← Quay lại trang sách

Chương 14

Năm sau, một bức điện tín khác từ bên kia đại dương gởi về. Điện tín ấy của Phan, người con trai thứ ba của bà Vũ. Ông Vũ nhận và sai một tên đầy tớ mang đến cho bà. Bà Vũ xoay xuôi trở ngược mãi để đọc, nhưng vô ích, bà không hiểu gì cả. Phan báo ngày về của chàng, và chỉ có thế. Nếu thuận trời, anh sẽ có mặt ở nhà sớm nhất là một tháng nữa, chậm nhất là hai tháng. Nhưng thời hạn lưu học ở ngoại quốc chưa mãn và chàng không cắt nghĩa vì sao lại trở về vội vã như vậy.

Càng đọc những chữ ấy, bà Vũ càng lưỡng lự. Bà rất ước mong sự hiện diện của An-Rê, vì câu chuyện có liên quan đến đứa con trai độc nhất mà bà đã cũng chia sẻ với thầy.

"Giá ở trên cao kia thầy có thể nhìn thấy nó, có thể nói cho tôi biết tại sao nó trở về đột ngột như thế, và đoán chắc với tôi rằng nó không làm điều gì có lỗi?.."

Nhưng khi bà khép mắt và tìm hình ảnh An-Rê trong bóng tối, thầy chỉ hiện ra với bà, vẻ mặt oai nghiêm, thỉnh lặng, và bà không nhớ lại điều gì để có thể cho cái bóng ấy mượn một tiếng nói cả!

Bà không muốn nói chuyện về người con trai ngày với ông Vũ cũng như Tố Lan, và với Thu Minh thì bà lại càng ít muốn nói hơn. Tuy nghiên, càng suy xét vấn đề, bà càng thấy rắc rối và khó chịu; bà đâm ra lo sợ ngày về của Phan, vì sợ sự trở về này có thể mang lại những nỗi buồn phiền khác. Bà tự bảo có lẽ nên nói việc này với bà Khương, mẹ Liên Chi.

Việc hai bà xa nhau đã kéo dài mãi cho đến nay, và nếu ở nhà quê thì con đường chia cách hai nhà đã rêu phong cỏ mọc. Mặc dầu bà Vũ đã quyết định đến thăm bà Khương, nhưng bà vẫn đi một cách bất đắc dĩ, điều này bà tự thấy khó hiểu với chính mình. Bà ngồi xuống để suy nghĩ và tim hiểu lý do. Bà đã thừa nhận sự tiểu tâm của người bạn già của mình, thì tại sao bà lại cảm thấy xa cách bà ta đến thế?

Điều đó phát sinh do sự khác biệt sâu xa giữa hai người và cuối cùng bà Vũ mới hiểu rằng sở dĩ có như thế là vì tình yêu thái quá của bà Khương đối với chồng bà ta; vì chính bà yêu An-Rê và hai mối tình ấy mặc dầu khác nhau và xa cách nhau như trời với đất, vẫn cùng một bản chất. Hai người đàn bà ấy, người nào cũng biết việc yêu một người khác hơn cả chính mình là như thế nào. Nhưng bà Vũ ghê tởm thấy bà Khương yêu cái con người béo phì và vô tư lự kia đến mực ấy. Yêu theo cái lối thấp hèn ấy là làm nhục đến lòng sung mộ cao cả và tuyệt diệu. Nhưng chân thành mà nói, bà không thể lẩn tránh sự thật; bà Khương và bà cảm nhận cùng một tình cảm, giống nhau về tính chất và cường độ, nhưng ở những tầm mức hoàn toàn khác nhau. Bà Khương đạt đến, và bà không vì thế mà hổ thẹn.

"Ờ, ông già Khương không nên sống dưới cùng một gầm trời với An-Rê". Bà Vũ tự nghĩ một cách tức tối.

Bà ngồi trong thư phòng, nghiền ngẫm những ý nghĩ ấy vào một buổi mai trong sáng. Sau một lúc, bà bật cười to và cũng tự chế nhạo mình. Tại sao lại xung giận tình yêu? Cũng như nắng và mưa, tình yêu xuống với người lành và kẻ dữ, người giàu và kẻ nghèo, người dốt và kẻ thông; bà có thể xung giận điều đó sao?

Tiếng cười vọng lên trong tâm hồn bà. Bà nhắm mắt và thấy An-Rê cười với mình, bà mãi nhìn ngắm khuôn mặt ấy cho đến khi nó mờ dần. Bấy giờ bà mở đôi mắt đã được trở nên thanh khiết và vững vàng. Giang đem đến cho bà chiếc áo dài, giúp bà trang điểm và sai người đến báo tin cho bà Khương biết trước, rồi bà ra đi.

Nhà bà Khương bao giờ cũng hỗn độn, ngày càng đông trẻ con hơn. Từ khi bà Vũ ra về trong buổi thăm viếng cuối cùng đến nay, các nàng dâu và các nàng hầu mỗi người có thêm một hay hai đứa con nữa. Tất cả đều thiếu giáo dục như bao giờ,và cũng sung sướng như vậy. Một con ở gái vui vẻ đưa bà vào sân trong, ở đó, bà Khương ngồi suốt ngày trong một chiếc ghế bành mây, dưới một gốc dương liễu, cạnh một cái bể cạn nhỏ. Chiếc ghế bành thích ứng hoàn toàn theo tấm thân ngày càng phì mập của bà Khương, đến nỗi thành mây bọc chung quanh ôm sít vóc dáng bà. Buổi sáng bà ngồi đấy, và nếu trời không mưa thì bà ngồi mãi đến chiều.

Quanh bà, bọn trẻ nô đùa, la hét và bú sữa các chị Vú. Lũ tớ gái may vá, rửa rau và vút gạo, các chị hàng xóm dừng lại để mách lẻo, các nàng dâu nói chuyện phiếm, những gánh hàng rong đến bán, các bà thế gia đến chơi mạt chược. Khi người ta đưa bà Vũ vào, bà Khương reo lên chào mừng và xin lỗi vì không đứng dậy được. Bà than vãn:

- Tôi lên cân mau quá! Đến nỗi tối đến, tôi thề không nói ngoa là hai chân tôi nặng hơn cả buổi sáng.

Ngoài sân, mọi người bật cười, và một tiếng cười khác trong ngôi nhà chính chứng tỏ ông Khương cũng nghe, nhưng ông không ra mặt. Là đàn ông, ông chỉ có thể ngồi xa xa mà nghe, nhìn, và vừa đọc sách hay ngủ gật

Giữa chỗ đông người như vậy, bà Vũ không thể nói về Phan và Liên Chi như bà mong muốn. Không vội vàng, với vẻ trang nhã thường ngày, bà ngồi xuống chiếc ghế mà một con ở gái vừa đặt bên cạnh bà Khương. Bà Khương biết chắc bạn mình đến với một ý định rõ rệt: bà khoát tay, hét bảo mọi người đi chỗ khác cho hai bà được yên tĩnh. Trong lúc bà Khương truyền lệnh cho từng người, và sau nhiều tiếng xì xào, những cuộc rượt đuổi, hỗn độn, hai bà mới được ngồi lại một mình.

Bấy giờ bà Vũ trao cho bà Khương bức điện tín của Phan. Nhưng bà Khương gạt đi, cười và vui vẻ nói.

- Tôi học được đôi chữ nhưng quên cả đi rồi. Tôi không bao giờ cần đến, và khi có chị bên cạnh thì tôi lại càng ít cần hơn, chị Ái Liên ạ.

Nếu giữa hai người còn có chút ít cách biệt nào, bà Khương không để lộ mảy may. Bà làm như thể bà gặp người bạn già của mình hằng ngày, và như mới gặp hôm qua vậy.

Bà Vũ mỉm cười. Không thể không mỉm cười với người đàn bà này, mặc dầu bà ta có thể gợi cho bà sự ghê tởm.

Bà lớn tiếng đọc hàng chữ của Phan.

"Con trở về ngay"

Bà Khương chăm chú vào mảnh giấy, hỏi:

- Cậu ấy không nói gì thêm nữa à?

- Không, chỉ có thế

Bà Vũ đáp và xếp bức điện tín lại bỏ vào túi áo cụt. Bà cầm lấy chén nước trà để trên bàn, nhưng cái chén bẩn, bà đặt xuống ngay.

- Hẳn là có chuyện gì đã xảy ra. Anh ấy phải ở bên đó đến những năm năm kia mà!

Bà Khương kêu lên:

- Hay cậu ấy đau?

- Có lẽ, nhưng tôi tin rằng nếu có đau ốm gì thì anh ấy đã cho chúng ta biết chứ.

- Chị có tin anh ấy đã làm điều gì xấu chăng?

- Tôi không thể tưởng tượng đến một điều như vậy.

Quả thế, sau khi được An-Rê dạy dỗ, bà Vũ không thể tin rằng Phan có thể phạm một lỗi nặng.

Bà nói:

- Chính vì việc của Liên Chi mà tôi đến gặp chị. Tôi trách mình vì không để cô ấy tiếp tục việc học sau khi vị gia sư mất.

Khi nói những lời ấy, bà quay đầu đi vì bà Khương rất tinh nhạy trong việc phỏng đoán những gì thuộc về đàn ông và đàn bà.

- Chuyện ấy không quan hệ gì đối với Liên Chi, bà Khương vui vẻ nói. Chị Ái Liên! Nó không dám nói với chị, chứ nó ghét các bài học ấy và nó không thích vị giáo sĩ. Nó bảo ông ta chỉ nói về tôn giáo của mình.

Bà Vũ tức giận nói:

- Nhưng thầy đâu có dạy đạo! Tôi đã bảo thầy đừng dạy đạo cho Phan và chắc chắn với Liên Chi thầy cũng không nói lời nào. Thầy biết tôi nghĩ gì về hành động đó.

- Phải, không nói gì về thần thánh- bà Khương nhượng bộ về điểm này – nhưng thầy chỉ nhắc đi nhắc lại mãi những ý nghĩ của nó, các tình cảm của nó, phải như thế nào đối với chồng và đối với tất cả mọi người cùng chung sống với nó trong nhà.

- Đó không phải tôn giáo.

- Tuy nhiên vẫn làm rối trí nó. Nó quả quyết rằng điều đó đã làm nó mất ăn mất ngủ.

- À! Một giáo sư tốt phải làm xao động tâm hồn. Bà Vũ bình tĩnh nói.

Bà Khương vừa ngáp vừa nói:

- Nếu Phan bắt đầu giống như vị giáo sĩ, thì tình chồng vợ sẽ không êm ấm.

Bà ta nhìn quanh, như muốn tìm một cái gì. Bà Vũ nhã nhặn hỏi.

- Chị Mỹ Trinh, chị muốn gì?

- Vào giờ này tôi thường dùng một chén cháo gà nấu với đậu. Tôi cảm thấy đói bụng…

Tất cả lũ trẻ đã bị đuổi đi, lần lượt lại trở về. Trước hết, chúng đến chơi, vì ở nhà bà Khương bọn trẻ muốn gì đều được ngay. Các vú em lật đật chạy theo, dang tay ôm lấy chúng khiến chúng gào thét om sòm. Bà Khương kêu lên:

- Để mặc chúng nó!

Rồi đến lượt lũ nô tỳ hiện ra, chúng bưng cháo thịt hầm đến. Bà Vũ từ chối không ăn, và bà Khương húp từng ngụm lớn. Bà thổi cháo cho nguội và cho lũ trẻ lần lượt húp quanh miệng bát.

Bà Vũ đứng dậy cáo từ. Bà tự bảo có lẽ đó lần thăm viếng cuối cùng của bà, và bà sẽ không bao giờ thấy lại người bạn già của mình nữa.

Tuy nhiên, trong lần thăm viếng này, bà đã biết thêm được một điều, nên bà không hối hận là đã đến. An-Rê đã dạy cho Liên Chi bổn phận của nàng: bà sẽ khám phá ra những điều thầy đã giảng dạy.

Bà Vũ chỉ còn lo chuẩn bị việc sắm dọn để đón mừng Phan hồi hương. Các em bé ở chùa đợi có trường học; Tố Lan và Thu Minh cũng phải chịu khó chờ. Phải sửa soạn cho Liên Chi đón tiếp chồng, đó là việc đầu tiên phải chu toàn.

Chuyện đó không có gì là rắc rối lắm, vì bà Vũ có quyền cho gọi nàng dâu đến. Trong một gia đình bề thế như nhà bà, bà ít khi nói chuyện với Liên Chi. Bà thấy nàng hầu như hàng ngày trong các bữa ăn, trong những ngày tiết lễ, những ngày kỵ giỗ và trong các dịp khác tương tự. Nhưng bà Vũ không có lý do gì để cho gọi người thiếu phụ ấy. Ở trong nhà, Liên Chi có tôi tớ hầu hạ. Nàng thường đến chơi với chị và rất nhàn rỗi, ngoại trừ phải lo trong vài công việc bà Vũ giao phó. Đầu mỗi mùa, nàng phải ghi vào sổ các điều phải cắt đặt sai phái những người làm công, nuôi cá vàng, cắm hoa trong ngôi điện lớn, đem phơi các áo da lông và các áo xa tanh dài của Phan. Trông coi ngôi nhà riêng của nàng với một u già đem từ nhà nàng đến. Một đôi khi Liên Chi đau ốm được chị nàng săn sóc, sau đó Mai trình bà Vũ biết mọi sự đều tốt lành, và bà không còn biết gì về việc ấy nữa.

Bây giờ, bà muốn biết rõ hơn. Không phải chỉ vì quan tâm đến con trai mà bà muốn nghe Liên Chi kể lại những điều An-Rê đã dạy cho nàng. Bà rất muốn bảo nàng lập lại lời của vị giáo sĩ, cũng như muốn biết các lời ấy đã đâm những tia rễ nào vào lòng người thiếu phụ.

Liên Chi đến ăn vận chỉnh tề, tô son điểm phấn và đầu tóc uốn quăn. Bà Vũ tiếp nàng với nụ cười thường lệ, ra hiệu cho nàng ngồi và bảo nàng cứ tự do. Bà quan sát Liên Chi từ đầu đến chân trước khi nói. Liên Chi rất đẹp, nàng biết thế và không chút sợ hãi. Bà mỉm cười trước vẻ mặt vừa mạnh dạn vừa ngây thơ ấy. Vì đôi mắt chẳng ngây thơ là gì đó? Phải, ngây thơ, nhưng cũng tinh quái, vô tư và vui vẻ.

Bà Vũ nói với nàng:

- Mẹ cười vì nhận thấy thời đại thay đổi quá nhiều. Khi mẹ còn là con gái, có lẽ mẹ phát khóc lên khi thấy tóc mẹ quăn. Tóc phải cứng, đen và óng ánh, đó là quan niệm của người đời về tóc đẹp. Nhưng bây giờ, chính những nụ quăn mới đẹp phải thế không con? Chị Mai hẳn phải khoái trá vì tóc chị ấy quăn tự nhiên, nhưng theo mẹ tưởng thì chị ấy thích tóc thẳng hơn.

Liên Chi bật cười, để lộ hàm răng trắng và chiếc lưỡi hồng.

- Con nghĩ là anh Phan hẳn quen nhìn tóc quăn. Đàn bà ngoại quốc đều tóc quăn cả.

- Chao ôi Bà Vũ nói. Bỗng bà có vẻ nghiêm nghị. Con hãy nói cho mẹ rõ, tại sao bao giờ các con cũng ưa thích những cái ngoại lai đến thế?

Liên Chi nũng nịu đáp:

- Không phải thế! Con không ưa vị giáo sĩ già đầy lông lá ấy!

Bà Vũ dịu giọng nói:

- Thầy ấy đâu có già!

- Phần con, con thấy thầy ta già và nhiều lông. Ồ! Con ghét những người nhiều lông làm sao!

Bà Vũ nhận thấy câu chuyện không xứng với cả hai người. Bà tự hỏi phải quở trách nàng cách nào trên một phương diện khác. Bà nói:

- Nhưng thầy ấy đã dặn con nhiều bài học hay. Mẹ tin rằng tất cả những lời dạy dỗ đều đầy lòng nhân ái và mẹ muốn con kể cho mẹ nghe, kể đi con! Khi bà Vũ nói: "Kể đi con!" bà nói bằng một giọng bắt buộc Liên Chi phải vâng lời, dẫu nàng có muốn hay không.

Nàng cau đôi mày dài, thanh thanh, và lấy ngón tay quấn một nụ tóc đen. Nàng nói:

- Con ít khi cố tìm cách nhớ. Thầy ấy không ngớt nhắc đi nhắc lại rằng Phan sinh ra để làm những công việc trọng đại, và con phải góp phần vào đó bằng cách nỗ lực làm cho anh được hạnh phúc, để anh làm việc được hăng hái hơn.

- Con phải làm cách nào?

- Vị giáo sĩ bảo con phải gạt các rơm rác, những mảnh gỗ và những vật ngăn cản dòng nước; con phải cố sức để cho làn nước dâng lên ngang mức độ của nó. Con không nên làm một hòn đá ở giữa dòng suối trong, và phân chia dòng nước ra. Con không nên chi phối đời sống của anh Phan.

Đúng rồi, bà Vũ tự bảo, đó chính là những lời của An-Rê: Hiểu biết lối vận dụng tư tưởng của người thiếu phụ, thầy đã dùng những hình ảnh và những tiếng đơn sơ. Bà dịu dàng nói:

- Con ơi, con cứ tiếp tục đi. Đó là những lời rất hay.

Liên Chi thả nụ tóc ra và đôi mắt nàng trở nên nghĩ ngợi, nàng nói tiếp:

- Thầy cũng bảo con phải đọc những sách mà anh Phan thích, để hiểu các tư tưởng của anh. Thầy nói rằng Phan sẽ cô độc suốt đời, nếu con không theo anh thật sát. Thầy nói, anh Phan cần đến con.

Nàng lại ngước mắt nhìn bà Vũ:

- Nhưng con không chắc anh Phan cần đến con!

Bà Vũ bắt gặp nét nhìn ngây thơ của nàng. Bà hỏi:

- Con có yêu anh ấy không?

Đối với một bà thế gia, hỏi nàng dâu một câu như vậy là một điều hết sức lạ lùng. Vậy ngoài bà Vũ ra, ai có thể có ý nghĩ như thế?

Mắt Liên Chi ngấn lệ, nàng thưa:

- Thưa mẹ, con có thể yêu anh ấy nếu anh ấy yêu con.

- Anh không yêu con sao?

Liên Chi lắc đầu rất mạnh, đến nỗi nước mắt rơi thành nhiều giọt trên làn áo gấm xanh nhạt của nàng.

- Không, nàng lẩm bẩm. Anh Phan không yêu con!

Khi nói thế, nàng cúi đầu, giấu mặt vào hai tay nức nở. Bà Vũ đợi. Bà biết khi một người đàn bà đau khổ, không có gì giá trị bằng nước mắt. Biết bao lần bà ước ao khóc mà không khóc được.

Đợi những tiếng nức nở của Liên Chi dịu xuống, bà nói:

- À! Phan không yêu ai hết. Đó là một tật xấu của nó. Ta phải chữa lành tật xấu ấy. Mẹ sẽ giúp con, con ạ.

Câu nói ấy vắn tắt và đơn sơ, nhưng trong nhà này bà Vũ rất được mọi người tín nhiệm, đến nỗi Liên Chi cất tay khỏi mặt và mỉm cười, hai hàng mi còn ướt lệ.

- Ôi, mẹ! Con xin cám ơn mẹ, con cám ơn mẹ lắm!

Phan trở về trước mùa đông, nhưng sau những ngày nắng ấm cuối cùng của mùa thu. Mùa màng đã gặt hái xong và cất vào kho lẩm.

Gia đình họ Vũ cùng thành phố, và những làng mạc, ở đó thiên hạ làm ruộng như tổ tiên xưa, đang sống bình an trong một nước mà miền Đông đang có chiến tranh dữ dội. Ở các nơi khác, người ta thấy những ngôi nhà bị phá hủy, những gia đình bị đánh đuổi tan tác, những cánh đồng bỏ hoang. Nhưng nơi đây, ở nội địa, nhà họ Vũ vẫn tồn tại.

Bà Vũ chờ đợi con trai bà. Sau khi chào bà, những lời đầu tiên của anh có liên quan đến sự bình an ấy. Anh đảo mắt nhìn quanh, ngạc nhiên thấy trong mỗi phòng mọi vật vẫn y nguyên.

- Ồ! Không có gì thay đổi cả!

Bà Vũ tiếp:

- Tại sao chúng ta lại thay đổi?

Và trong lúc nói những lời ấy, bà cảm thấy mình không nói sự thật. Có một sự thay đổi lớn trong chính bà, sự thay đổi bên trong ấy hằng ngày phô diễn bằng lời nói và việc làm, bằng cách bà hướng dẫn những ai đến tìm ở bà những lời bàn bạc, một nơi nương ẩn, những sự chăm nom. Nhưng bà không muốn đả động gì đến việc ấy. Bà chỉ nói:

- Con có phần thay đổi con ạ!

Bà mặc áo xa tanh màu nguyệt bạch, ngồi một cách trang trọng trong thư phòng. Bà thích tiếp Phan trong gian phòng lớn, nơi mà An-Rê và bà đã cùng nhau hội kiến biết bao lần. Bà không nói gì về vị giáo sĩ, nhưng các hoài niệm sẽ nói thay. Vì thế, khi các nỗi hoan hỉ về cuộc trùng phùng vừa chấm dứt, ở ngoài cổng, tiếng pháo và tiếng rộn ràng của đám đông hơi lặng xuống, khi chỉ còn lại bữa yến tiệc nghi lễ, bà cho người bảo Phan biết là bà đang đợi chàng.

Không đợi bà mời, Phan ngồi xuống ghế. Chàng đã cởi âu phục và mặc một chiếc áo dài. Chàng cũng đã thay thế đôi giày tây bằng giầy nhung đen. Không ai nói với chàng về Thế cả, vì kể chuyện người chết với một người còn sống vừa ở xa về là một điềm gở, nhưng Phan mở đầu:

- Con không thấy anh hai đâu cả.

Bà Vũ kín đáo lau đôi mắt. Khi Thế còn sống, trong những ngày anh vắng mặt, bà không thấy thiếu thống bao nhiêu, nhưng bây giờ bà thương tiếc anh lắm, và thường tưởng nghĩ về anh luôn. Bà không thương tiếc những điều bà đã biết về anh bằng những điều còn ẩn khuất. Bà trách mình đã nuôi con khôn lớn mà chẳng khám phá ra chân tính của nó như thế nào. Bà biết anh như biết một đứa con trai do thể xác bà sinh ra, nhưng bà không bao giờ hiểu anh thực sự.

Bà thường nhủ thầm:

- Tôi không biết những giá trị tiềm tàng của nó, và tôi sẽ không bao giờ biết nó.

Sau đó, Phan nói:

- Chị hai của con ra sao?

Bà Vũ đáp:

- Tố Lan không nói gì hết. Khi nào rỗi rảnh, mẹ sẽ tìm cho chị ấy một cách sống thích hợp. Nó còn trẻ quá, không thể trở thành bà vãi.

- Chị ấy sẽ không tái giá chứ?

- Nếu nó muốn, mẹ sẽ giúp.

Phan rất lấy làm ngạc nhiên về câu trả lời ấy. Không bao giờ chàng tin được, rằng mẹ chàng có thể đặt người đàn bà lên trên gia đình.

Thấy vẻ ngạc nhiên của con, bà Vũ dịu dàng tiếp:

- Càng thêm tuổi, mẹ càng hiểu biết thêm. Cuộc đời sẽ là khổ ải, nếu dòng suối nội tâm không được trong sạch. Và bây giờ mẹ biết có một món nợ đối với tất cả mọi người, là: mỗi người đều có quyền đạt đến hạnh phúc riêng của mình.

- Đó là điều mà thầy An-Rê đã nói.

Khi nghe những lời ấy, hai mẹ con cảm thấy gần nhau lại bởi một sức mạnh hay một sự hiện diện vô hình.

Phan hỏi mẹ:

- Thưa mẹ, mẹ còn nhớ thầy An-Rê không?

Bà Vũ do dự. Bà phải nói gì nhỉ? Có thể tiến đến đâu? Vì khôn ngoan, bà dằn lòng không nói. Không nên phá tan hoàn toàn sự thinh lặng giữa các thế hệ. Chính sự sống đã tạo nên các sự khác biệt ấy, và ngay thời gian cũng đã buông cái màn ấy xuống. Việc thay đổi trật tự muôn đời không thuộc quyền bà. Bà và An-Rê đứng về một bên, còn Phan ở bên kia.

- Mẹ còn nhớ thầy!

Nếu Phan cảm thấy cái gì phân biệt hai người, chàng không nói ra.

- Thưa mẹ, thầy đã cảm hóa con. Phan thì thầm, mắt nhìn chiếc ghế rỗng. Thầy đã làm cho con hiểu niềm hạnh phúc thật sự, thầy đã khai tâm cho con và vì thế con mới trở về.

Bà Vũ không đáp. Bà nghe giọng nói run run của con và hiểu rằng một câu trả lời của bà sẽ làm cho anh vô cùng xúc động. Bà mỉm cười bằng nụ cười ngọt ngào, hai tay giao trên gối, chờ đợi và tỏ vẻ sẵn sàng lắng nghe.

- Không ai hiểu được tại sao con trở về bất ngờ như thế này. Người ta sẽ hỏi con và con sẽ không thể trả lời được. Nhưng thưa mẹ, con muốn cho mẹ biết, vì chính mẹ đã đem thầy An-Rê vào nhà này.

Anh ngửng đầu và hối hả nói cho mau xong:

- Thưa mẹ, con trở về vì con bắt đầu yêu một cô gái ngoại quốc, cô ta cũng yêu con và chúng con đành phải xa nhau.

Trước kia, có lẽ bà Vũ đã la lên vì tức giận. Nhưng bây giờ bà dịu dàng đáp:

- Khổ cho con tôi!

Phải, bà biết nỗi đau khổ ấy.

- Vậy mẹ hiểu con ư?

Phan sửng sốt, vì tuổi già đã làm tuổi trẻ ngạc nhiên.

Phan lớn thêm nhiều. Người anh thanh mảnh và thẳng băng, giống như ông cụ Cố. Lần đầu tiên, bà Vũ thấy Phan không một chút giống cha, nhưng rất giống ông nội. Cũng những đường nét nghiêm nghị ấy, cũng một vẻ đạo mạo ấy chiếu sáng trong đôi mắt. Anh đẹp trai, trang trọng. Người ta không tìm thấy trong anh vẻ đẹp trầm tĩnh của Lãng và cái đẹp mạnh dạn của Thế. Phan giống một nhà bác học trẻ tuổi.

Bà Vũ lại nói:

- Thêm tuổi, mẹ càng thêm hiểu biết.

- Mẹ!

Phan thở ra:

- Con tự hỏi, liệu trong nhà này con có thể tìm được người nào hiểu con không!

Bây giờ đã tín nhiệm bà, Phan kể lại tất cả chuyện mình:

- Cô ấy cũng là sinh viên như con. Bên ấy, đàn ông và đàn bà cùng làm việc với nhau. Nàng tò mò và kinh ngạc vô cùng. Nàng tìm đến con. Ôi! Thưa mẹ, mẹ biết không phải là nàng táo bạo, nhưng nàng quyết rằng chưa bao giờ gặp người nào như con. Nàng hỏi con vô số câu hỏi về chúng ta, quê hương chúng ta, và con nói với nàng tất cả, cả về con nữa. Nàng kể đời nàng cho con nghe. Chúng con hiểu nhau rất rõ – và rất mau.

Bà Vũ dịu dàng:

- Và rốt cuộc, con đã phải nói với nàng về Liên Chi.

Một cái bóng lướt qua giữa anh và mặt trời. Hai vai anh rũ xuống, anh quay đầu:

- Con đã phải nói điều đó với nàng, và sau đó con phải ra đi.

Cũng cùng một giọng ấy, bà Vũ tiếp:

- Để đặt đại dương giữa các con.

- Để đặt tất cả giữa hai chúng con.

Bà vẫn giữ vẻ thản nhiên như thường nhật. An-Rê đã làm cho tâm hồn con trai bà trở nên phong phú, đã làm cho anh rất mực tế nhị và mau lẹ hướng thiện. Đàn bà không mang lại hạnh phúc cho anh, cũng không mang lại gì cho thể xác anh. Khi bà Vũ xin thầy An-Rê dạy anh, bà đã hành động một cách mù quáng, bà không thấy xa. Bà đã đụng đến một ổ khóa, quay chìa khóa một vòng và kìa, một cửa lớn mở ra, con bà bước qua để đến một thế giới mới lạ.

Phải chăng anh đã vặn khóa và cài then cửa lại để trở về nhà.

- Vậy, bây giờ con định sẽ làm gì, con?

- Con đã trở về. Con sẽ không đi nữa. Bằng mọi cách, con sẽ xây dựng đời con ở đây.

Họ vẫn ngồi thinh lặng, một sự thinh lặng triền miên của những tâm hồn hiểu nhau.

Bà nói với Phan:

- Con phải giúp đỡ Liên Chi con ạ!

- Vâng, con biết. Con đã suy nghĩ nhiều về nàng. Con nhớ nàng nhiều lắm.

- Con phải nhờ nó giúp đỡ các việc nhỏ nhặt, chăm nom đồ đạc, sắp đặt sách vở, pha trà nước. Con ạ! Con không nên tự mình làm cái gì, khi nó có thể làm thay, để cho nó có việc làm, không đi tìm đâu xa hơn.

- Con xin hứa với mẹ điều ấy.

Cả hai người còn ngồi như vậy rất lâu, vì được ngồi cùng nhau, cả hai mẹ con đều cảm thấy rất nhiều an ủi, nếu Thu Minh không chọn lúc này để nài xin bà Vũ một điều mà nàng đã tính từ trước.

Trong những tháng trời đằng đẵng ấy, Thu Minh đã sống với Tố Lan, lắng nghe những chuyện buồn bã của người góa phụ trẻ và tình yêu của nàng đối với người đã chết. Nàng càng lắng nghe, tư tưởng nàng càng hướng về Phan, và nàng thấy cần phải bỏ nhà ra đi với đứa con gái của mình. Nhưng đi đâu?

Một đêm kia, Tố Lan không ngủ được, nàng đã nói chuyện với Thu Minh rất lâu về những điều lắng đọng ở chỗ sâu kín nhất của tâm hồn. Thu Minh không thể giữ được, và thú thật nàng đã yêu Phan.

Nàng nói:

- Tôi là một người đàn bà xấu xa. Tôi đã để mình mơ tưởng đến chàng.

Tố Lan lắng nghe sốt sắng. Nàng lắc đầu hất mái tóc xõa ra đằng sau và kêu lên:

- Ôi chao! Tôi mong sao chúng ta có thể cùng nhau ra khỏi ngôi nhà này. Chúng ta bị giam hãm sau bức tường cao này. Người trong nhà dọa dẫm lẫn nhau. Chúng ta yêu những cái không nên yêu và ghét những điều không nên ghét. Chúng ta quá chèn ép nhau, khi yêu cũng như khi ghét.

- Nhưng ở đây chúng ta không được vững an sao?

Nàng vẫn e dè trước Tố Lan. Nàng khen ngợi cô ta, nhưng vẫn e ngại sự táo bạo của cô. Tố Lan nói:

- Không được vững an giữa người này với người kia.

Chính lúc ấy, một tư tưởng cùng đến với cả hai người. Họ nhìn nhau, mắt trong mắt. Tố Lan hỏi:

- Tại sao chúng ta lại ở đây?

- Sao chúng ta dám ra đi?

Và họ bắt đầu âm mưu sắp đặt. Có lẽ Thu Minh là người trước tiên được phép đến ở lại làng quê nhà họ Vũ. Nàng không thể trở về làng cũ, vì người ta sẽ cho rằng nàng đã bị nhà họ Vũ đuổi đi. Vả lại, ngay bà Vũ cũng không muốn thế.Vậy Thu Minh phải xin, và nếu bà Vũ có bảo rằng một người đàn bà trẻ không nên ở một mình tại làng quê, thì bấy giờ nàng sẽ xin Tố Lan theo. Còn về phần Tố Lan, nàng sẽ chỉ có việc thưa rằng, nàng muốn lập một trường học ở trong làng cho các trẻ em, một công việc tốt đẹp cho đời góa bụa. Sau nhiều lần bàn thảo, họ đã đi đến kết luận ấy, Tố Lan trình ngay cho mẹ chồng biết, nhưng Thu Minh tỏ cho nàng thấy sự kém nhã nhặn của lối vận động ấy. Vì, nếu bà Vũ không đồng ý, bà sẽ rất cực lòng phải từ chối nàng dâu. Tốt hơn là để Thu Minh ngỏ lời trước, và nếu có bị từ chối, nàng sẽ gánh lấy một mình, tránh được sự va chạm giữa mẹ chồng và nàng dâu.

Tố Lan cho như vậy là lỗi thời, nhưng Thu Minh chỉ thấy đó là vấn đề lễ độ, vì thế cả hai đã quyết định.

Thu Minh biết rõ Phan đang ở đâu, nhưng nàng đã quyết đến tìm bà Vũ trong khi có mặt anh ở đó, và chỉ nói chuyện với chàng trước sự hiện diện của bà. Nàng đã mặc cho con nàng một chiếc áo đỏ sạch sẽ, điểm một chấm son giữa đôi mày, tết tóc và thắt vải đỏ mới tinh ở hai đầu đuôi sam, rồi đến mà không báo trước. Con nàng nay đã là một em bé gái bụ bẫm xinh đẹp.

Bà Vũ quay nhìn ra cửa và trông thấy Thu Minh. Trời đã xế chiều; Phan trở về vào buổi sáng hôm ấy. Mặt trời đã khuất khỏi sân. Mảnh sân còn ngập tràn một thứ ánh sáng êm dịu, và ở giữa thứ ánh sáng ấy, Thu Minh ôm con trong tay. Nàng có vẻ xinh đẹp, điều ấy làm bà Vũ sửng sốt. Tình yêu của Thu Minh rất kín đáo và không san sẻ, đã làm cho nàng trở nên dịu dàng và sống động. Bà Vũ nhìn trộm Phan và tự hỏi anh nghĩ gì về điều ấy. Nhưng anh không chú ý gì đến điều ấy cả. Thu Minh chào Phan một cách thận trọng:

- À, kìa cậu ba. Cậu đã trở về.

Phan đáp cách đơn giản:

- Dạ, dì mạnh giỏi không ạ?

- Cám ơn, tôi vẫn mạnh.

Nàng chỉ nhìn Phan một lần và quay sang bà Vũ:

- Thưa bà, xin bà ban cho tôi một ân huệ, ngay bây giờ, và xin bà tha lỗi vì tôi đã quấy rầy bà.

Bà Vũ hiểu Thu Minh đến vào giờ này hẳn phải có chủ đích, nên bà lắc đầu nói:

- Cô hãy ngồi, hãy để đứa bé đứng xuống.

Thu Minh vâng lời và mặt đỏ bừng. Nàng ngỏ lời xin và bà Vũ lắng nghe. Bà nói:

- Rất tốt. Rất tốt.

Bà liền hiểu ý định của Thu Minh. Thu Minh đến đây là để tỏ cho bà Vũ biết nàng muốn rời khỏi nhà vì Phan đã trở về. Vậy là nàng muốn tránh tất cả nguyên nhân gây nên sự hỗn độn trong gia đình. Bà Vũ bằng lòng về thiện ý ấy của nàng.

Khi Thu Minh đã được bà Vũ chấp thuận cho đi, nàng liền xin hộ cho Tố Lan:

- Thưa bà, vì kỳ tang khó của gia đình đã mãn và nỗi tang phiền của Tố Lan sẽ không bao giờ dứt, nên cô ấy muốn làm nhẹ bớt những phiền muộn của mình bằng một việc thiện. Cô ấy muốn mở một ngôi trường dạy trẻ con.

Nghe vậy, Phan đang chăm chú nhìn dưới đất, bỗng ngước mắt lên, ngạc nhiên. Anh nói:

- Chính đó là điều con định làm khi con trở về.

Hỗn độn làm sao! Thu Minh hoảng sợ và bà Vũ rất bối rối.

Bà nói, giọng bà lanh lảnh và sắc bén:

- Con ơi! Sao con không nói gì cho mẹ biết cả?

Phan thưa:

- Con chưa đề cập đến vấn đề ấy. Sau đây, con phải tìm một việc gì đó để làm.

Bà đưa tay lên:

- Con hãy đợi.

Rồi quay sang Thu Minh, bà thân mật hỏi:

- Cô có yêu cầu gì nữa không?

- Thưa không ạ.

- Vậy thì cô và Tố Lan được phép rời khỏi nhà. Vài hôm nữa tôi sẽ bảo anh quản lý tìm cho cô một chỗ để ở và mở trường. Sau đó, khi nào muốn, cô sẽ dọn đến đấy. Nhưng cô sẽ cần những đồ đạc tốt hơn những thứ người ta dùng ở nông trại, và cần nhiều đồ vật khác nữa. Cô hãy nghĩ xem cô cần những thứ gì, và tôi sẽ bảo Giang nó cung cấp cho cô. Rồi còn phải tìm hai đứa ở gái và một người làm bếp. Anh đầu bếp có thể cho cô một trong các người giúp việc của anh ta.

Phan xen vào:

- Đã ở nông thôn thì không nên có một lối sống cao hơn các người khác quá. Nếu không, ta sẽ bị cô lập.

Thu Minh liếc nhanh nhìn anh mà không nói gì. Nàng ngạc nhiên thấy anh nhận xét như thế. Anh là người suốt đời sống trong một gia đình giàu sang, sao anh biết được lòng dạ của những người nghèo? Đoạn nàng gạt ngang câu hỏi ấy. Nàng không nên tự hỏi về anh.

Nàng đứng dậy, bồng con, cám ơn bà Vũ và rút lui ra.

Tố Lan đợi nàng. Khi biết rõ kết quả, cả hai liền hăm hở phác họa cuộc sống mới, với một niềm hân hoan mà hôm qua đây họ tưởng sẽ không có được.

Trong gian phòng Thu Minh vừa rời gót, bà Vũ nói chuyện với con bà.

- Con hãy giải thích cho mẹ biết những điều hiện có trong lòng con.

Phan đứng dậy, lòng xao xuyến. Anh tiến đến cửa và nhìn ra ngoài. Hoàng hôn yên lặng đang ngự trị giữa các bức tường này. Thời tiết kế tiếp đổi thay ở đây cũng như ở trên toàn thế giới.

- Con phải hiến thân cho một công cuộc. Điều đó, thầy An-Rê đã dạy cho con. Nếu không việc này thì việc khác. Sau khi con rời khỏi đây, con sẽ tìm cách để tự hiến. Tôn giáo không thuộc phạm vi của con, mẹ ạ. Con không phải là giáo sĩ. Sự giáo dục của thầy An-Rê đã dẫn dắt con trong giới hạn những điều một người có thể thực hiện được, nhưng không quá giới hạn.

- Tốt lắm con ạ!

Bà Vũ nói và chờ đợi.

Anh lại ngồi xuống, nói tiếp:

- Con đã tìm được hướng đi của con một cách tình cờ…

Phan lôi ra khỏi túi cái điếu ngắn ngoại quốc. Bà Vũ chưa bao giờ có dịp thấy một cái giống như thế, nhưng bà tránh ngắt lời con vì sự tò mò của mình.

Trong thành phố con ở bên kia, có một người đồng bào ta làm nghề thợ giặt, thỉnh thoảng con đem đồ giặt đến cho anh ấy.

Bà Vũ có vẻ ngạc nhiên:

- Anh ta cũng giặt quần áo cho các người khác sao?

- Cho rất nhiều người nữa. Đó là nghề của anh ta.

Bà Vũ tức giận:

- Vậy anh ta cũng giặt quần áo cho các người ngoại quốc à?

Phan bật cười:

- Thì cũng phải có người giặt cho họ chứ.

Nhưng bà Vũ không cười. Bà nói:

- Người nước ta không bao giờ nên giặt quần áo bẩn của người ngoại quốc.

Bà bực tức và không nghĩ gì đến những điều Phan nói với bà nữa.

Anh cố làm dịu lòng bà.

- Vâng… vâng…

Rồi anh tiếp:

- Anh ấy không phải người tỉnh ta, mà là người miền Nam. Một hôm con đi lấy đồ giặt…

- Con đi lấy đồ giặt! Vậy con không có đầy tớ sao?

- Không mẹ ạ. Bên ấy không ai trong chúng con có đầy tớ cả.

Bà lại nén tính tò mò xuống.

- Mẹ thấy đó là một nước kỳ lạ, khi nào rảnh con phải kể cho mẹ rõ nhiều hơn nữa. Bây giờ, con hãy tiếp tục…

- Hôm ấy con đi lấy đồ giặt, anh ta đưa cho con một lá thư bên nhà gửi sang. Thưa mẹ, anh ta xa quê nhà đã hai mươi năm. Anh ta không biết đọc, cũng không biết viết. Con đọc giúp lá thư và trả lời hộ anh ta. Anh kể cho con nghe trong làng anh ta không ai biết chữ cả, họ phải lên trên phố kiếm người viết thuê. Trước đó, con chưa từng biết cái hoàn cảnh đáng thương ấy của đồng bào ta. Anh ấy là một người tử tế. Mẹ ạ! Anh ta không ngu dại mà còn có thể nói được là thông minh. Anh nói với con rằng: "ước gì tôi có thể đọc và viết được, thực tôi chẳng khác một người mù". Con trở về phòng và nhìn qua cửa sổ những tòa nhà đồ sộ của học đường và hàng ngàn sinh viên vào, ra, học được biết bao điều. Rồi con nghĩ đến con người đáng thương kia không đủ sức đọc những lá thư nhà. Con nhớ lại, các làng mạc chúng ta đều lâm vào tình trạng như thế, những người sống trên đất đai của chúng ta không có ai biết chữ cả.

Bà Vũ nói:

- Nhưng cần gì. Họ không có cao vọng, họ bằng lòng với việc cày cấy.

- Kìa, mẹ! Mẹ! Biết đọc là đốt lên một ngọn đèn trong tâm trí, giải thoát linh hồn khỏi tù ngục, mở một cánh cửa nhìn ra vũ trụ bao la.

Những tiếng ấy lọt vào tai bà Vũ, làm cho lòng bà tê tái.

Bà nói:

- Chao ôi! Đó là những lời người đã dạy con.

- Con không quên những lời ấy.

Như vậy, làm sao có thể cầm giữ Phan, làm sao nói với anh không nên đi ở đâu, ngoài gia đình?

Phan sốt sắng nói:

- Chị Tố Lan sẽ có thể giúp con được nhiều việc, thế mà con không nghĩ đến chị ấy. Liên Chi cũng sẽ giúp đỡ con, và chúng con sẽ không nghĩ đến bản thân chúng con nữa.

Anh lại đứng dậy:-

Mẹ ạ! Mẹ biết, nếu con thành công ở đây thì công việc có thể lan rộng khắp nơi. Bấy giờ công việc sẽ tốt đẹp và vĩ đại làm sao…

Bà Vũ thấy khuôn mặt trẻ và gầy, ánh lên một tia sáng giống thứ ánh sáng chiếu rọi muôn đời trong nét nhìn của An-Rê. Bà không muốn tắt tia sáng ấy đi.

- Con ơi, con hãy làm những gì con xét là tốt.

Bà trả lời anh như thế. Phải, đó là tiếng nói của bà.

Bà Vũ nằm trên giường, độ rày bà thường tỉnh thức như vậy luôn. Những lần mất ngủ ấy không làm bà lo lắng, cũng không làm bà tức bực. Những người trẻ tuổi phải ngủ, vì họ còn phải làm việc và vì cuộc sống của họ còn lâu dài, nhưng những người già cả không mảy may cần đến giấc ngủ. Thể xác biết rằng giấc ngủ ngàn thu không còn xa, nên có sức bao nhiêu thì tỉnh thức bấy nhiêu.

Bà Vũ có cảm tưởng ban đêm nhà bà sống hoàn toàn khác ban ngày. Bà để tâm trí vẩn vơ từ sân này đến sân khác. Những người trẻ tuổi, bà con hai ba đời, đi ngang qua, ghé tạt vào ở lại, vì không có chỗ trú chân. Bà Vũ thận trọng để không chú ý đến ngôi nhà mà Lài đang sống với ông Vũ. Bà biết đời sống họ, bà không phán đoán gì mà chỉ cảm thấy ngã lòng nản chí. Thân xác ông già vẫn tiếp tục sống, được cung phụng đầy đủ, ăn uống no say, còn người đàn bà trẻ béo mập ra, biếng nhác và ngày cũng như đêm, luôn luôn có vẻ ngái ngủ. Lài không tạo ra điều gì khó chịu cả. Nàng son trẻ. Nàng không có thai, điều này làm bà Vũ khá thỏa mãn. Dòng máu của Lài là một dòng máu hoang, dòng máu ấy chỉ có giá trị khi nó ở trong các đường mạch. Nàng làm việc bổn phận với ông Vũ, và vì trước kia đã nếm nhiều khoái lạc, nàng sung sướng được làm hài lòng các ông già đã cho nàng các đồ nữ trang, các thứ hàng lụa, những cao lương mỹ vị, chòng ghẹo và vuốt ve mơn trớ nàng. Suốt đời, Lài chỉ là một đóa hoa hoang dại, mặc cho mưa gió dập vùi. Bây giờ nàng sung sướng nghĩ rằng, sau những bức tường cao lớn này, sẽ không còn có ngọn gió nào lọt đến nàng nữa. Cho dù ông Vũ có chết đi, nàng vẫn tiếp tục sống vững an trong ngôi nhà này. Suốt đời, nàng không còn phải lo sợ gì nữa.

Về phần ông Vũ, nàng hầu của ông bây giờ hoàn thành cái công việc mà mẹ ông đã khởi sự trong buổi thiếu thời của ông. Tất cả những gì bà Vũ ghi vào trí ông, bây giờ đã tắt ngúm, như một ngọn đèn lu mờ khi không còn được nuôi dưỡng. Ông đã trở nên thô kệch và nặng nề. Ăn quá độ, uống quá độ nhưng luôn có Lài bên cạnh. Ông không đi chơi thanh lâu nữa, vì Lài đã cống hiến cho ông tất cả mọi khoái lạc tinh luyện. Ông cũng không giao du với bạn bè là điều trước kia rất cần thiết cho ông, họa hoằn ông mới đến các trà đình để nghe tin tức và phiếm luận về những việc xảy ra trong thành. Lài kể cho ông nghe tất cả những chuyện ấy mà nàng biết được nhờ lũ nô tỳ.

Trong ngôi nhà riêng của họ, họ sống một cuộc đời dâm đãng, đùa rỡn, say sưa và hạnh phúc. Hai cái bị thịt ấy bằng lòng với số phận của mình. Chỉ họa hoằn người ta mới nhắc đến tên ông Vũ trong chính nhà của ông ta, thỉnh thoảng một tên đầy tớ thì thầm chuyện ông cùng đứa khác một cách ranh mãnh, chỉ có thế.

Nhờ tài phỏng đoán, bà Vũ biết được tất cả những điều ấy, và bà không bao giờ bước đến cái sân trước kia là nơi bà ở.

Về phần Lài, nàng không bao giờ đến nhà bà Vũ. Cả hai người sống cách biệt như trước khi Lài chưa đến.

Trong khi nằm dưới những lần chăn lụa và suy nghĩ như vậy, bà Vũ tự hỏi, liệu bà có khỏi lỗi phạm đến đạo vợ chồng của bà không? Vậy có điều gì bà có thể làm mà bà đã xao lãng? Bà hỏi An-Rê câu ấy, và lần này bà không tìm gặp một câu trả lời nào có sẵn trong kỷ niệm của bà. Nhưng khuôn mặt ông cụ có thể hiện rõ ràng trên nền nhung sẫm của tâm tư bà; vẫn như bao giờ, không già hơn không trẻ hơn. Mặt cụ luôn luôn gầy, làn da vàng, căng thẳng, liền lặn trên bộ xương mai đẹp đẽ của cụ. Vừng trán của cụ ngay chính bây giờ hẳn phải là một vật đẹp đẽ ở dưới mồ, các đường nét được thời gian làm cho thanh khiết và trác luyện.

"Con sợ con đã không xử trí cho phải đạo với người con trai của cụ", bà thầm nói cách buồn rầu.

Trong khi chiêm ngắm khuôn mặt già nua hiền từ và hòa nhã ấy, bà nghĩ rằng, nếu đến tuổi bốn mươi bà không sống tách biệt khỏi ông Vũ, có lẽ ông ta sẽ không sa ngã xuống vực sâu như ngày nay. Nhưng tự đáy sâu của các kỷ niệm thời xuân trẻ, bà khám phá ra câu trả lời của ông cụ Cố.

Bà nhớ rõ ngày hôm ấy, cụ cho người tìm bà đến, và khi bà đi vào, bà thấy cụ để ngón ta ngăn sẵn giữa quyển sách. Cụ chỉ cho bà đọc những dòng chữ sau đây:

"Nâng một tâm hồn lên cao hơn mức độ tự nhiên của nó là một hành động nguy hiểm. Tâm hồn của người ta cũng giống như ngọn nước, đều có mức độ tự nhiên, nếu bắt chúng vượt quá mức độ ấy là một hành động trái với thiên nhiên, và do đó sẽ rất nguy hiểm. Vì khi tâm hồn thấy mình bị cưỡng ép, nó liền cố tìm lại được mức độ riêng của mình, và nó bị chia xẻ vì sự giằng co giữa hai chiều cao thấp khác nhau; như thế cũng nguy hiểm lắm. Sự không ngoan thực, là cân nhắc, đo dung lượng một tâm hồn, và để nó sống ở chỗ riêng của nó".

Bấy giờ, đôi mắt bà Vũ và ông cụ Cố gặp nhau như bây giờ họ đang nhìn nhau ngang qua bao nhiêu năm trời đằng đẵng. Kể từ ngày ông cụ Cố mệnh chung.

"Nếu con không tách khỏi chồng con…" Bà suy nghĩ một lát, nhưng không thể đi xa hơn. Điều bà đã làm không thể tránh được. Trong bao nhiêu năm bà đã khép mình vào bổn phận, và biết bao năm tâm hồn bà đã chờ đợi, hẳn nhiên là nó lớn lên một cách chậm rãi, vì phải chu toàn việc bổn phận, nhưng mặc đầu hoàn cảnh nô lệ, vẫn được phát triển thêm và hy vọng một sự giải thoát.

Bây giờ thật là lạ lùng! Giữa ban đêm, trong lúc cả nhà đang an nghỉ, bốn bề im phăng phắc, bà lo lắng nghĩ đến Lãng, người con trai trưởng của bà. Tại sao bà lại làm khổ mình vì anh là người được bằng lòng nhất trong tất cả các con? Bà phải tìm hiểu cả chính anh ấy nữa, khi nào có thể.

Bà không nghĩ đến những gì xảy ra trong nhà Phan. Chàng là một người đứng đắn. Chàng tự khép mình vào kỷ luật đến một mức độ rất cao mà một người vừa qua tuổi dậy thì có thể đạt đến. Chàng không dung túng tâm hồn mình đi vào giấc ngủ như một con thuyền trống trên mặt bể có ánh trăng soi.

Phan nói với vợ:

- Bây giờ đến các sách Anh văn.

Liên Chi chạy đến thùng sách lấy ra. Có hai ôm đầy.

- Anh có ngần này thôi à?

- Đó chỉ là những quyển sách hay nhất, anh nói vẻ hững hờ. Còn các thùng khác nữa, cũng sắp về.

Phan quỳ trước hàng kệ đóng trên tường, và dần dà sắp số sách Liên Chi mang đến. Bên ngoài có vẻ bình lặng, tươi cười, nhưng bên trong chàng bị dằn vặt xâu xé, bởi một sự xúc động mãnh liệt và một niềm sầu khổ sâu xa. Chàng tưởng như chàng sẽ không bao giờ có thể ngủ được, và chàng hối hả sắp dọn đồ đạc đâu vào đấy, cất khuất các hòm rương để không còn nhìn thấy nữa.

Liên Chi hỏi chồng:

- Anh phải sắp dọn đồ đạc cho xong chiều nay sao?

- Ừ, phải cho xong. Anh muốn yên trí rằng mình đã trở về nhà thực sự.

- Nàng sung sướng vì những lời nói ấy. Còn trẻ quá, nàng không thể tự hỏi tại sao chàng lại nói những lời nói ấy mà không nhìn nàng. Sự thật, khi nói như vậy, Phan thấy trước chàng một khuôn mặt khác hẳn khuôn mặt vợ mình. Chàng thấy khuôn mặt Margaret, đôi mắt xanh màu trời, áng tóc hung hung và làn da trắng ngần, rất dịu dàng, đến nỗi anh không bao giờ quên được làn da êm mát ấy. Có khi nào chàng sẽ hối tiếc điều mình đã làm ngày hôm ấy ở bên kia đại dương, trong rừng không? Vì vừa khi chàng ôm lấy Margaret trong tay, chàng đã phải buộc mình buông nàng ra.

Chàng đã nói:

- Phải dứt khoát cắt đứt.

Nàng không trả lời. Nàng vẫn đứng, đôi mắt xanh chăm chú nhìn chàng… Có cái gì kỳ quặc và lạ lùng trong đôi mắt xanh. Chúng không thể giấu những gì ở đằng sau. Những cặp mắt đen là những bức màn buông rủ, còn mắt xanh là những cánh cửa sổ mở rộng.

Phan đã tàn nhẫn nói với nàng:

- Tôi đã có vợ. Vợ tôi đang chờ đợi tôi ở nhà.

Nàng có biết chút ít về việc cưới vợ lấy chồng ở Trung Hoa, nên nàng hỏi:

- Người ấy do anh chọn lựa hay gia đình đã sắp đặt tất cả?

Trước khi trả lời, chàng im lặng một lúc. Họ cùng ngồi dưới một gốc thông. Hai tay Phan ôm gối và úp trán trên hai đầu gối xếp, suy nghĩ tìm sự thực. Chàng có thể nói một cách dễ dàng và có phần đúng rằng:

"Tôi không chọn cô ta"

Nhưng lúc chàng toan nói những lời ấy, thì những kỷ niệm của thầy An-Rê lại trở về trong trí chàng:

"Nói láo là một trọng tội, nhưng đó không phải là một tội với Thiên Chúa bằng đối với lương tâm mình. Tất cả những gì xây dựng trên sự nói dối đều sụp đổ, không phỉnh phờ được ai cũng như người đã nói lời ấy".

Và Phan đã không dám nói dối Margaret, vì sợ một ngày kia mối tình của hai người sẽ phải sụp đổ, và tình yêu ấy bị chôn vùi dưới những lời oán trách.

- Tôi không bị ép buộc lấy vợ, chàng đã nói. Hãy cho rằng tôi đã lựa chọn.

Sau những lời ấy, nàng lẳng lặng ngồi nghe, còn Phan thì tìm cách giải thích cho nàng hiểu ý nghĩa của hôn nhân trong gia đình mình.

"Bên xứ chúng tôi, hôn nhân không phải là nghĩa vụ đối với tình yêu, bản thân, nhưng là bổn phận đối với gia đình, dòng giống. Tôi biết mẹ tôi không bao giờ yêu cha tôi, nhưng bà đã làm tròn bổn phận đối với gia đình. Bà là một người vợ hiền và một bà mẹ tốt. Đến bốn mươi tuổi, bà rút lui khỏi đời sống vợ chồng, và đã chọn cho cha tôi một người vợ khác. Điều đó làm cho chúng tôi sầu khổ, tuy nhiên, chúng tôi hiểu làm như vậy là chí lý. Bây giờ, bà đã được tự do theo đuổi tư tưởng riêng của bà, luôn luôn ở trong lãnh vực gia đình. Chúng tôi tất cả quây quần quanh bà để nâng đỡ bà và làm cho bà được vinh dự. Tôi cũng thế, tôi có một nhiệm vụ đối với gia đình mà tôi phải chu toàn."

Một cách rõ ràng và lạnh lùng, chàng cảm thấy mình đã làm thương tổn Margaret tận chỗ sâu thẳm nhất của lòng nàng.

Nàng đã nói:

- Em muốn thực hiện một cuộc hôn nhân tình yêu.

Nếu Phan cảm thấy mình tự do, không những đối với Liên Chi mà còn đối với tất cả các thế hệ của nhà họ Vũ, trong những thế kỷ qua và trong tất cả những thế hệ sắp tới, thì chàng đã trả lời:

"Vậy, chúng ta hãy lấy nhau, và anh sẽ bỏ Liên Chi"

Nhưng chàng không tự do. Các bàn tay của tổ tiên cầm giữ chàng, và các bàn tay của con cháu sẽ sinh ra đương vẫy chàng. Chàng phải thành thực với Margaret hơn nữa. Chàng nói tiếp:

- Anh tự biết anh.

Chàng ngước mắt không phải để nhìn nàng, mà nhìn cảnh vật dàn trải trước hai người, dòng sông, tàu bè, bến tàu và những nhịp cầu vòng cung giữa đôi bờ.

- Tôi biết, tôi được sinh dựng không những do Thượng- Đế mà còn do gia đình tôi, nguồn gốc từ thời đại hoang sơ, và tôi không thể sống cho riêng tôi. Thân xác tôi là của tổ tiên tôi ban cho tôi. Đã hẳn có một cái trong tôi – đó là linh hồn, nếu cô muốn gọi thế - và linh hồn ấy là của riêng tôi nên tôi muốn tặng cô. Nhưng nếu tôi cho cô thể xác tôi, một vật không thuộc về tôi, là tôi lừa dối các thế hệ.

- Anh lầm, anh lầm rồi! Nàng kêu lên. Tình yêu và hôn nhân có thể chỉ là một.

- Vâng, có đôi khi, nhưng chỉ là do sự thất thường của trời đất. Đôi lần, ngay ở bên nước tôi, có khi một người đàn ông, tối tân hôn, vén tấm màn cưới che mặt người vợ chưa quen biết, và khám phá ra rằng đấy là người đàn bà nếu được tự do, anh ta sẽ chọn trong tất cả các người đàn bà khác. Nhưng đó là một sự tình cờ của trời ban.

Nàng nhấn mạnh một cách hãnh diện:

- Ở đây, chúng tôi lấy nhau vì tình.

Chàng cảm thấy có một sự chia rẽ đương mở rộng ra giữa hai người.

- Không, như thế không đúng.

Anh đã nói sự thật, cho dù sự thật ấy sẽ giết chết hai người:

- Các anh chị ở đây lập gia đình cũng như chúng tôi, để duy trì nòi giống, nhưng các anh chị tự lừa dối mình và gọi đó là tình yêu. Các anh chị đòi hỏi sự thành công lý tưởng, cho dù làm như thế chỉ là mua lấy thất vọng cho mình. Các anh chị thờ phụng ý niệm tình yêu. Nhưng chúng tôi thật thà hơn, chúng tôi tin rằng đàn ông và đàn bà, tất cả phải lấy nhau. Đó là nhiệm vụ của chúng ta trước sự sống. Nếu có tình yêu đến thêm, đó là một ân phúc của trời ban. Nhưng tình yêu không cần thiết cho sự sống.

Nàng dịu giọng nói:

- Nhưng nó cần cho em,

Không trả lời, Phan tiếp:

- Sự bằng lòng là cần thiết, nhưng sự bằng lòng đến khi bổn phận đã làm xong và hy vọng đã thực hiện – không phải hy vọng bản thân của tình yêu, nhưng hy vọng của gia đình, của con cái và của cái vị trí mà người ta đã chiếm giữ trong các thế hệ.

Lời Phan thốt ra tự đáy lòng, và chàng có cảm tưởng thầy An-Rê chấp thuận, không phải vì chính các lời chàng đã nói, mà vì những lời ấy phát ra với tất cả chân thành.

Sự thinh lặng giữa hai người kéo dài, chàng không phá tan, chàng để cho nó dâng lên và lan rộng ra – sâu và rộng như một đại dương.

- Đối với chúng ta, thế là vĩnh biệt phải không nhỉ?

Một lúc lâu, Phan đã cầm lấy bàn tay ấy trong hai tay mình.

- Phải, vĩnh biệt! Phan nói và để nàng ra đi.

Quyển sách cuối cùng đã xếp vào chỗ, chiếc áo cuối cùng đã gấp xong. Phan mang các rương hòm đặt ngoài hành lang và sáng mai lũ đầy tớ sẽ đến lấy. Rồi chàng trở vào. Liên Chi đang đợi chàng ở giữa nhà, ngập ngừng.

Không do dự, chàng tiến đến và nắm lấy hai vai nàng.

- Em giúp anh nhé! Anh có một nhiệm vụ phải thực hiện trên miền đất của gia đình ta, và anh cần đến em; một mình anh không thực hiện được. Em phải đem hết tâm lực giúp đỡ anh.

Đôi mắt dữ dội của Phan làm Liên Chi khiếp sợ. Nhưng nàng vẫn cảm thấy thú vị. Nàng muốn sợ chàng. Nàng cần được chàng hướng dẫn.

- Em sẽ giúp đỡ anh, nàng khẽ nói, em sẽ làm tất cả những gì anh dạy bảo.

Trong nhà, Phan như một lò lửa, chàng dùng tất cả mọi sự để thổi cùng ngọn lửa lên. Chàng thức dậy trước rạng đông, điểm tâm dưới ánh đèn cầy, và mới tờ mờ sáng đã cỡi ngựa qua cánh động, theo những con đường hẹp, đến xóm làng nơi chàng chọn để dựng ngôi trường đầu tiên. Chàng đã ra lệnh mọi người già trẻ đều phải đi học hết. Chàng vạch bản đồ các trường học cho trẻ em, các trường học cho đàn ông, đàn bà, và ngay cả những người già cả.

Những người lớn tuổi, vì không bao giờ nghĩ đến sách vở, nên họ không quan tâm gì đến công việc của chàng. Họ nói:

- Chúng tôi chỉ còn sống độ vài năm nữa thôi, vậy thì chúng tôi lo tìm hiểu những điều người ta viết trong sách vở để làm gì?

Và họ than phiền:

- Chúng tôi không có những tư tưởng riêng của chúng tôi sao? Với ngần này tuổi đầu, chúng tôi không có được chút ít khôn ngoan sao? Sự khôn ngoan của chúng tôi đủ cho chúng tôi rồi.

Nhưng Phan còn trẻ quá nên không nhượng bộ. Cuối cùng, các tá điền già đến gặp bà Vũ để xin bà bảo con trai bà nới rộng tay ra một chút. Bà Vũ cho mời họ vào. Bà tỏ ra rất nhã nhặn những khi tiếp đãi người dưới. Bà không có người bề trên. Bà thấy sự từ chối có thể có được giữa những người đồng trang, nhưng không bao giờ có được giữa những người dưới. Bà đón tiếp họ trong khách sảnh của gia đình. Bà cho mời ông Vũ đến để ông ngồi ở chỗ ngồi thường lệ, bên phải chiếc bàn chính giữa, còn bà ngồi bên trái. Như vậy, gia đình đã được đại diện một cách vinh dự trước các nông dân. Ông Vũ bệ vệ bước vào. Ông mặc một chiếc áo dài bằng xa tanh đỏ thẫm, ngoài khoác một cái áo cánh bằng nhung đen. Cái áo ấy hoàn toàn mới, vì ông phì mập quá, không thể bận áo cũ. Bà Vũ sững sờ thấy ông béo tốt như vậy, vì đã lâu bà chỉ nom thấy ông tại bàn ăn của gia đình, vả lại càng ngày ông càng hiếm đến ăn chung. Ông sẽ chết sớm, bà nhìn hai má ông và nghĩ ngợi, nhưng nên chết sớm mà sung sướng hơn là chết chậm mà bất mãn. Bà làm thinh và tránh không khuyên ông nên thận trọng.

Khi hai ông bà chủ đã an vị, những tá điền già bước vào, vận áo vải xanh và đi dép rơm mới. Họ bưng đến những gói bánh ngọt, bọc giấy màu nâu, nhân đỏ. Họ dâng lễ vật và khi ông Vũ nhận, theo phép xã giao ông bảo rằng họ không cần phải lễ độ như thế.

Bấy giờ, các tá điền khiêm tốn trình bày nỗi bối rối của họ. Bà Vũ lắng tai nghe, ông cũng vậy, nhưng ít quan tâm. Ông Vũ tỏ ra hoàn toàn đồng ý với tá điền.

- Các bác nói phải lắm, con trai tôi hành động như một người điên, tôi sẽ bảo nó trở về ngay và để các bác được yên ổn.

Về phần bà Vũ, bà hiểu biết vấn đề dưới tất cả mọi khía cạnh, nên bà không để ông Vũ hành động một cách mù quáng. Thoạt tiên, bà tỏ vẻ đồng ý với ông, và sau đó bà dịu dàng xen vào những câu vấn nạn. Bà nói:

- Ông chủ dạy rất phải. Tất cả các bác là những người đã quá bốn mươi tuổi. Người ta không nên bắt các bác phải học hành một cách miễn cưỡng. Nhưng có thể có nhiều kẻ còn trẻ tuổi, muốn được hưởng chút học vấn, ví dụ để tính toán sổ sách chẳng hạn, hoặc để khỏi bị người ta phỉnh gạt trong việc mua bán.

Quay về phía ông Vũ, bà dịu dàng nói:

- Nếu chúng ta cấm con nó dạy những người trên bốn mươi tuổi trừ trường hợp họ xin, thì ông nghĩ sao?

Đó là một thỏa hiệp tốt đẹp, và thỏa hiệp ấy được chấp thuận. Từ hôm ấy, những tá điền già cả đều được Phan cho hoàn toàn tự do giữ nguyên tình trạng mù chữ, không phải sợ bị làm khó dễ trong việc trả tiền hay nhận thóc giống.

Nhưng Phan bật cười khi nghe mẹ kể lại cuộc thăm viếng của các tá điền già. Chàng nói: