay khi còn là một cậu bé ở Italia, tôi cũng không hiểu.

- Vậy, cũng chính mặt trời ấy đã soi sáng cả thế gian, bà Vũ nói với vẻ mặt đăm chiêu, suy nghĩ.

Bà cười, tiếp:

- Thưa thầy, có lẽ là thầy cười tôi, nhưng tôi cứ luôn có cảm tưởng rằng mặt trời chỉ thuộc về chúng tôi, mặc dầu tôi đã biết rõ sự thật như thế nào.

- Mặt trời là của chung của chúng ta hết thảy, và chúng ta chiếu lại ánh sáng của nó cho nhau, người này cho người khác, ở phương Đông hay phương Tây, khi nó mọc và lặn.

Bốn bức tường phòng hình như biến mất, những bức tường của các hoa viên này, nơi bà đã sống lùi ra xa. Phút chốc, bà thấy sáng suốt. Thế giới đầy những xứ sở, những dân tộc chung dưới một gầm trời và trong bảy đại dương, cũng những con nước thủy triều giống nhau dâng lên và hạ xuống.

Bà rất muốn ngồi lại để nghe bài học sắp tới, nhưng Phan thấy mất tự nhiên vì có mặt bà, bà đứng dậy nói:

- Xin thầy cứ tiếp tục.

Và bà đi ra.

Bà Vũ hỏi bạn:

- Bây giờ cậu Phan đã học tiếng anh, vậy ý cô Liên Chi thế nào?

Bà Khương đến thăm bà Vũ lúc chiều xế. Tiếng huyên náo ban ngày đã tắt. Trong một năm, bà Vũ đến thăm bà Khương một vài bận, trái lại, tuần nào bà Khương cũng đến nhà bà Vũ đôi ba lần. Điều ấy chứng tỏ tình bằng hữu mật thiết giữa hai người, và xem ra họ rất tự nhiên.

Bà Khương nói:

- Con gái tôi đã làm tôi kinh ngạc hết sức. Nó bảo nó sẽ lấy cậu Phan nếu nó thích cậu ấy, sau khi cậu ấy biết nói tiếng Anh và đàm đạo với nói vài lần. Nó muốn đến gặp cậu Phan. Thật là táo bạo! Tuy nhiên, tôi còn nhớ hồi con gái, tôi đã bị một con nô tì tinh quái xúi giục, nên một hôm nọ nhằm ngày tết, khi ông Khương cùng thân sinh đến nhà thăm, tôi nhìn trộm qua bức rèm cửa và thấy ông ta. Khi chúng tôi làm bạn với nhau và sinh được một con trai, tôi mới dám thú thật với ông điều đó.

Bà Vũ bật cười:

- Chắc chắn sau cái liếc mắt độc nhất ấy, sự dữ đã thành hình.

Không một chút hổ thẹn, bà Khương nói:

- Tôi đã yêu ông ngay từ phút ấy.

- Ồ! Những phút ấy! Chị xem, biết tiên liệu những phút ấy mới khôn ngoan làm sao! Trái tim của thanh niên giống như ngọn lửa sắp bốc cháy. Lửa và rơm đều sẵn. Nhưng, chúng ta liệu sắp đặt làm sao để hai đứa trẻ có thể gặp nhau một vài lần.

Đôi bạn thân ngồi trong bầu không khí êm dịu của buổi chiều. Trên bàn, Giang đã để sẵn một quả dưa đã cắt, lòng đỏ rải rác những hạt đen tuyền, xem ra ngọt ngào và mát mẻ. Bà Vũ cầm một miếng trao cho bạn:

Mời chị dùng dưa. Thứ dưa này mát lắm. Chiều nay xem chị có vẻ mệt.

Trước lời nói khoan hòa ấy, gương mặt bà Khương có vẻ bối rối, bà rút cái khăn tay bằng lụa ra khỏi ngực, che lấy mặt và khóc tấm tức. Bà không tìm cách ngăn đôi dòng lệ, vì chỉ có hai người.

Bà Vũ ngạc nhiên:

- Kìa chị Mỹ Trinh. Sao chị khóc?

Và bà khẽ kéo cái khăn che mặt bạn. Bà Khương vừa gượng nói, vừa thút thít và ấp úng:

- Tôi xấu hổ quá! Chị đoán thử xem.

- Không phải là chị… bà Vũ nói với một giọng nghiêm khắc.

- Sao lại không… và đôi mắt nhỏ, sáng của bà Khương rất vui cũng vờ làm ra vẻ bi thảm.

Bà Vũ chưa hết ngạc nhiên:

- Chị! Với cái tuổi ấy, với bầy con ấy mà cũng…!

- Tôi thuộc hạng đàn bà mà chồng vừa mới đặt giày bên giường là đã thụ thai.

Bà Vũ không thể nói gì được. Vì tốt bụng, bà không thể nói cho bạn biết ý nghĩ của bà, hay trách bạn sao không bắt chước mình.

Bà Khương vắt chiếc khăn đầy nước mắt, xếp lại và tiếp:

- Thật quái lại, tôi sợ con Liên Chi hơn tất thảy mọi người trong nhà. Con Liên Chi chỉ trích tôi đủ điều. Nó cứ bảo rằng tôi xồ xề quá, tôi phải búi tóc cách khác, tôi phải xấu hổ vì không biết chữ, để nhà dơ bẩn và quá nhiều trẻ con. Nếu Liên Chi còn ở lại, và nếu tôi phải nói cho nó biết rằng…

- Liên Chi lấy chồng sớm chừng nào hay chừng ấy, bà Vũ vừa nói vừa tự hỏi, nếu đem về nhà một cô gái cứng đầu, ngung ngăng và chỉ trích cả chính mẹ ruột mình như vậy, phải chăng là điều tốt.

Bà Khương buồn rầu nói:

- Chị có thể dạy nó được nhiều điều. Nó không sợ cha nó, nó cũng không sợ tôi, nhưng tôi chắc nó sẽ sợ chị. Bà cười qua làn nước mắt khi nghĩ đến chồng.

- Tội nghiệp ba mấy cháu, bà vừa nói vừa lau nước mắt. Hồi sáng, khi nghe tôi báo tin, ông vò đầu vò tai và nói: "Có lẽ tôi phải đi lập nghiệp một mình ở tỉnh khác"

Bà Vũ không đáp; bà Khương hẳn nhận thấy sự thinh lặng ấy có vẻ lạnh nhạt, vì bà ta nhìn bà và nói một cách tinh quái, pha lẫn buồn rầu:

- Chị Ái Liên ạ! Có lẽ chị được cái may mắn là không yêu chồng.

Bà Vũ đau nhói ở tim vì câu nói ấy. Bà chưa từng nghe lời lẽ chua chát như thế của bạn bao giờ. Bà đáp:

- Có lẽ sự khác biệt không phải ở trong tình yêu, mà trong việc biết làm chủ mình.

Bà cầm lấy một khoanh dưa hồng, và tiếp:

- Hay sở dĩ có điều ấy, là vì tôi không bao giờ chịu đựng được lời chế nhạo của kẻ khác. Dù sao, chị cũng giỏi hơn tôi.

- Chị đừng cãi lý với tôi nữa, tôi van chị!

Bà Khương đưa hai bàn tay mập mạp, nóng hổi của mình nắm lấy bàn tay mát mẻ và nhỏ nhắn của bạn.

- Chị Ái Liên ạ, chúng ta có một nỗi khổ tâm như nhau. Tôi chắc đàn bà ai cũng thế. Chị thoát ra khỏi bằng cách này, còn tôi thì bằng cách khác.

- Nhưng cách của chị phải chăng là một giải pháp?

Trong khi nói, bà cảm thấy mối tình chân thật và trung thành của bà đối với bạn làm lòng bà dịu lại, rồi những ngón tay mảnh dẻ của bà siết chặt lấy bàn tay mập mạp mà bà đang cầm.

- Tôi không thể nào chịu hành động như chị. Có lẽ chị tỏ ra là khôn ngoan, nhưng tôi không thể có được sự khôn ngoan ấy, nếu nó đem một người đàn bà khác đến giữa tôi và ông chồng già của tôi.

Nào ai đoán được lúc bấy giờ bà Vũ đang cảm thấy một nỗi đau khổ không thể giải thích được, xé nát trái tim bà? Quả thế, đột nhiên bà cảm thấy cô đơn, mặc dầu bàn tay hai người đang nắm chặt lấy nhau. Bà thấy như mình đang ở trên một chóp núi cao, bị vây quanh bởi sương mù và tuyết giá, lạc loài và cô đơn. Bà muốn kêu lên một tiếng nhưng cổ họng tắc nghẹn.

Hoàng hôn bao phủ lấy bà.

Bà Khương đang đăm đăm suy nghĩ nên không thấy khuôn mặt bạn nhợt nhạt, và không thể đoán được toàn thân bạn cứng đờ vì nỗi lo sợ ấy xâu xé.

Giữa cơn khủng hoảng lạ kỳ ấy, bà Vũ nom thấy thầy An-Rê. Chiếc bóng cao lớn, rất thẳng của vị giáo sĩ ấy hiện đến trong sự cô độc của bà, và nỗi hoảng sợ của bà tiêu tan ngay vì cần phải lên tiếng để chào thầy.

- Chào thầy An-Rê. Xin mời thầy vào, tôi sẽ cho người gọi con tôi đến.

Vừa nói bà vừa buông tay bà Khương đứng dậy giới thiệu.

- Chị Mỹ Trinh, đây là thầy giáo của cậu Phan.

Thầy An-Rê nghiêng mình mà không nhìn bà Khương, nhưng nét mặt có vẻ khoan hòa. Thầy vào trong thư phòng. Dưới ánh nến, hai bà thấy thầy ngồi, rồi rút từ ngực ra một quyển sách và bắt đầu đọc.

- Thật là khổng lồ! Bà Khương nói rất khẽ, chị không sợ à?

- Một người khổng lồ rất tốt. Bà Vũ đáp. Này, lát nữa sẽ có mặt Phan tại đây, chúng ta không nên có vẻ đang bàn tán chuyện của nó. Chị muốn về chưa?

- Tôi phải về. Nhưng trước hết chị hãy cho biết Liên Chi tiếp xúc với Phan có được hay không?

- Tôi sẽ hỏi lại nó. Nếu nó muốn, tôi sẽ dẫn đến nhà chị trước, rồi sau đó, chị có thể đến đây với Liên Chi hai lần cũng đủ cho chúng biết rõ nhau.

Bà Khương nói:

- Vâng, bao giờ chị cũng có lý.

Và bà siết chặt tay bạn ra về.

Bà Vũ sẽ gặp lại Phan chiều hôm ấy, sau khi chàng học xong.

Hai người đàn ông vẫn chăm chú vào sách rất lâu. Khi bà đi ngang trước cửa và khuất dạng trong bóng tối, bà nhìn vào phòng. Trông vẻ chăm chú của Phan, trông sự oai nghiêm của thầy An-Rê có một cái gì khiến bà khiếp sợ. Vị giáo sĩ ấy có cướp mất trái tim con bà không?

Cảm thấy yếu đuối, bà Vũ ngồi thịch xuống ghế mây và sung sướng vì bóng tối bao quanh.

Bà nghĩ ngợi: "Thật là tai hại! Ta đã lầm! Khi ta mời một vị giáo sĩ đến đây dạy cho con, làm sao ta có thể tưởng tượng được vị giáo sĩ ấy đầy tràn Thiên chúa của người đến thế? Đến nỗi người chiếu ngời một ánh sáng huyền diệu, hấp dẫn mọi sự về người.

Bà Vũ vốn biết tâm hồn Phan đang thời kì thức tỉnh, nếu một người đàn bà không chiếm lấy thì một vị Chúa có thể cướp mất. Bà không muốn Phan làm giáo sĩ vì nhiều lý do, nhưng nhất là người giáo sĩ không có con, mà trời thì thù nghịch với sự không sinh sản. Khi một vị Chúa đã cướp mất linh hồn và thể xác, tất thể xác sẽ báo thù bóp méo linh hồn, phá hoại và tiêu diệt nó. Linh hồn và thể xác kết hợp với nhau, cái này không được tách rời cái kia. Nếu hai mươi lăm năm nữa, sau khi đã gây dựng con cái, Phan muốn làm giáo sĩ như nhiều người trong đền chùa, thì bấy giờ thể xác chàng đã thỏa mãn, chàng có thể phụng sự cho linh hồn, nhưng bây giờ thì không được.

Bà có nên đi vào và phá tan vẻ đẹp mà bà đang thấy không? Bà ngập ngừng ở ngưỡng cửa, khuất dạng trong bóng tối. Đoạn bà lui ra. Là mẹ, bà chỉ là một người mẹ, bà không đủ sức kháng cự với vị giáo sĩ khổng lồ này. Để chứng tỏ sự độc lập của mình, nếu không phải vì những lý do khác. Phan có thể quay lại chống đối bà. Vậy, phải có một người đàn bà trẻ, vui vẻ, một lợi khí sắc bén bằng xương bằng thịt để hộ lực với bà. Phải cưới Liên Chi gấp.

Giờ học đã mãn. Trong bóng tối, bà Vũ nói:

- Thưa thầy An-Rê, tôi hết lòng cảm ơn thầy, thầy dạy con tôi chu đáo quá! Xin chào thầy và hẹn thầy ngày mai.

Bà đứng dậy vừa đi vừa nói.

Hai người đàn ông dừng lại, và xem ra khó chịu vì sự hiện diện của bà. Thầy An-Rê nghiêng mình chào và vội vã đi ra. Chiếc áo chùng thâm làm bay những bóng đen đằng sau. Bà Vũ đặt tay lên cánh tay con và giữ chặt lấy khi chàng sắp bước theo vị giáo sĩ.

- Con ơi! Con hãy ở lại cùng mẹ một lát, mẹ có một việc rất lạ cần nói với con.

Một ước muốn cưỡng lại làm cứng cánh tay con bà và bà buông ra.

- Con yêu dấu, đôi lúc mẹ cảm thấy quá cô độc. Chiều hôm nay cũng thế, con có thể nán lại cùng mẹ một lát được không?

Có đứa con nào lại từ chối được với giọng nói ấy? Bà Vũ lại đặt bàn tay lên cánh tay con và nhẹ nhàng kéo chàng đi.

- Con hãy đến ngồi trong bóng tối mát mẻ này và hãy để mẹ nói, đừng có hỏi, cho đến khi chấm dứt câu chuyện.

- Thưa mẹ, nếu mẹ muốn, con xin vâng.

Nhưng bà cảm thấy chàng nóng lòng muốn rời bà và tự giải thoát khỏi bà. Ồ! Bà đọc được những dấu hiệu ấy tài làm sao!

- Phan con, bà nói, giọng nói của bà là một điệu nhạc trong bóng tối.

Chàng không thể thấy bà, chàng chỉ nghe cái giọng êm đềm thánh thót ấy như rót vào tai.

- Mẹ không biết nói với con như thế nào (và chàng nghe một tiếng cười khe khẽ, bối rối). Bây giờ, con đã lớn lắm, đã là một người đàn ông rồi! Mẹ biết rõ, mẹ muốn gì… Dù sao, mẹ cũng không hẹp hòi, Liên Chi muốn nói chuyện với con. Mẹ cho việc đó không thể nào có được lúc anh Lãng bằng tuổi con. Mẹ không tin chị Mai có thể nghĩ đến việc yêu cầu những điều như thế. Nhưng Liên Chi rất khác Mai, và con cũng rất khác Lãng.

Những âm thanh êm đẹp ấy rót vào đêm tối. Phan khó mà tưởng tượng được giọng nói trẻ trung rụt rè, ngắt quãng bởi những tiếng cười khe khẽ ấy là của mẹ chàng.

- Sao mẹ biết cô ta muốn gặp con?

- Mẹ cô ta đã nói với mẹ hôm nay.

Bà Vũ dựa vào lưng ghế, mặt ngửa lên bầu trời êm dịu, cân nhắc từng tiếng của Phan. Bà cảm thấy kích thích như phải đương đầu với một lực lượng có lẽ quá cao cường, nhưng sẽ phải thắng cuộc. Ở người đàn ông, thể xác ngự trị tinh thần, vậy mà bà đã nắm được thể xác Phan.

Trước sự thinh lặng của Phan, bà nói có vẻ hối hận:

- Điều đó có thể rất tai hại cho mẹ. Cảm nghĩ đầu tiên của mẹ là nếu Liên Chi quá táo bạo như thế thì mẹ không muốn có một người như vậy trong nhà mình.

Những lời nói ấy đều đã được lựa chọn kỹ càng.

Trong bóng tối, Phan nghiêng mình về phía mẹ, trả lời một cách nồng nhiệt, đến nỗi hơi thở trẻ trung tươi mát của chàng bay tạt ngang qua mặt bà.

- Thưa mẹ, mẹ không hiểu sao?

- Không!

Bà lại cảm thấy vững tâm trước những lời nói thông thường ấy của các cậu thanh niên. Tất cả các con trai đều nói với mẹ như thế.

- Ở thời đại con, các thanh niên nam nữ đều gặp mặt nhau, không còn như thời thanh xuân của mẹ, hoặc ngay cả thời anh Lãng cưới vợ nữa.

- Có lẽ con có lý.

Bà thở dài:

- Mẹ chỉ cầu mong con được hạnh phúc, chỉ có thế. Mẹ không muốn con gặp Liên Chi nếu con không thích. Mẹ có thể nói với mẹ cô ta rằng việc ấy quá phiền phức. Như thế bà ta sẽ hiểu là con không thích Liên Chi.

- Nhưng con sẽ gặp cô ta, Phan nói một cách kiêu hãnh. Tại sao lại không gặp mặt chứ?

Mẹ chàng nói, vẫn với một giọng van nài:

- Phan ạ, con đừng để Liên Chi biết được ý con. Biết bao cô gái muốn về làm dâu nhà ta, bây giờ nghĩ lại, mẹ xem cô ta hơi có ý không được ngay thẳng.

- Ồ, con sẽ chú ý điểm ấy.

- Vậy mẹ sẽ nói với mẹ cô ta rằng, vài hôm nữa con đến với mẹ…

- Thưa mẹ, tại sao con lại phải đi đến với mẹ?

- Phan! Mẹ không đồng ý với con đâu. Làm sao con có thể nghĩ đến việc đi thăm cô gái một mình?

- Ồ, được lắm chứ, con sẽ đi gặp cô ta một mình. Con phải để mẹ dắt đi như một đứa con nít sao?

Bà Vũ gằn giọng hỏi:

- Nhưng nếu mẹ cấm con đi thì sao?

Phan cũng gằn giọng vặn lại:

- Ồ! Xin mẹ đừng cấm con chuyện ấy. Con không muốn phải làm trái lời mẹ.

Một sự im lặng trùm lấy hai người. Bà Vũ đứng dậy:

- Vậy thì con nhất quyết đi gặp Liên Chi một mình à?

- Vâng con sẽ đi.

- Vậy thì cứ đi.

Bà đi ngang trước mặt chàng. Giang đang đợi bà. Chị đã nghe tiếng nói của hai người.

- Thưa bà, chuyện gì thế?

Nhưng bà Vũ đưa tay ra hiệu.

- Khoan đã, bà thì thầm. Nghe kìa…

Cả hai lắng tai nghe. Miệng Giang vẫn há hốc ra.

Đôi mắt bà Vũ sáng ngời, một nụ cười làm rạng mặt bà. Họ nghe tiếng giày của Phan xa dần, giằn mạnh từng bước giận dữ. Bà Vũ bật cười.

- Thưa bà có chuyện gì thế?

- Ồ, có gì đâu. Tôi muốn cậu ấy làm một việc và cậu ấy sắp làm, thế thôi.

Ngày hôm sau Phan lánh mặt, nhưng đến ngày hôm sau nữa thì bà Khương trở lại, hai người bạn mau mắn nắm lấy tay nhau. Bà Khương nói:

- Liên Chi và Phan đã gặp nhau rồi.

- Cuộc gặp gỡ đã xảy ra như thế nào?

Bà Khương vừa cười, vừa đáp:

- Tôi ngồi đằng xa, làm ra vẻ không chú ý gì, nhưng có lẽ chúng muốn tôi đi chỗ khác. Cả hai ngồi không nói gì cả, dáng điệu thiểu não, tuy nhiên mắt không rời nhau. Tôi đi một lát và khi trở lại vẫn thấy cả hai y như trước. Cậu cũng như cô không ai nhúc nhích. Cả hai nhìn sững nhau. Rồi Phan đứng dậy ra về, và cả hai đều nói: "lần sau nhé!"

- Chỉ câu nói tầm thường ấy thôi à?

- Nhưng với biết bao nhiêu là tha thiết! Chị Ái Liên ạ, chị sẽ cười tôi, chứ cái cảnh ấy đã làm cho tôi muốn đi tìm người chồng già của tôi để được ngồi một bên ông ấy…

- Chắc ông sẽ cho chị là ngốc nghếch đấy nhỉ! Bà Vũ tươi cười nói.

- À, phải đấy. Bà Khương cười. Tôi chưa nói gì cho ông biết cả. Tôi chưa muốn ông có ý kiến…

- Bây giờ việc ấy có can hệ gì nữa đâu?

- Ờ, chị Ái Liên! Chị đừng cười tôi nữa!

Và bà Khương thở dài.

- Khi nhìn thấy đôi trẻ, tôi thấy cả bao hạnh phúc, bao lo phiền trước mắt chúng, người ta không dám nói sự thật với lũ thanh niên…

- Phải gấp rút thực hiện cuộc hôn nhân này.

- Càng sớm càng hay. Không nên nhóm lửa dưới nồi trống, bà Khương đáp. Ngày hôm ấy cũng như mấy ngày sau, Phan không trở lại gặp mẹ. Bà chỉ thấy mặt chàng mỗi chiều khi thầy An-Rê đến dạy học. Bà đi qua đi lại trước cửa. Phan hỏi vị giáo sĩ những chữ mới: chàng muốn viết một bức thư. Bà Vũ nhìn thấy thầy An-Rê, người có một vẻ mặt dịu dàng, kiên nhẫn nhưng hơi kinh ngạc.

Thầy đánh vần từng chữ nhiều lần liên tiếp nhau, và viết những chữ ấy trao cho Phan. Bà Vũ nghe mà không hiểu: những tiếng lạ lùng; không có nghĩa gì cả! Nhưng điều ấy không quan hệ, đã có Phan hiểu và Liên Chi hiểu.

Thì ra Phan khao khát viết cho nàng một bức thư bằng tiếng Anh. Bà Vũ cười thầm. Rồi bà hổ thẹn với thầy An-Rê vì sự thắng trận dễ dàng của bà. Bà lui ra và chiều hôm ấy bà tránh mặt thầy.

Bà định đi nghỉ sớm.