← Quay lại trang sách

Chương 15

Năm sau, khi Liên Chi sắp sinh hạ đứa con đầu lòng, thì một trường hợp kỳ lạ xảy đến. Đó là năm đại thoái, khi địch quân từ các đảo miền Đông hải kéo đến chiếm lấy một phần lãnh thổ rộng lớn, và đuổi mọi người ra khỏi đất đai nhà cửa của họ. Những người tị nạn ấy băng qua các đồng quê, các thành phố, và qua cái thị trấn mà gia đình bà Vũ đang ở.

Trong số những người nấn ná lại thị trấn này, có một bà góa khá già cùng với con trai, con dâu và các cháu. Người thanh niên ấy là đứa con độc nhất của bà lão còn sống sót. Anh ta đã giải thích cho người chủ quán biết lý do tại sao họ còn ở lại. Anh nói:

- Xưa kia, mẹ tôi đã mất một đứa con gái tại đây. Có cách gì tìm lại những đứa con lạc mất không nhỉ?

- Nó còn sống sao? Người chủ quán hỏi.

Khách hàng của ông đều là những người khá giả, ăn nói nhã nhặn.

- Nó sống, nhưng bà nội tôi tính tình hung dữ, đã vứt nó đi, vì bà tức giận về việc mẹ tôi đã sinh ba đứa con gái liên tiếp.

- Tại sao các ngài lại ở đây lúc bấy giờ nhỉ?

- Năm ấy là năm đói kém ở miền chúng tôi gần Bắc- kinh. Mùa màng mất mát, nên chúng tôi đi về hướng có nhiều vật thực. Đến đây, đang đi, mẹ tôi sinh đứa con gái ấy.

Người chủ quán suy nghĩ một lát, ông ta nói:

- Chuyện ấy phải xảy ra trong quán này, vì đây là quán trọ độc nhất của thành phố. Tôi sống ở đây lâu năm; và cha tôi cũng đã sống ở đây trước tôi.

- Quả thế, mẹ tôi đã nói với tôi điều đó nên chúng tôi nán lại đây. Hai chị tôi đã chết, bây giờ mẹ tôi vẫn khóc đứa con bị bỏ rơi.

- Tôi sẽ đi trình điều ấy với các vị bề trên của tôi. Nếu trong các vị ấy có ai biết, thì chính là bà Vũ.

Tối kia, sau khi đã dọn dẹp xong, người chủ quán bận áo quần đẹp và đến xin gặp bà Vũ để thưa một chuyện cần.

Bà nhận lời, vì gia đình ông ta đã giúp việc trong nhà họ Vũ. Một giờ sau, ông đứng trước mặt bà Vũ. Ông Vũ không có đó, ông không muốn bị quấy rầy sau bữa cơm tối.

Vì khách khứa quá nhiều, người chủ quán chỉ rỗi rảnh vào giờ ấy thôi.

Người chủ quán thuật lại câu chuyện. Bà Vũ lắng tai nghe, cố nhớ lại. Bà nói:

- Bà lão ấy nên đến đây kể cho tôi nghe tất cả thì tốt hơn.

- Vâng thưa bà, chỉ có cách ấy là tốt hơn cả.

Nói xong, người chủ quán ra về.

Hôm sau, người con trai đưa mẹ đến. Bà Vũ tiếp bà ta ở nhà riêng của bà, và người con trai đứng đợi ngoài hành lang.

Bà Vũ ngỡ sẽ gặp một người đàn bà hạ lưu, nhưng bà lão vịn lên cánh tay một con nô tì đi vào, không có vẻ gì tầm thường cả. Đó là một bà thế gia khá lớn tuổi.

Bà Vũ chào bà và mời ngồi ở chỗ danh dự. Bà khách khiêm tốn chối từ. Bà Vũ phải mời mãi bà ta mới chịu ngồi. Cuối cùng, sau khi hai bà đã an vị và trà đã rót ra chén, họ bắt đầu nói chuyện. Giang và đứa nô tỳ của bà khách đứng xa quá, không thể nghe được, nhưng nếu có gọi thì chúng nghe ngay.

Sau lời xã giao thường lệ, bà khách bắt đầu câu chuyện:

- Chúng tôi, đi lệch quá xa về phía tây. Chúng tôi còn được yên ổn lắm, không cần phải đến đây làm gì, nhưng vì còn một chút việc riêng, nên tôi phải đi thêm hai trăm dặm này nữa.

Bà lau đôi mắt với chiếc khăn lụa.

Bà Vũ hòa nhã nói:

- Bà hãy kể cho tôi nghe những gì bà muốn nói.

Được khuyến khích như vậy, bà giải thích việc vứt bỏ đứa con:

- Tôi biết nó không chết. Nó khỏe mạnh lắm, mạnh hơn tất cả những đứa khác. Cha nó không muốn người ta giết nó, mặc dầu có lệnh của mẹ ông. Đó là một người đàn ông tốt, có một bà mẹ độc ác. Than ôi! Ông ta đã chết trước bà cụ. Nhưng ông không dám nói gì trái với ý muốn của bà cụ, ngay cả đối với tôi cũng thế.

Bà ta ngừng lại, rồi khóc.

- Chúng tôi đã bị trời phạt! Con cái chúng tôi đều lần lượt nối nhau chết cả, trai cũng như gái. Chỉ còn lại đứa con trai sau hết, và chúng tôi từ xa xôi đến đây cốt để tìm đứa con gái đã mất.

- Bà chắc chắn đứa con không bị giết chứ?

- Tôi chắc như vậy, vì khi sinh nó xong, nằm trên giường, tôi nghe chồng tôi nài xin bà cụ, và rốt cuộc đứa bé được sống với điều kiện là phải vứt bỏ nó ở chân thành thị trấn.

Bà Vũ hỏi:

- Phải chăng đứa bé được bọc trong một chiếc áo cụt bằng lụa đỏ?

Bà khách chăm chú nhìn bà, hổn hển nói:

- Vâng, ở trong chiếc áo cụt đỏ cũ của tôi. Tôi tưởng như vậy người ta sẽ dễ thấy nó hơn.

Bà Vũ đứng dậy đi về phía tủ. Cái áo Thu Minh đã gởi trước đây, được xếp nằm giữa áo quần của bà.

- Đây, cái áo đây.

Mặt bà khách tái đi.

- Đúng cái áo này đây, bà ta lẩm nhẩm, các ngón tay run run.

Bà Vũ đáp:

- Nó còn sống.

Rồi bà kể lại đầu đuôi câu chuyện của Thu Minh. Bà khách lắng nghe một cách sốt ruột lẫn sợ hãi. Khó mà giải thích tại sao Thu Minh không làm đẹp lòng ông Vũ, và tại sao bà Vũ lại cho phép nàng về sống tại làng quê, mặc dầu bà có lòng yêu thương nàng. Bà khách tỏ lòng biết ơn, mặc dầu hơi trách bà Vũ, khiến bà Vũ đã phải nói:

- Chúng ta hãy đi về làng quê để đích thân thấy sự thực, và bà sẽ rõ là con gái bà không đến nỗi thiếu sự chăm nom.

Bà Vũ liền truyền dọn cáng và hai bà đi về đồng quê.

Từ lâu, bà Vũ ước ao về đó để xem công việc của Phan, nhưng mùa đông thì lạnh, mùa hè thì nóng, và vì mắc phải bịnh sốt rét, lại cũng vì thích yên tĩnh và ham đọc sách, nên bà chưa thực hiện được dự định ấy được. Bà sửng sốt trước điều bà trông thấy. Làng mạc được sạch sẽ và thịnh vượng hơn bao giờ hết, dân cư trông có vẻ khỏe mạnh hơn. Lũ trẻ mặt mũi sạch sẽ, đầu tóc chải tử tế, và các người làng hãnh diện đưa tay chỉ những ngôi trường mới bằng vách đất trộn rơm. Phan đã từng nói với mẹ tất cả những điều ấy, nhưng bà lắng nghe và cho là phải, chứ không lường trước được tất cả những điều chàng đã thực hiện.

Nhà của Phan ở cạnh trường. Nhờ có tin trước, nên khi hai bà đến, mọi người đã tề tựu sẵn sàng để nghênh tiếp. Liên Chi sắp sanh con, bà Vũ biết, nhưng bà ngạc nhiên thấy con dâu bà có dáng khỏe mạnh đến thế. Nàng có đôi má hồng đào, cặp môi thắm hồng không tô son, và ngoài sự thai nghén, nàng đã béo mập thêm. Các nụ tóc quăn đã được cắt bỏ, điều đó làm bà Vũ rất hài lòng. Các cử chỉ của Liên Chi làm bà vui mừng hơn. Nàng đã tỏ ra rất cung kính và kinh hoạt, dáng điệu lười biếng của nàng đã biến mất.

Họ đến ngồi ở nhà Phan trong lúc người ta cho đi tìm chàng. Phải kể lại một lần nữa tất cả câu chuyện, cho mời Thu Minh và con nàng đến, có Tố Lan đi theo.

Khi Thu Minh vào, hai mẹ con nhìn nhau liền biết công việc ra sao. Hai khuôn mặt không thể giống nhau đến độ ấy, nếu không được nhào nặn bởi cùng một xác thịt. Những người đứng chung quanh đều bật cười khi thấy đoạn kết của một câu chuyện kỳ lạ như thế. Bà Vũ thinh lặng, bà cũng là người sung sướng nhất.

Thu Minh kêu lên:

- Mẹ!

Bà khách nói:

- Đây là con tôi!

Cả hai đều khóc, người ta phải ôm lấy đứa bé gái đã khá lớn đang phản đối, kêu la. Thu Minh vả mặt con, bà nó ngăn lại. Lát sau, sự yên tĩnh trở lại. Đã hẳn, người mẹ muốn đem con gái và cháu gái trở về với gia đình. Nhưng Thu Minh phải được phép của bà Vũ.

- Thưa Đại nương, em có thể đi khỏi đây không ạ? Nàng sợ sệt hỏi.

Bà Vũ nhận thấy sắc diện của Thu Minh không được tốt, mặc dầu không khí trong lành ở làng quê và vật thực xanh tươi thôn dã. Thu Minh nhợt nhạt, đôi mắt lõm sâu dường như bị mất ngủ, và nàng tránh không nhìn Liên Chi. Rời bỏ nhà họ Vũ là điều tốt cho nàng. Và nàng đã được phép ra đi.

Bà Vũ nói:

- Nếu là một người nào khác không phải mẹ cô, thì tôi sẽ không để cô ra đi đâu. Nhưng trời đã cho hai mẹ con đoàn tụ, làm sao tôi dám chia cách? Cô có thể ra đi, nhưng cô và con cô hãy đợi lấy quần áo mới và sửa soạn sửa hành trang. Cô không nên rời khỏi nhà này tay không.

Mẹ của Thu Minh bảo việc ấy không cần thiết. Bà Vũ nài nỉ. Cuối cùng, sau ngàn lời cảm tạ, Thu Minh và con gái theo mẹ về quán trọ để họ không còn chia lìa nhau nữa. Bà Vũ không nói gì, nhưng vào phút cuối, bà kéo riêng bà khách ra một bên và bảo:

- Đừng để con gái bà sống cô độc. Bà hãy tìm cho cô ấy một người chồng tốt để làm lại cuộc đời.

Mẹ của Thu Minh hứa điều ấy, và Thu Minh rời bỏ nhà họ Vũ. Sau vài tuần, khi đã sắm sửa hàng trang xong, nàng ra đi với gia đình. Nàng tránh không đến một mình để từ biệt bà Vũ, và bà Vũ cảm thấy biết ơn nàng về điều đó; tính nàng rất dịu hiền nên bà không thể trách nàng là chóng quên hay vô ơn. Nhưng Thu Minh và bà mẹ của Phan không còn gì để nói với nhau nữa, và nàng muốn tránh việc làm phiền bà Vũ. Còn về tình yêu của mình, Thu Minh mang theo và chôn chặt tận đáy lòng.

Từ ấy, bà Vũ không bao giờ gặp lại Thu Minh. Mỗi năm một lần, bà nhận được lá thư do một người viết thuê viết và Thu Minh ký. Sau các câu hỏi thăm thường lệ, Thu Minh cho bà biết mọi sự đều bằng yên, con gái nàng đã lớn. Cuối cùng, khi chiến tranh chấm dứt, nàng đã lấy một người góa vợ, một tiểu thương ở Bắc- Kinh. Ông ta có hai con trai nhỏ mà chẳng mấy chốc nàng đã yêu thương chúng như con mình. Sau đó mẹ nàng mất, rồi Thu Minh sinh được một con trai, một gái và một cặp sinh đôi nữa. Nhà nàng đã đầy trẻ con.

Bà Vũ trả lời một cách trung thành, khuyên bảo nàng về sự khôn ngoan. Và trong mỗi thư, vì lòng tốt, bà cho biết thêm về tin tức của Phan và gia đình anh ta.

Gia đình Phan cũng vậy, đã đông thêm, mặc dầu đời sống nội tâm của chàng như thế nào đi nữa, cuộc sống vợ chồng của chàng vẫn mang nhiều kết quả. Liên Chi sinh nhiều con, một gái và ba trai. Mỗi lần sinh con, nàng đều trở về nhà họ Vũ, nhưng khi đứa con đã đầy tháng, nàng trở lại làng quê sống bên Phan. Nàng không có thì giờ để vui đùa, làm nũng, uốn tóc và sơn móng tay. Phan cư xử với nàng rất nghiêm khắc, nhưng công bình. Bà Vũ biết rõ chàng sẽ không bao giờ yêu Liên Chi, và chàng có thể không cần đến ái tình. Chàng có những say mê khác mà ngọn lửa cao hơn ngọn lửa của tình yêu. Lòng chàng nung nấu nhiệt tình đối với dân tộc. Chàng đòi hỏi các trường học, luôn luôn có nhiều trường học nữa. Sau đó, Phan mở đến các bệnh viện. Chàng đã từ bỏ các áo dài bằng lụa và vận một thứ đồng phục, không dấu hiệu cũng không huy chương. Khuôn mặt quá nghiêm nghị của chàng luôn luôn nhắc nhở bà Vũ nhớ đến khuôn mặt của An-Rê, nhưng chỉ thiếu mỗi một vẻ trào lộng. Phan rất mực khắc khổ, và tự tạo cho mình một thứ giáp trụ rắn chắc. Chàng không bao giờ viết thư cho cô gái chàng yêu ở bên kia đại dương, cũng không bao giờ nhắc nhở đến nàng. Phan không làm gì nửa vời. Chàng phục vụ một cách hăng say.

Mọi người đều khen ngợi lòng hăng say ấy, ngoại trừ khi xảy ra việc đụng chạm với gia đình. Phan đã đi quá trớn. Giáo huấn các nông phu và cả cậu bé Dân, người rất mến thương chàng, Phan vẫn chưa vừa lòng, chàng còn vin sang cả người anh trưởng. Trường Phan thiếu giáo viên và thấy Mai biếng nhác, mập phì, một hôm chàng đã nhờ chị đến giúp Liên Chi và Tố Lan dạy các bà lớn tuổi vá may, chỉ vẽ một ít chữ nghĩa vv… Mai trố mắt kêu lên:

- Tôi à? Nhưng tôi chỉ rời khỏi nhà này để đi thăm mẹ tôi thôi.

- Phải như thế chị ạ. Đó là bổn phận của chị. Con gái chị đã có các vú em săn sóc, cháu trai lớn thì đã có vị gia sư, còn việc bếp núc thì đã có lũ nô tì. Chị phải đến giúp chúng em, ngày một vài giờ.

Mai vùng vằng:

- Không, không thể được. Chắc anh Lãng không cho phép đâu.

- Người ta đã dạy chị học. Chị nên dạy lại cho người khác. Trong xứ chúng ta, người có chút học thức không có quyền giữ sự hiểu biết ấy cho riêng mình.

Mai lắng nghe, vẻ bực mình. Hồi ấy, Phan có giọng nói cương quyết, quyến rũ, khi chàng đã thuyết phục ai thì người ấy khó có thể từ chối. Lòng nhân hậu vô biên của chàng giúp chàng và hấp dẫn sự mến phục của những người chàng dạy dỗ. Mai ấp úng:

- Chú để tôi xin phép nhà tôi đã.

Phan ra về và tin rằng chị đã nao núng.

Nhưng khi Mai vừa khóc vừa kể lại điều Phan yêu cầu, Lãng bèn nổi giận.

Lãng gỡ cặp kiếng xếp bỏ vào túi, rồi vỗ bàn thét lớn:

- Thật chịu không nổi chú Phan. Nó cứ đút nhét tư tưởng tiến bộ vào đầu óc những kẻ hèn kém ấy. Đấy, mới hôm qua đây đã có mấy tên bảo tôi là từ nay họ không muốn bán thóc đậu qua trung gian nữa. Tự họ sẽ trực tiếp đứng bán. Tôi có hỏi họ về việc sổ sách thu xếp thế nào, thì hình như chú Phan đã chỉ vẽ cho họ cả rồi. Như thế những người trung gian làm gì để sống? Trên đời này ai có hoàn cảnh này chứ.

Lãng cau mày dõng dạc tiếp:

- Này, tôi cấm mợ nói lại với chú ấy. Để tôi sẽ dàn xếp với y.

Mặc dầu bận rộn công việc ở thương điếm, Lãng cũng tìm đến thăm Phan một lát. Trong thâm tâm, anh kinh ngạc nhận thấy xóm làng sạch sẽ vì công việc của Phan đã bành trướng rộng rãi, nhưng anh cố giữ không nói năng gì. Anh tự hỏi, không biết Phan đào đâu ra tiền. Vả lại, những người nghèo hèn sống một đời sống như thế, không nên ăn ở sạch sẽ như hạng người giàu có. Lập bệnh viện vô ích, vì người đã quá đông, cố làm cho họ sống dai để làm gì.

Buổi thăm viếng kết thúc bằng một cuộc tranh luận giữa hai anh em. Khi thấy cách phục sức của Liên Chi, Lãng phát khùng, nên cuộc đấu khẩu lại càng thêm kịch liệt. Chàng cho rằng Liên Chi không xứng đáng là một bà trong nhà họ Vũ. Nàng phục sức giống một cô giáo quê, có vẻ già hơn cả Mai nữa.

Nghe vậy, Liên Chi suýt cho mình là đáng trách, nhưng Tố Lan nhẩy vào cuộc tranh luận và đứng về phía Phan, phía dân chúng, Lãng lại càng thêm tức tối, khi thấy Tố Lan đã hết ưu phiền và hăng hái tham gia các công cuộc trong thôn xóm. Mọi người uất hận từ giã nhau.

Bà Vũ độ rầy ít đi đâu, ngoại trừ đến chùa thăm các em bé. Bà không tăng thêm số trẻ em, mặc dầu An-Rê muốn thế. Bà chỉ cấp tiền cho một ngôi chùa ở phía nam thị trấn, để kiếm tìm những đứa trẻ bị vứt bỏ ngoài bờ thành đem về nuôi nấng. Bà Vũ thường bảo: Không nên biến chúng thành ni cô, phải dạy dỗ chúng, rồi gả cho một người tử tế. Bà hành động như thế để nhớ An-Rê.

Số trẻ em mà An-Rê đã nhận nuôi, vẫn sống tại chùa cho đến năm mười sáu tuổi. Bấy giờ, bà cho người ta đến dạm hỏi, chúng được rất nhiều tiếng tốt. Trong tay bà luôn luôn có cả một bản danh sách những người muốn cầu hôn. Mỗi lần có một thiếu nữ đến tuổi cập kê, bà liền gọi đến và cho biết về những người muốn cầu hôn. Hành động mới mẻ này đã làm sôi nổi dư luận trong thành phố, vì không những bà chỉ kể tên tuổi, tính tình các thanh niên ấy mà thôi, bà lại còn cho xem cả hình ảnh nữa.

- Tại sao chỉ có người thanh niên được xem ảnh của thiếu nữ mà thôi? Thiếu nữ cũng phải được biết người thanh niên nữa, thế mới đúng lý chứ!

Không ai dám công kích bà Vũ. Thanh niên tranh đua nhau và hãnh diện được trao gởi cho bà những tấm ảnh của mình để các thiếu nữ lựa chọn. Và khi chọn lựa xong, bà Vũ trao cho người đắc cử tấm ảnh của vị hôn thê.

Nhờ có tiếng tốt, nên không có ai trong số các thiếu nữ ấy bị người thanh niên mà bà đã chỉ định từ chối việc kết hôn.

Bà Vũ xem họ như con của chính bà. Bà dạy họ những bí quyết làm cho gia đình hòa thuận và cách cư xử với chồng con. Tất cả đều tỏ ra là những người đàn bà gương mẫu, và vì thế bà Vũ được nổi tiếng khắp miền.

Bà đứng ra sắp đặt hôn lễ cho họ rất đàng hoàng, và trong đó bà giữ tư cách của một người mẹ. Không ai hiểu được nụ cười và cái nhìn xa xôi của bà. Và bà cũng không cần ai hiểu tâm trạng của bà cả. Bà hình dung An-Rê bên cạnh bà trong lúc bà lần lượt đưa những đứa con rơi, những đứa con riêng của thầy đến những nơi nương tựa vững chắc và êm ấm. Vì bà không những chỉ chuẩn bị cho những thiếu nữ ấy trong việc thực hiện hôn nhân mà thôi. Bà còn không cho phép kết hôn, nếu người thiếu nữ chưa gặp gỡ chuyện trò với vị hôn phu của mình và mẹ của anh ta, nếu chàng ta còn mẹ. Một bà mẹ chồng cay nghiệt, cũng đủ cản trở việc hôn nhân. Đã xảy ra ba lần như thế, và có hai trường hợp người thanh niên buồn phiền quá đến phải bỏ mẹ ra đi.

Bà Vũ đã tỏ ra sầu thảm, vì người thanh niên không nên rời bỏ nhà cha mẹ. Tuy thế, có lần An-Rê và bà đã đề cập đến vấn đề này. Bà càng về già, An-Rê hiện ra trong trí bà càng rõ rệt hơn, và bà nhớ lại rõ ràng những lời hứa của An-Rê. Hôm ấy vào mùa đông, sau buổi học của Phan, ngoài sân tuyết sa trắng xóa, và trên nền tuyết trắng ấy chỉ in dấu những bước chân to lớn của thầy. Phan và Giang, đều đi qua ngã hàng hiên, nhưng An-Rê lại đi ngang qua mặt sân phủ tuyết.

Bà đã nói với thầy:

- Chân ướt hết cả rồi!

Thầy nhìn xuống đôi giày như không hiểu sự nhận xét ấy, và không nói gì. Thầy mở quyển sách ra. Phan đã đến và buổi học bắt đầu. Bà Vũ ngồi bên cạnh lắng nghe sau khi Phan mãn học ra về, bà hỏi:

Đến mức nào người ta có thể cho phép một người con trai rời bỏ nhà cha mẹ? vì bà đã thấy trước, thế nào Phan cũng phải đi xa, để tiếp tục việc học.

Thầy đáp:

- Nhà cha mẹ là nơi đứa trẻ sinh ra, không gì hơn.

Thầy gấp mấy quyển sách, chồng lại với nhau và gói vào cái khăn vải.

- Như thế nghĩa là người con trai không có bổn phận gì đối với cha mẹ cả sao?

- Không nên hỏi tôi điều ấy.

Thầy liếc nhanh nhìn bà Vũ, rồi quay mặt đi, một nụ cười làm sáng hẳn mặt thầy.

- Bà xem, tôi đã du hành đến đâu rồi. Nhưng tôi không quên thời thơ ấu của tôi đã trải qua tại một ngôi nhà ở Venise.

- Venise? Bà nhắc lại, vì lâu nay không bao giờ thầy nói đến sinh quán của mình.

Thầy nói tiếp:

- Venise là một thành phố tương tự như Tô Châu, ở đấy giao thông đều bằng đường thủy. Thay vì đi cán, chúng tôi đi thuyền. Tôi ưa nhìn mặt nước hóa vàng vào buổi hừng đông, và lúc mặt trời sắp lặn.

Thầy ngừng nói, chăm nhìn bức tường trơ trọi trước mắt, nhưng bà biết thầy đang nghĩ đến những con đường nước ánh vàng ấy. Đoạn thầy ôm sách ra về, miệng chào từ giã.

Chính thầy đã làm sụp đổ những bức tường bà đang sống, nên bây giờ bà lặng thinh khi có một chàng trai từ bỏ người mẹ hung ác và kiêu hãnh. Các thanh niên, chính họ cũng cần phải sống. Tất cả mọi người đều phải sống.

Sự sụp đổ của những bức tường ấy chuẩn bị cho bà tiếp Lãng khi chàng đến than phiền về Phan. Thường ngày, có khi hàng tháng bà không hề gặp các con, nên khi họ đến nhà, luôn luôn bà có một cảm tưởng mới lạ. Lần này, bà ngạc nhiên nhìn Lãng như nhìn một nhà kinh doanh, một ông chủ gia đinh, một thương gia, một kẻ kiếm được nhiều tiền bạc.

Sau khi vấn an, Lãng vào chuyện ngay.

- Thưa mẹ, chú em con đã hóa ra người cuồng trí. Bây giờ chú nó muốn vợ con đi dạy, còn Liên Chi thì ra vẻ một bà giáo quê, cắt tóc ngắn và vàng hoe vì phơi nắng. Còn Tố Lan thì giống như một nữ đảng viên cộng sản. Con lấy làm khó chịu vô cùng. Mẹ xem, như thế có xứng hợp với gia đình nhà ta không?

Bà Vũ mỉm cười:

- Con có thấy làng xã đều sạch sẽ cả không?

Nhưng Lãng không chịu nhìn nhận những khía cạnh tốt, chàng nói:

- Con nghĩ đến gia đình trước tiên, chứ không nghĩ đến người ngoài, cũng như những hạng người hèn kém. Trách nhiệm gia đình sẽ đặt lên con, một khi cha và mẹ khuất bóng.

Thường con cái trong nhà ít khi nói đến ông Vũ. Tất cả đều biết, hình như địa vị của ông ngày nay không còn nữa. Ông ngủ nghỉ, thỏa mãn, và chỉ ước ao một điều là để cho ông yên tĩnh. Sự thật thì đàn cháu ông rất trìu mến ông. Chúng chạy nhảy nô đùa inh ỏi trong phòng ông. Ông mơn trớn tươi cười với chúng, và ngủ khò giữa lúc chúng đang nô đùa. Lài nhìn thấy mình son sẻ, nên thường gọi chúng đến và coi chúng như con cái mình, để ông bạn già khỏi nhận thấy sự trống trải chung quanh. Các ông già thường thích bè bạn với trẻ để quên sự chết.

Nhưng Lãng với tư cách là trưởng nam, đã tỏ ra rất đứng đắn và kính nể cha trong mọi trường hợp. Chàng đã giấu giếm sự hèn nhát của ông, ít ra là trong lời nói.

- Hôm ấy, chàng vẫn tiếp tục phiền trách Phan.

- Còn thằng Dân thì không chịu đi học, mẹ coi như thế có phải không?

- Nhưng Dân nó không thích học, bà Vũ dịu dàng nói.

- Đó đâu phải là lý do để không buộc được nó đi học? Bề ngoài xem nó có cái gì xứng đáng là con út nhà ta đâu? Con thấy nó chẳng khác gì một tá điền!

- Ôi, kìa, kìa… Bà Vũ nói với một giọng hết sức dịu dàng.

Lãng hiểu mẹ mình muốn làm thinh, và chàng uống một hớp nước chè để dằn bớt cơn giận. Uống xong, chàng ngồi yên, vẻ mặt rất trịnh trọng.

Bà Vũ vẫn thinh lặng. Bà hiểu giá trị của sự lặng thinh. Hôm ấy bầu trời sắc xám, vách tường cũng xám và ngoài sân trên bể cạn, một làn hơi nước từ hồ bốc lên trong không khí nóng bức. Trong sân thoang thoảng mùi đất.

Bà Vũ hỏi:

- Này con, con có thích ngôi nhà của con không?

- Dạ thích lắm.

Chàng đặt tách nước chè xuống, rồi tiếp:

- Ở nhà con, ai cũng nghe lời con cả. Các cháu đều khỏe mạnh và thông minh. Mẹ, mẹ có biết, thằng bé trai đầu lòng của con đã học xong bậc sơ học rồi không?

- Thế à! Bà Vũ hỏi với một giọng rất dễ thương. Ở phố yên hàn chứ con?

- Dạ cũng thường thôi. Giá sinh hoạt có lẽ hơi đắt đỏ, nhưng đối với gia đình nhà ta cũng chưa đến nối. Người ta đang xây một tòa nhà để làm bệnh viện ngoại quốc và con nghe nói rằng người ta còn chờ những người ngoại kiều khác đến.

Bà Vũ hỏi:

- Như vậy có phải là một điều tốt không?

Lãng đáp cộc lốc:

- Điều đó thì chú Phan thích rồi! Còn con, con cho là chúng con được may mắn, vì Mai không cần thuốc Âu Tây, và con cái con không bao giờ đau ốm.

Bà Vũ nói:

- Mẹ còn nhớ, mẹ đã chữa lành một đứa cháu nhà họ Khương bằng một chén thuốc ngoại khoa theo lối gia truyền của bà ngoại. Mẹ tưởng, từ đó đến nay chắc nó khỏe mạnh lắm.

Bà Khương vừa mất năm ngoái, và bây giờ bà Vũ nhớ lại lúc bà ấy nằm trong quan tài. Cái quan tài phải đóng rộng gấp hai kích thước thường, trong đó, bà Khương bận áo xa tanh, nằm hai tay buông xuôi mập mạp. Sau khi bà ấy chết, thỉnh thoảng bà Vũ tưởng nhớ đến bà ta một cách dịu dàng. Bà hồi tưởng lại tình bè bạn hồi xưa. Khi bà Khương còn là một thiếu nữ có nước da hồng hào, vui tươi và nhí nhảnh, chỉ có điều đáng buồn là đôi mắt nhỏ, hai lỗ tai quá to và sống mũi quá thấp. Sau khi bà Khương mất một ít lâu, ông Khương tục huyền với một thiếu phụ tính tình thất thường làm xáo trộn cái gia đình đông đúc ấy. Nhưng chuyện ấy không liên quan gì đến bà Vũ cả. Đó chỉ là câu chuyện lẻo mép của chị Giang kể cho bà nghe trong lúc chải đầu, và bà đã nghe một cách hững hờ.

Lãng ngồi nán chờ mẹ nói thêm một vài lời nữa. Cuối cùng bà Vũ cười với Lãng bằng một nụ cười khả ái và dịu dàng.

- Này con, mỗi người có một tâm hồn, không ai áp bức người khác mà không làm hại đến thân mình. Con ạ, con hãy sống với gia đình con và để em Phan sống yên trong nhà của nó.

Lãng giận dỗi trả lời:

- Con van mẹ, mẹ hãy nói chi chú Phan biết. Con không muốn chú ấy xen vào việc nhà của con.

- Được rồi, mẹ sẽ nói.

Lãng lui ra. Khi bà Vũ thấy Phan, bà bảo:

- Này con, con còn nhớ không? Một hôm, vị giáo sư của con đã dạy con rằng, giáo hóa là mời gọi tâm hồn người ta hướng về trời, nhưng không bao giờ bắt buộc?

Nhìn gương mặt của Phan, bà thấy chàng đã nhớ lại lời nói ấy của An-Rê. An-Rê, cả cuộc đời thầy như một sự mời gọi lên trời, một tiếng gọi tuyệt diệu.

Phan cúi đầu, úp mặt vào hai lòng bàn tay.

- Con hiểu rồi, con biết vì sao mẹ nhắc con lời nói đó. Con hiểu vì sao mẹ nói với con những lời như vậy. Thình thoảng ngọn lửa trong lòng con ngột tắt, con tự thúc đẩy những người khác.

Bà để mặc cho chàng nói, vì bà biết Phan cần được cởi mở, và nếu chàng không thổ lộ với bà, thì biết thổ lộ với ai bây giờ?

Một lần nữa, bà lại cảm thấy khát khao được nói về An-Rê với con bà. Hai mẹ con rất gần nhau, vì chỉ một mình họ được chia sớt sự khôn ngoan do An-Rê mang đến trong nhà này. Lại một lần nữa bà từ bỏ ý định ấy, bà nói với Phan:

- Mẹ thường suy nghĩ đến những điều mà vị giáo sĩ ấy đã mang đến cho nhà chúng ta. Gia đình chúng ta quá cổ hủ, đến nối người ta có thể thấy rằng chúng ta không cần sự khôn ngoan để sống. Về phương diện gia tộc, chúng ta đã tiếp tục từ bao thế kỷ nay, và bây giờ vẫn còn tiếp tục. Vị giáo sĩ không biến cải chúng ta, nhưng mẹ con chúng ta đã thay đổi và chính chúng ta đã mang lại những cải cách trong gia đình. Nhưng thực sự có những thay đổi gì?

- Chúng ta học hỏi ở thầy cái quyền sống một cuộc sống cá nhân.

- Con nói rất đúng.

Theo giọng nói của bà Vũ, không ai có thể tưởng rằng bà đang cảm thấy có sự hiện diện của An-Rê trong gian phòng, bên cạnh con bà, và đương nhìn ngắm hai mẹ con với một tình yêu thương không tả xiết. Bà được sưởi ấm bởi sự hiện diện đó. An-Rê thường hiển hiện với bà, nhưng chỉ khi nào bà ở một mình.

Bà nói:

- Nếu thầy còn sống, mẹ tin chắc thầy sẽ vừa lòng về tính nết của con.

- Mẹ có tin chắc như thế không?

Phan ngồi thẳng lên và cảm thấy sung sướng khi nghe lời nói ấy. Sự sung sướng đó làm chàng tăng thêm nghị lực.

- Thưa mẹ, con nghĩ: nếu con xin bác sĩ Âu Tây ở nhà thương ngoại quốc huấn luyện các thầy lang của ta; không phải huấn luyện cho họ thông thái hơn, nhưng chỉ để đủ khả năng chữa ngàn vạn bệnh thông thường thôi, ý mẹ thế nào? Đồng bào ta chết một cách oan uổng quá!

Chàng còn tiếp tiếp tục nói giọng quả quyết, hăng hái và sống động. Nhưng bà Vũ không nghe gì lắm, vì bà đang nhớ đến An-Rê. Bà tưởng nhớ đến hai bàn tay dài và đẹp của thầy. Một bàn tay luôn cần chặt cây thánh giá trên ngực; khi tràng hạt thầy đứt, thầy lấy dây buộc lại. Chính cây thánh giá của thầy cũng bị sứt mẻ vì lũ cướp giết thầy, cây thánh giá chạm phải đá nơi thầy ngã xuống. Bà Vũ thấy vậy lúc bà cúi nhìn An-Rê nằm trong quan tài.

- Tốt lắm con ạ. Tốt… tốt… bà lẩm bẩm.

Lúc Phan đứng dậy đi ra, bà sực nhớ lời bà đã hứa với Lãng. Bà đưa tay nắm lấy cánh tay Phan.

- Phan này, con nhớ đừng ép ai cả nghe con. Dù Lãng hay là Mai cũng thế.

- Ồ hai người ấy à? Con đã loại bỏ họ rồi.

Phan đi ra, và hình ảnh An-Rê cũng biến mất. Bà mỉm cười một mình.

Năm tháng vẫn trôi qua. Bà Vũ không bao giờ bước chân ra khỏi ngõ. Tuy nhiên, bà biết khá tường tận về tất cả các việc đã xảy ra. Bà được nổi tiếng vì biết nghe một cách kiên nhẫn, xét đoán một cách bình tĩnh, nên nhiều người tìm đến gặp bà để xin chỉ giáo. Chính bà đã quyết định những việc quan trọng ở thành phố cũng như ở thôn quê. Chẳng hạn như việc bà quyết định phải làm gì đối với thi hài cô Hsia. Cô này chết vào một đêm đông trong ngôi nhà đơn chiếc của nhà họ Vũ. Chính bà Vũ lo việc khâm liệm và mai táng, khi cô chết, trong nhà chẳng có ai ngoài lão bếp già đang thương khóc. Chính lão này đã chạy đến báo cho bà Vũ hay chủ mình ngồi chết trên ghế, mình khoác một cái mền rách và quyển Thánh kinh đặt trên đầu gối.

Xác cô Hsia nằm trong quan tài, dưới các pho tượng bụt bằng đất sét và bức hình của An-Rê khắc lên tấm bạch ngọc. Các em trong chùa đều đã đi lấy chồng, chỉ còn em bé Ái. Chính em này chăm lo việc thắp đèn. Vị sãi già bây giờ đã quá già, đến nỗi chỉ bước từng bước một, và vì thế em bé Ái có dịp giúp đỡ thầy trong việc phụng vụ. Ngay cả mụ ở già của thầy An-Rê cũng có một người giúp, vì mụ ta đi đứng một cách rất khó khăn.

Bà Vũ cúi nhìn khuôn mặt gầy guộc của cô Hsia và bà nhớ lại những câu kinh mà cô thường đọc. Nhưng bà Vũ đã quên những câu kinh ấy cũng như những chuyện mà bà không muốn nhớ. Bà chỉ có thể thắp nén hương trong chiếc lư đồng trước các pho tượng, và cầu xin thượng đế tiếp nhận linh hồn của người này. Linh cữu của cô Hsia được khằn kín, đặt tại chùa, đợi ngày lành tháng tốt sẽ làm lễ an táng nơi một sườn đồi ở ngoại ô châu thành. Bà Vũ cho đặt bia đá trên ngôi mộ với lời ghi khá đầy đủ, để sau này nếu có thân nhân đến tìm sẽ nhận được dễ dàng.

Những điều ấy, bà Vũ tưởng sẽ hoàn toàn không thể có được, nếu không phải là một trường hợp lạ thường.

Sau khi chiến tranh kết liễu, khắp miền ở vào một tình trạng vô cùng hỗn độn. Rất nhiều người ở ngoại quốc trở về cố hương tìm cách để ổn định xứ sở. Điều đó không liên quan gì đến gia đình họ Vũ, vì thành phố bà Vũ ở rất xa những vùng bị hỗn loạn. Nhưng những người ngoại quốc vẫn tiếp tục đi ngang qua đó, vì lẽ này hay lẽ khác, chẳng hạn do lời thỉnh cầu của Phan. Mỗi lần Phan nghe nói đến một người Tây phương nào, chàng liền mới đến để xin chỉ bảo về công việc của mình. Họ nhận lời ngay, vì ngày nay các công cuộc của Phan thực hiện được mọi người biết đến, và họ vô cùng khen ngợi.

Bà Vũ không tiếp những khách lạ đó, vì bà không thông thạo ngôn ngữ của họ. Bà thường nói:

- Cuộc sống của tôi đã hoàn toàn, tôi không cần thêm vào đó một đời sống khác.

Nhưng rồi một hôm, Phan vào báo tin cho bà biết có một người từ bên kia đại dương đến, và chàng muốn đưa tới gặp bà vì một lý do đặc biệt. Bà Vũ nhận lời. Vài giờ sau, Phan đến cùng với một thanh niên cao lớn, da hung hung. Sau những lời chào hỏi, bà Vũ quay lại hỏi nhỏ Phan:

- Người ngoại quốc đấy à?

- Thưa mẹ, đấy là người Ý, nơi sinh quán của thầy An-Rê.

Bà Vũ xúc động vô cùng. Bà quên rằng bà không nói được thứ tiếng nào khác ngoài tiếng bản quốc. Bà nghiêng mình về trước, tỳ tay lên đâu gậy bằng bạc, và hỏi chàng thanh niên.

- Cậu có biết vị giáo sĩ Tây phương ấy không?

Phan thông dịch và nhờ chàng, người thanh niên ngoại quốc cùng bà Vũ trao đổi với nhau được vài câu:

- Thưa cụ, chàng trai nói. Tôi không được biết ngài, nhưng tôi thường nghe cha mẹ tôi nhắc đến chuyện ngài. Ngài là chú tôi.

- Chú của cậu à? Bà Vũ hỏi lại: Cậu là người ruột thịt của thầy!

Bà nhìn ngắm người khách trẻ, có nước da hung hung và tìm được những đường nét hao hao giống thầy An-Rê. Chàng trai có đôi mắt đen nháy như thầy, nhưng nhỏ hơn. Cái đầu và hai bàn tay cũng vậy. Bà chăm chú nhìn hai bàn tay của người thanh niên, thanh cảnh hơn nhưng cùng một hình dáng quen thuộc. Tất cả mọi đường nét trong người chàng trai này, như tạc vẽ lại với một tỉ lệ nhỏ hơn, nhưng nét nhìn thì hoàn toàn khác với An-Rê. Tâm hồn cũng khác hẳn.

Bà thở dài. Không, chắc không phải cùng một tâm hồn.

- Cậu đến đây để tìm chú của cậu, phải không?

- Vâng, vì cha mẹ tôi biết người ở đây, mặc dầu mấy năm sau này người không biên thư về cho một ai trong gia đình tôi cả. Nhân dịp đi qua gần đây, tôi có hứa sẽ đến xem người có còn sống không, để tin về cho cha mẹ tôi biết.

- Thầy đã được chôn cất trong đất của chúng tôi. Con tôi sẽ dẫn cậu đến mộ. Họ cùng im lặng một lát. Bà Vũ tự dằn lòng khỏi cơn ghen tức lạ lùng. Bà nhắm mắt lại, thấy gương mặt của An-Rê nổi bật lên trên tấm nhung đen của tâm tư bà.

"An-Rê, bà nói với cái hình bóng ấy. An-Rê chỉ thuộc về chúng tôi."

Bà mở mắt ra và thầy người cháu của An-Rê ngồi trước mặt mình. Trời ơi! An-Rê đã có một gia đinh, có bà con sống bên kia bờ đại dương!

Chàng trai mỉm cười:

- Thưa bà, tôi thiết tưởng, bà biết rõ vì sao chú tôi sống rất xa chúng tôi, và vì sao người không biên thư về nhà.

Phan thông dịch tất cả cho bà Vũ nghe, nhưng bà không nói gì.

Bà nhắm mắt và thinh lặng. Hai chàng thanh niên nhìn bà kinh ngạch. Lo sợ vì thấy bà im lặng quá lâu, Phan lay mẹ, bà mở mắt ra:

- Con hãy nói với cậu ấy rằng mộ táng xa lắm, đường đi thì gồ ghề, chật hẹp. Nếu cậu ta có đến đó cũng chỉ thấy có nấm mồ mà thôi, không có gì hơn.

Chàng thanh niên đáp:

- Nếu xa quá như thế thì tôi xin thôi, vì tôi phải trở về để kịp giờ xuống tàu. Dù sao, như bà nói, chỉ là một nấm mồ.

Họ từ giã nhau, ra đi. Bà Vũ nhìn theo họ, lòng khoan khoái, bà cần ở một mình để nghiền ngẫm những gì bà vừa biết được về An-Rê. Trong bao nhiêu năm thầy sống ở đây, sống cô độc.

"Không, không cô độc!" bà thầm nghĩ. "Còn có những đứa trẻ mà thầy nuôi dưỡng và những kẻ ăn mày mà thầy đã giúp đỡ."

Và chính bà, bà đã mở cửa để tiếp đón thầy ra sao, bà sẽ không bao giờ có thể biết được. Thầy đã được đưa đến với bà, bà mở cửa và thầy vào, mang đến cho bà một đời sống bất diệt.

Phải, bây giờ bà tin rằng khi thể xác thầy đã chết đi, linh hồn thầy vẫn tiếp tục sống. Bà không thờ lạy các tượng bụt, vì không có đức tin, nhưng bà có một tình yêu và tình yêu muôn thuở. Tình yêu đã thức tỉnh linh hồn bà và làm cho nó trở thành bất diệt.

Bà biết mình bất diệt.

HẾT