← Quay lại trang sách

Chương II KS.29

Sự tái hiện của con người tự xưng là KS.29 đã xảy ra một cách quá bất ngờ. Tên thật của hắn là Vĩnh Khương, giòng giõi hoàng phái đàng hoàng. Chàng tưởng hắn đã nằm sâu dưới 3 thước đất ở một xó xỉnh khỉ ho cò gáy nào đó, và xương thịt đã rữa nát. Té ra Vĩnh Khương vẫn còn sống nhăn. Và hắn đang gọi dây nói cho chàng.

Chàng hỏi hắn:

-Vĩnh Khương?

Chàng dùng tiếng mẹ đẻ, hắn cũng đáp lại bằng tiếng mẹ đẻ, hơi trọ trẹ vì hắn sinh trưởng ở miền sông Hương núi Ngự:

-Chính hiệu con nai vàng.

Vĩnh Khương vẫn tếu như ngày xưa. Văn Bình hắng giọng:

-Anh đang ở Tân Đề Li?

-Dĩ nhiên. Không lẽ mỏa gọi toa từ dưới âm phủ. Vả lại, mỏa không tin sừ Diêm vương có máy điện thoại.

-Còn nghề giáo sư 29 kiểu?

-Còn. Mỏa vẫn dẻo, vẫn dẻo như cách đây 10 năm khi chúng mình đụng nhau ở Atsam. Mỏa đi vẹt đế giày mà chưa tìm ra nữ đối thủ. Toàn là hạng bét, chưa đấu đã hàng.

-Anh lại say nhè rồi.

-Không. Mỏa vốn là sâu rượu bờhan (1). Nhưng hôm nay, mỏa không nhấp giọt nào cả. Mỏa cố nhịn rượu vì hôm nay toa đến.

-Ừ, tôi mới đến xong. Tại sao anh biết tôi ghé đây?

-Mỏa cũng có tin tức lai rai. Mỏa gọi điện thoại cho toa để trình bày một chuyện …

-Chuyện tình thật mùi …

-Bậy. Toa đừng vội có thành kiến với mỏa. Chuyện này là chuyện làm ăn nghiêm chỉnh. Áp phe hết sức quan trọng.

-Tôi cũng có áp phe hết sức quan trọng. Anh thừa biết tôi không phải là ông nhà giàu đến Ấn độ du hí. Công việc của anh chán như cơm nếp nát. Anh muốn gì? Muốn tiền xài hay muốn chiếu khán hồi hương? Để tiết kiệm thời giờ, tôi có thể trả lời dứt khoát là tôi sẵn sàng giúp đỡ bất cứ lúc nào anh muốn.

-Đa tạ tấm lòng tri kỷ của anh. Chính vì anh có sự rộng lượng, hào hiệp nên tôi mới đòi gặp anh hôm nay.

-Gặp tôi hôm nay?

-Vâng. Và là gặp ngay. Nhưng không phải để vòi vĩnh vài ba ngàn rupi, hoặc xin giấy giới thiệu đến tòa tổng lãnh sự. Mà là biếu anh một thứ anh muốn.

-Gái hả? Tạm dẹp sang bên. Chừng nào xong việc, chúng mình sẽ kéo nhau đi du hí một phen long trời lở đất.

-Ờ, nếu chỉ là chuyện gái, chuyện rượu, hoặc chuyện hút xách thì tôi đâu dám quấy nhiễu anh lúc này. Tôi đã biết anh đang muốn một thứ.

-Thứ gì? Nói đi. Tôi vốn ghét nửa nạc nửa mỡ.

-Thứ mà thằng chó chết Mahan sắp biếu anh.

-Hừ … anh cũng quen Mahan?

-Không quen lắm. Nhưng tôi biết việc hắn sửa soạn thực hiện. Việc anh sửa soạn thực hiện với sự trợ lực của hắn. Thế nào, anh Z.28, anh chịu đến gặp tôi chưa

-À, anh định chơi trò săng ta hả? Chịu rồi.

-Toa đừng nói thế. Mỏa luôn luôn là đàn em trung thành và ngoan ngoãn của toa.

-Rềnh rang mãi, người ta nghe được thì hết đời. Địa điểm gặp ở đâu?

-Toa yên tâm. Tiếng nước mình là thứ tiếng khó học, khó nói, khó hiểu nhất thế giới, mấy anh chà và có nghe trộm cũng chẳng đi đến cái thống chế nào. Địa điểm gặp ở trong cuốn sách.

-Trong cuốn sách?

-Phải, anh đã biết nó nằm ở đâu. Đề phòng thiên hạ nghe trộm, tôi chỉ trò truyện tầm phào qua điện thoại, còn địa điểm gặp thì giấu kín. Anh thấy nó chưa?

-Rồi. Cuốn sách KS. bìa đỏ.

-Đúng ngắc. Anh giở ra là thấy.

-Trang mấy?

-Khổ quá, ngày xưa toa đặt hỗn danh mỏa là gì thì bây giờ cứ tiếp tục mở trang có số ấy. Toa đã hiểu ý mỏa chưa?

-Rồi.

-Sukờriya (2).

Vĩnh Khương cúp điện đàm. Tiếng « u …u … » tràn ngập ống nghe từ lâu mà Văn Bình vẫn chưa gác máy. Tâm thần chàng bỗng nhiên bâng khuâng như thể đánh mất một cái gì, không quý lắm nhưng cũng lưu lại thật nhiều kỷ niệm.

Thật vậy, những giờ, những ngày chàng sống tại Atsam với Vĩnh Khương, tức KS.29, cách đây 10 năm là những giờ, những ngày chứa chan kỷ niệm.

Tính theo dương lịch chỉ có 8 năm. Chàng đến Atsam ít ngày trước Tết Nguyên đán, nên 8 năm thành 10 năm theo âm lịch.

Hồi ấy, Vĩnh Khương giữ chân « trấn thủ » cho ông Hoàng ở tiểu bang Atsam, cuộc miền đông bắc Ấn độ. « Trấn thủ » là tiếng lóng để chỉ những điệp viên hoạt động dọc biên giới Trung cộng, không chuyên về súng đạn, chỉ có nhiệm vụ thu thập tin tức, tài liệu từ phía sau bức màn tre bí mật chuyển ra, hoặc hướng dẫn điệp viên của Sở vào, ra Hoa lục. Ngay cả bây giờ, phương tiện chuyển vận rồi rào, nhanh chóng, tuyên truyền du lịch lại nghe như mật rót vào tai mà nhiều người còn chưa biết Atsam là vùng nào, huống hồ câu chuyện đã xảy ra từ 10 năm. Atsam là vùng đất xa xăm, gần như ẩn núp sau núi cao và rừng già. Nó là một tỉnh của Ấn nhưng chỉ được nối liền với chính quốc bằng một giẻo đất nhỏ hẹp lượn ngoằn nghoèo giữa 3 nước Butan, đông bộ Hồi quốc và Nêpal.

Nguyễn phước Vĩnh Khương là con ông hoàng bà chúa hẳn hoi. Trong hoàng phái, hắn là mệ, mệ Khương. Nếu hắn không sớm đi bụi đời thì chỉ riêng tiếng tăm và của cải thừa hưởng cũng đủ bảo đảm cho hắn một cuộc sống thoải mái. Khốn nỗi, mệ Khương lại thích giang hồ. Phàm con người lớn lên mới khoái đi hoang, đàng này mệ Khương mang sẵn giòng máu lãng tử nên mới 7, 8 tuổi đã lao thân vào đời phiêu bạt. Mệ quan niệm lẽ sống con người là gái và rượu. Gái đẹp như món ăn dùng mãi một đĩa cũng chán, cần thay đổi luôn luôn. Bởi vậy, thú say mê mỹ nhân, rồi mê mỹ tửu của mệ Khương đã dẫn đến thú giang hồ. Mệ chẳng biết miếng võ nào, song « võ miệng » của mệ thì vô địch, khó ai đấu nổi. Nhờ cái lưỡi hấp dẫn, mệ chu du khắp thiên hạ trong nhung lụa. Đàn bà, con gái dính mệ cả chùm, dao chém không rời. Những ngày cuối cùng của thế chiến thứ 2, mệ Khương bị ket ở miền bắc Diến điện. Mặc dầu mới đôi mươi, mệ đã là vĩ nhân « bụi đời ». Sợi giây tình ái yêu đương đã cột chặt cặp giò quen bay nhảy của mệ. Mệ ở lại nơi đó cũng vì cặp giò. Phải, một cặp giò đàn bà …

Phụ nữ Naga nổi danh trên khắp trái đất do cặp giò. Naga là bộ lạc hiếu chiến và dũng cảm, sinh sống ở vùng biên giới Diến điện và Atsam. Họ đã giúp phe đồng minh ngăn chặn cuộc xâm lăng của quân đội Nhật năm 1944 tại Diến điện. Sau đó họ đóng vai trò du kích chiến đấu hữu hiệu bên cạnh phe đồng minh.

Mệ Khương yêu một cô gái có cặp giò đẹp nhất bộ lạc. Đối với tiêu chuẩn tây phương (hoặc cả đông phương nữa) thì sắc đẹp có thể được căn cứ vào bộ mặt và thân hình. Bộ lạc Naga lại khác. Cái thước đo sắc đẹp là … cặp giò. Phụ nữ bộ lạc trèo núi, băng rừng thường trực nên cặp giò họ thuôn đẹp. Họ lại uống và thoa những thứ thuốc rễ cây có tác dụng làm tan mỡ thừa, và làm cứng thịt. Môn vũ, nhảy múa, dễ tạo ra những cặp giò cân đối. Phụ nữ Naga lại vũ rất giỏi. Mỗi khi họ nhảy múa thì tượng đá cũng toát bồ hôi vì … thèm muốn.

Bộ lạc Naga được chia làm 12 chi, hầu hết đều có thái độ thân thiện, ngoại trừ chi Kaliêu (3).

Dân kaliêu tài ba về mọi mặt, bắn giỏi, võ giỏi, nhảy múa giỏi, nhưng họ lại khoái giết người để lấy đầu lâu trưng diện. Kẻ nào được họ tha chết thì bị xung làm nô lệ. Mệ Khương bị lọt vào khu Kaliêu, và bị bắt làm nô lệ. Nhờ con gái của tù trưởng có cảm tình nồng nàn với mệ nên mệ được trả tự do. Tuy nhiên, mệ phải ở lại trên núi với người đẹp. Cùng bộ lạc Naga, mệ Khương tham gia đánh Nhật, và gặt hái được nhiều thành tích vẻ vang. Chiến tranh chấm dứt, anh chàng bán trời không văn tự của đất Thần kinh nghiễm nhiên trở thành nhân viên tình báo, được đồng minh tín nhiệm ở một miền đo heo hút gió. Được dân Kaliêu tín nhiệm, mệ tìm cách móc nối với ông Hoàng (hay ông Hoàng đã móc nối với mệ, điều này Văn Bình không biết rõ) và được thu nạp vào tổ chức với nhiệm vụ « trấn thủ ». Ngoài công việc trấn thủ, mệ Khương còn kiếm sống bằng nghề hướng dẫn săn bắn. Khu vực của bộ lạc Naga có rất nhiều dã thú, đặc biệt là tây ngu. Các rừng già ở Viễn Đông đều có tây ngu (4), Tuy nhiên, chỉ có tây ngu trong vùng bộ lạc Naga mới cuộc loại quý. Sừng tây ngu có 3 đặc điểm: thứ nhất chữa khỏi bá bệnh, thứ hai trừ khử được mọi độc dược, và thứ ba làm tăng tưởng sinh lực ân ái. Sừng tây ngu thông thường trị giá 300 mỹ kim một kí (5), sừng tây ngu trong vùng bộ lạc Naga đôi khi đắt gấp chục lần. Mệ Khương gặp Văn Bình trong dịp chàng vượt biên từ Hoa Lục qua Diến điện. Mệ đưa chàng đi săn tây ngu. Hồi ấy, tây ngu gần như tuyệt chủng, nhà cầm quyền bản xứ hạ lệnh cấm săn (6), nhưng nhờ mệ Khương am hiểu địa lý, Văn Bình bắn được một con đực còn trẻ, và rất đẹp, khỏe.

Tây ngu là giống vật xấu xí kinh khủng, nên tìm ra con đẹp là chuyện hãn hữu. Nó cận thị hết chỗ nói, mỗi khi ăn cỏ uống nước, nó thường đèo một chú cò trắng trên lưng. Hễ con cò vụt bay đi là nó biết sắp nguy biến. Con tây ngu bị Văn Bình bắn hạ lại có nhỡn tuyến khác thường. Dân Naga coi tây ngu đẹp và sáng mắt này là thần tê. Trên đời, có lẽ ít giống vật nào yêu đương ác liệt bằng tây ngu. Hàng năm, đến mùa yêu đương, các con đực họp nhau rồi đánh nhau đến chết. Con nào thắng trận được làm chúa tể, và tận hưởng độc quyền bầy tây ngu cái. Con thần tê của Văn Bình trị giá cả 100.000 mỹ kim. Sừng nó được dùng làm thuốc đã đành, rồi gan, mật, tim và tủy của nó cũng chứa những dược tính kỳ lạ. Văn Bình du hí liền tù tì hơn một tháng trường, nhờ dược tính của con thần tê, chàng vẫn đỏ da, thắm thịt, và trẻ hẳn ra.

Thời gian hưởng lạc cũng là thời gian chàng học thêm những bí quyết, những bí thuật của người Ấn độ, từng được ghi trong kinh điển Kama Sutra. Mệ Khương thú nhận với chàng, sở dĩ mệ quyến luyến vùng Diến điện, Atsam là vì những hấp dẫn vô tiền khoáng hậu của Kama Sutra. Trong tự điển làm tình ở Tây phương, người ta thường nói đến 32, hoặc 64 kiểu. Người Ấn chỉ nói đến 29, hầu hết đều khác lạ, và đều mang những tên gọi nên thơ, chứ không cục cằn, thô lỗ như ở Tây phương. Nào là kiểu « hơi thở của con rồng », « bước nhảy con dê », « mũi tên rời cung », « cặp sơn dương hôn nhau », « cầu vòng uốn khúc », « đôi lòng gắn bó », « cành thông nghiêng ngả », « chim ó bay về tổ ấm ». Nào là kiểu con cò, kiểu con voi, kiểu con bò cái, kiểu xoay bánh xe, v.v.. (7)

Mệ Khương thông thạo 29 kiểu của kinh điển Kama Sutra, nên Văn Bình tặng cho hắn hỗn danh KS.29. Đi đêm lắm có ngày gặp ma, mệ Khương suýt tiêu tùng sự nghiệp và tính mạng vì 29 kiểu làm tình, và vì ma lực của sừng tây ngu. Số là mệ Khương gặp một cô gái tuyệt đẹp. Nàng trội hơn tất cả những cô gái đã gặp, không những về nhan sắc, mà còn cả về bản lãnh yêu đương xác thịt nữa. Mệ ngoan ngoãn theo nàng, ngoan ngoãn đến nỗi nàng bảo gì mệ cũng làm theo răm rắp. Đến khi mệ Khương hé thấy sự thật thì ô hô, ai tai … một cuốn mật mã quan hệ bị chụp hình trộm, 2 điệp viên của Sở bị bắt trên lãnh thổ Trung hoa. Ông Hoàng phái Văn Bình đến nơi để mở cuộc điều tra và quyết định biện pháp trừng phạt. Chàng vừa đến nơi thì nhận tiếp mệnh lệnh hỏa tốc của ông Hoàng. Theo mệnh lệnh này, chàng phải thủ tiêu mệ Khương vì ông Hoàng nắm được bằng cớ mệ Khương chủ tâm phản bội. Khỏi cần điều tra, Văn Bình đã biết mệ Khương không phản bội. Chẳng qua mệ mềm yếu vì giai nhân dùng « mỹ nhân kế ». Chàng không nỡ giết mệ Khương, chàng cho phép mệ trốn qua Atsam, mai danh ẩn tích, còn chàng trở về Sàigòn phúc trình lên ông Hoàng là đương sự đã tẩu thoát. Dường như ông Hoàng đã biết chàng khoan hồng đối với mệ Khương (giống với lối khoan hồng … quân tử tàu của Quan Công đối với Tào Tháo tại đường hẻm Hoa Dung lộ ngày xưa) nên ông không nói gì. Ngày tháng trôi qua, thấm thoát đã gần 10 mùa xuân, hình dáng mệ Khương nhòa nhạt trong trí Văn Bình. Chàng không nghĩ rằng mệ chết già, chết bệnh, chết về lam sương chướng khí, hoặc chết vì ngày đêm phí sức cho các cuộc truy hoan không ngừng nghỉ … Chàng nghĩ rằng cái thói hoa nguyệt của mệ Khương sớm muộn sẽ gây ra ghen tuông, và đổ máu. Mệ Khương không biết võ nghệ nên chắc chắn phải chết từ lâu.

Ấy thế mà mệ còn sống.

Mệ còn sống phây phây, và đương nhiên gọi điện thoại cho chàng. Mệ biết rõ công việc của chàng tất mệ vẫn làm nghề đi ngang về tắt. Văn Bình cảm thấy nóng ruột. Chàng phải gặp mệ Khương ngay. Cuốn Kama Sutra bằng Anh ngữ vẫn nằm tênh hênh trên bàn. Mệ Khương đưa được nó vào phòng, điều này chứng tỏ mệ có tay chân thân tín ngay trong lữ quán. Đàn em của mệ phải làm việc ở ban tiếp tân mới biết được số phòng của chàng trước khi chàng tới. Chàng dùng tên giả. Mahan cũng thuê phòng cho chàng bằng tên giả này. Tại sao mệ Khương khám phá ra người du khách độ cái tên thật hiền lành và tầm thường của đại tá Văn Bình Z.28? Chàng quan sát một lát, thấy không có chi tiết nào khả nghi, chàng liền giở trang 29. một vuông giấy mỏng, cùng màu với ruột sách, được nhét chính giữa. Vuông giấy này có những hàng chữ đánh máy như sau:

« Gặp nhau trong vòng một giờ, kể từ khi đọc thư này. Tại nơi có những câu thơ:

Nếu quả thật có thiên đàng hạ giới,

Thì phải đến nơi đây,

Vâng, phải đến nơi đây,

Mới tìm thấy thiên đàng …

Đề nghị anh thay đổi nhiều lộ trình và phương tiện di chuyển. Sợ bị theo.

KS.29 »

Văn Bình mỉm cười. Mệ Khương thích bay bướm, đến chết e cũng không chừa nổi. Ở đây thiếu gì địa điểm gặp gỡ mà mệ lại hẹn chàng đến khu cổ thành có nhiều thắng tích lịch sử vô cùng bay bướm. Những giòng chữ ghi trong thư hẹn được coi là một trong các thắng tích đầy thơ và mộng. Đó là những giòng chữ khắc bằng vàng y trên tường hoàng cung một ông vua Ấn. ngai vàng của nhà vua nghe đâu trị giá hơn 20.000.000 mỹ kim. Cách đây mấy trăm năm mà ngai vàng trị giá 20 triệu, chẳng hiểu giờ đây nó đáng giá bao nhiêu triệu đôla nữa. Văn Bình đã ghé thăm nơi này nhiều lần. Nó tọa lạc trong Lũy đỏ (Red Fort) thuộc khu cổ thành ở phía đông bắc thành phố. Ngai vàng được kê trong một cung điện tráng lệ, nơi nhà vua thiết triều giữa những bức tường cẩm thạch, trần phòng bằng bạc khối. Và kế cận chính điện là những căn phòng đầy báu vật và lạc thú ngàn một đêm lẻ. Nhà vua sống bên những cung tần mỹ nữ tuyệt đẹp trong cung điện bên giòng sông nhỏ uốn khúc theo hình lá sen chảy chung quanh điện ngọc, đặt tên là « Đường lên Thiên Thai », với cung ngọc bích xây toàn đá hoa trắng nhà vua dành cho người ngọc của ngài, đặc biệt với những phòng tắm lộng lẫy, thần tiên, nơi giai nhân trút bỏ xiêm y bụi trần để được quyện tẩm nước thơm trước khi được nội giám rước vào long sàng chung chăn gối cùng nhà vua.

Văn Bình thè lưỡi liếm mép. Từ nãy đến giờ, chàng liếm mép như vậy cả chục lần. Chàng liếm mép vì thèm nếp sống của vua Ấn thời xưa. Nhưng cũng vì thèm rượu huýt ky. Chàng lục túi, và nét mặt bỗng sáng rực. Trời ơi, ve huýt ky dẹt kè kè bên mình mà chàng quên phứt. Tại phi cảng, quan thuế chỉ khám xét lấy lệ. Chàng đến Ấn của thông hành du khách, mang theo 3 khẩu súng săn, và 100 viên đạn bắn thú, đúng với luật nhập cảnh bản xứ T.B.R. (Tourist Baggage Rule). Nhưng muốn mang súng săn vào Ấn, phải có giấy phép của T.I.C. (Tourist Introduction Cad). Lẽ ra thiếu T.I.C. Văn Bình phải gặp nhiều phiền phức tại phi trường. Chẳng hiểu sao nhân viên quan thuế lại phớt lờ. Họ hỏi chàng có hàng hóa cần khai không, chàng lắc đầu và họ khoát tay cho chàng đi qua. Chàng sực nhớ ra, ngoài ve huýt ky dẹt cất trong túi áo, vali của chàng còn đựng 2 chai Đen và Trắng lớn (Black and White). Không biết rượu tiên ngon đến đâu, thiết tưởng nó khó thể ngon hơn rượu huýt ky của Văn Bình khi ấy. Chàng tu một hơi hết sạch. Tạng phủ của chàng như xe hơi vừa đổ đầy xăng, và thay nhớt, bơm mỡ mới, động cơ bắt đầu nổ tròn trịa và hăm hở. Chàng có cảm giác gân cốt rắn lại như bọc thép. Chàng có thể đánh ngã một sư đoàn như chơi.

Chàng lững thững xuống đường Coranwallis. Đi thẳng một lèo về hướng đông là vườn bách thảo với hằng hà sa số thú vật, và chim muông lạ. Quẹo tay phải, xuống phía nam là đường dẫn đến lăn tẩm một ông vua oanh liệt.

Mỗi thành phố trên thế giới đều có những nét độc đáo. Du khách đến Tân Đề li chỉ thấy toàn mộ là mộ. Những mộ vua chúa nguy nga chễm chệ trong công viên, trên đường phố, ngay giữa thị trấn đông người nhung nhúc như giòi. Vừa ra khỏi trường bay đã thấy lăng. Lăng Sáp-đát-zăn. Văn Bình vừa ra khỏi khách sạn lại đụng đầu với lăng mới. Từ khách sạn đến chỗ hẹn với mệ Khương, đang còn nhiều lăng tẩm khác nữa. Tự dưng Văn Bình rợn tóc gáy. Chàng không lấy ngạc nhiên khi thấy sau lưng có bóng dáng khả nghi. Chàng tản bộ, họ cũng tản bộ. Hai tên lầm lũi theo chân chàng, cách chừng 50 mét. Và một chiếc xe hơi đen chạy rừ rừ phía sau. Vẫn chiếc xe hơi sơn đen bám chàng hồi nãy, từ phi trường về khách sạn. Địch thiếu xe hơi, hay là địch bất chấp? Hai bóng người khả nghi cũng là hai tên Sikh cao lớn quen mặt, bị chàng cho hít bụi hồi nãy. Sikh là một sắc dân sống ở miền bắc, da ít đen hơn các sắc dân miền trung và miền nam. Ấn là nước tây đen -chúng ta thường gọi nôm na như vậy- song lại kỳ thị da đen đáo để. Du khách cứ nhìn màu da là đoán được đẳng cấp giàu nghèo, sang hèn. Dưới nấc thang cuối cùng của xã hội là lớp người da đen như củ súng. Càng lên nấc cao xã hội, da họ càng sáng hơn. Dân Sikh có màu da sữa, khôn ngoan, giàu sáng kiến và trí thông minh. Họ có năng khiếu về nghề quân đội và công an cảnh sát. Hai gã Sikh này cao lớn hơn mức thông thường. Theo tập tục, cả hai đều nuôi râu tóc xồm xoàm. Từ xa, Văn Bình vẫn nhìn thấy cái lược gỗ giắt trên mái tóc như phụ nữ Việt xưa, và cái vòng sắt to tướng ở cườm tay. Cả hai đều đội khăn, mặc đồ trắng, quần rộng thùng thình như váy buộc túm lại ngang mắt cá chân.

Dáng điệu nhàn tản ung dung, Văn Bình rẽ vào đường Pandara. Lát sau chàng đến Ngã Sáu, nơi được gọi là Ấn môn. Ở đó là đài kỷ niệm binh sĩ Ấn (India Gate) tử trận trong đại chiến thứ nhất. Từ đó, muốn đến Lũy đỏ gặp mệ Khương, chàng phải đi thẳng. Nhưng chàng lại bẻ trái, nện gót giày trên đại lộ Rajpath. Hàng năm, nhân ngày lễ Độc lập, các cuộc diễn hành đầy màu sắc tráng lệ đều được tổ chức dọc đại lộ này. Rộng lớn như nó mới xứng đáng mang tên đại lộ. Những đại lộ ở Sàigòn chẳng thấm vào đâu so với nó. Nó rộng lớn đến nỗi những công thự hành chính nguy nga ở hai bên trở nên bé nhỏ, co ro nhau như sợ rét mặc dầu trời đang nóng chảy mỡ. Trước mặt chàng hiện ra sừng sững tòa nhà Quốc hội hình tròn với giãy cây cột bao quanh. Và bên trái là tư dinh tổng thống. Tư dinh này khi xưa là nơi cư ngụ của phó vương, người thay mặt Anh quốc cai trị Ấn độ. Nước lớn có khác, cái gì cũng quá khổ. Dinh Độc lập đối với người Việt đã quá lớn, nhưng nếu đặt nó bên cạnh dinh tổng thống chà và thì hỡi ôi … Các bạn nhớ giùm cho kích nước của nó, rồi diện tích 132 mẫu, 340 phòng, vườn rộng mênh mang, …

Trời vẫn còn sáng. Những tia nắng cuối cùng của ban ngày chưa chịu nhường lối cho hoàng hôn. Văn Bình nhẩn nha xuyên qua đường Nghị viện (Parliament Road) và đến quảng trường Connốt (Connaught Place). Đây là đầu mút của nhiều con đường lớn nhỏ ở trung tâm thành phố. Dầu hai tên Sikh dính gót chàng là cán bộ trung cấp của khóa rượt đuổi, chàng vẫn có thể tìm cách vù trốn. Đường Nghị viện và đường Danpát (Janpath) cụng nhau ở quảng trường Connốt. Văn Bình phì phèo thuốc lá Salem, tiến vào đường Danpát. Cách đó một quãng có trụ sở của cơ quan du lịch Nhà nước. Chắc hai tên Sikh râu tóc rậm rì tưởng chàng gõ cửa trụ sở du lịch. Chúng không dè chàng chỉ dọt được mấy bước thì dừng lại, ngồi xà xuống vỉa hè. Thì ra chàng coi bói. Bọn thày bói dạo ở góc đường Danpát nổi tiếng lẻo mép, và bám dai như đỉa đói. Trừ phi họ đông khách, họ mới buông tha cho khách bộ hành. Đối với du khách, thì đông khách đến mấy họ cũng nhảy xổ lại, gạ gẫm đủ cách. Phương chi gã thày bói Văn Bình đến gieo quẻ lại đang há cái miệng cá ngão ra ngáp xoàm xoạp vì ế khách. Bắt được chàng, hắn sung sướng tít mắt. Khi ấy chàng cũng cần hắn. Hắn cũng là dân Sikh, song râu tóc của hắn để dài hơn. Bộ tóc dài kinh khủng được giấu trong cái khăn lớn bằng cái thúng úp lên đầu, cái túi dài lòng thòng trước ngực đựng bộ râu. Nếu hắn đeo túi gấm thì có thể tưởng lầm hắn là cháu chắt Quan Công, đằng này túi đựng râu của hắn chỉ là cái lưới. Mùi bồ hôi dầu xông lên nồng nặc. Dân Sikh kị rượu và thuốc lá. Họ không kị tắm, chẳng hiểu sao họ lại hôi. Có người cho rằng mùi hôi này là bẩm sinh của dân bộ lạc Sikh, dường như do hạch bồ hôi trong da tiết ra. Đàn ông nào hôi dữ thường có sức khỏe, và dai bền trong cuộc ái ân.

Văn Bình xỉa 10 rupi. Tà líp coi bói đối với du khách từ 5 đến 25 rupi. Ấn là xứ của sự nói thách và mà cả nên ngay sự coi bói cũng phải kỳ kèo sát nút. Chung quanh quảng trường Connốt, các cửa hàng chen nhau san sát. Du khách muốn mua gì cũng có, chỉ cần biết cách mà cả. Và mọi cửa tiệm đều đua nhau nói thách một tấc đến trời. Ngoại trừ trong các cửa tiệm do Nhà nước làm chủ (Emporium).

Dám thày bói Sikh không được đặt dưới quyền chỉ huy của chính phủ, nên gã Sikh tham lam đòi 30 rupi. Văn Bình chưa kịp ghé đít ngồi xuống, thì hắn đã nắm tay chàng líu lô líu đường, nào là « sahib, sahib, mặt ngài đang có cần tài, … », « thôi đúng rồi, ngài sắp gặp hồng vận », « ngài có hai người đàn bà hiền đức đang yêu thương ngài mãnh liệt ». Văn Bình đã biết hai người đàn bà hiền đức này là ai. Hàng chục, hàng trăm du khách bị bọn thày bói lừa bịp một cách trắng trợn như vậy. Vì, hỡi ôi, đó là … bà mẹ và cô vợ. Mẹ mình, vợ mình dĩ nhiên phải là đàn bà hiền đức. Dĩ nhiên họ yêu thương mình. Nếu du khách chưa vợ thì lo gì, sau này sẽ có vợ hiền đức. Văn Bình rút thêm 1 đồng rupi nữa, song chàng chỉ giơ ra cho gã thày bói trông thấy. Hắn quả có cặp mắt quan sát tài tình. Hắn liếc sơ qua là đoán đúng xếp giấy bạc cuộn tròn trong lòng bàn tay khách xêm xêm 100 rupi. Vị chi 15 đôla Mỹ. Hừ, ở đất người đông của hiếm này, xoay sở được 15 đôla Mỹ bằng nghệ thật nước bọt đâu phải dễ kiếm. Hắn cười toe toét:

-Sahib thưởng công tôi?

Chàng gật đầu:

-Đúng, tôi thưởng công cho anh. Nhưng không phải vì anh bói đúng. Tài bói của anh chưa đáng 1 đồng anna. Tuy nhiên, tôi sẵn sàng tặng anh 100 rupi với một điều kiện. Anh có nhìn thấy hai người mặc đồ trắng, râu tóc thật dài, cũng là đồng hương với anh, ở bên kia đường chưa?

-Thưa rồi. Hai người cao lớn.

-Ừ, chỉ có hai người này là cao lớn nhất. Họ là bạn tôi. Họ đang làm gì?

-Sửa soạn qua đường.

-Được. Anh cầm lấy 100 rupi. Khi nào họ qua được nửa đường, anh phải chạy ra, nắm lấy vạt áo, và mời họ coi bói cho kỳ được. Họ giằng ra thì giữ lại thật chặt.

-Tuân lệnh sahib. Nều có thể, xin sahib …

-Thêm tiền hả? Hừ, tôi không phải là chủ nhà in giấy bạc. Thôi trả 100 rupi lại đây, để tôi thuê người khác.

Gã thày bói vụt đứng dậy. Với 100 rupi, chàng có thể sai hắn làm những việc khó khăn gấp trăm lần như thế. Chiếc xe hơi đen phải đậu lại ở xa vì đường giao thông bị tắc nghẽn. Gã thày bói chỉ cần níu kéo hai tên Sikh trong vòng một phút đồng hồ là Văn Bình có thể biến dạng. Quang cảnh lừng khừng của người và vật ở cái ngã 10 rộng mênh mông này là điều kiện lý tưởng cho các điệp viên quốc tế, khỏi hao tổn mưu mẹo và bồ hôi mà kẻ rượt theo vẫn ăn bụi như thường.

Chàng quay lại, và thấy gã thày bói ôm chầm lấy tên Sikh đi đầu. Tên đi sau thét oang oang, song quảng trường có quá nhiều tiếng động lớn nên chàng không nghe rõ. Chàng đã tính trước lộ tình tháo lui. Hai tên Sikh mặc đồ trắng lòng thòng chưa kịp gỡ thoát những ngón tay móng dài, đầy đất đen sì của gã thày bói thì Văn Bình đã phóng như bay qua bên trái, và trong chớp mắt đã sang phía đối diện của quảng trường vù vào đường Mintô. Chàng rảo bước qua cầu xe lửa, quẹo tay phải rồi gọi xích lô máy. Xích lô máy ở đây khác ở Sàigòn với hành khách ngồi thè lè sau lưng xa phu. Ghế ngồi gồm từ 1 đến 4 chỗ. Đặc biệt là nó giống xe lam của ta, đang chạy có thể vẫy nó ngừng, dầu nó chở khách hay không. Bạn đồng hành của Văn Bình là một cô gái Ấn khá ngon lành. Chàng dúi vào tay tài xế một nắm rupi khiến mắt hắn sáng lên. Lệ thường một dặm Anh (1.600m) chỉ phải trả 75 xu nP. Văn Bình đã trả gấp mười. Không riêng tài xế mà cả cô gái đồng hành cũng lác mắt. Chàng hỏi tài xế:

-Tôi muốn đi xa, được không?

Gã tài xế khúm núm:

-Thưa, sahib, cô khách đến Radờgát (8) sẽ xuống.

Chàng xua tay:

-Không sao. Hân hạnh được mời cô ngồi chung.

Cô gái không nói gì, xây lưng về phía chàng. Có lẽ nàng không thạo tiếng Anh. Thì chàng sẽ gạ chuyện bằng tiếng hinđi. Nàng lùi nép trong góc như sợ bị chàng ăn thịt. Nàng mặc cái sari bằng hàng mỏng phủ kín từ cổ xuống chân. Sari là loại áo làm giảm vẻ đẹp cân đối của phụ nữ, Tuy nhiên, chàng vẫn thấy rõ khuôn lưng đầy đặn, và cái eo nhỏ của nàng. Và nhất là hai cổ chân thon nhỏ, điều hiếm có ở Ấn vì đàn bà ở đây lam lũ nên cổ chân thô tháp. Chắc nàng là con nhà khá giả vì nàng đeo nữ trang vàng chóe đầy mình. Đàn bà Ấn rất khoái vàng bạc. Họ coi thân thể họ như tủ két nhà băng. Họ có bao nhiêu của cải đáng giá thì đem phô trương bấy nhiêu. Mặt nàng không đẹp lắm. Chàng có thiện cảm với vòng bụng thon nhỏ của nàng nhiều hơn. Ở cổ chân nàng, nổi bật cái vòng vàng nhỏ xíu, đính cái khánh vàng cũng nhỏ xíu. Bất giác chàng nhớ đến Thu Thu. Từ lâu, nàng đi biệt. Nghe đâu nàng đang công tác trên triền núi Hy mã lạp sơn. Ông Hoàng không cho biết mảy may về nàng. Thu Thu cũng đeo một dây khánh vàng xinh xẻo ở cổ chân, những cổ chân đẹp như tác phẩm của nhà điêu khắc danh tiếng.

Muốn ra đền thờ thánh Cam Địa, phải đi thẳng từ đường Vòng tròn (Circular Road), qua bệnh viện, qua sân vận động bóng tròn đến đường Nhà đèn (Power House Road). Nhưng vừa rời khỏi bệnh viện, xích lô máy lại quẹo trái theo hướng tay của cô gái Ấn. Khi nàng ra lệnh cho tài xế, giọng nói của nàng đượm vẻ oai vệ chứ không rụt rè như Văn Bình lầm tưởng. Quẹo trái, nghĩa là qua Cửa Đề li (Delhi Gate), con đường mà Văn Bình lựa chọn để đến gặp mệ Khương. Chàng bèn hỏi cô gái:

-Tại sao cô không đi thẳng?

Nàng đáp:

-Em đổi ý kiến.

Nàng nói tiếng Anh thành thạo, chứng tỏ nàng có học thức. Có cơ hội quan sát nét mặt nàng, chàng hơi ngạc nhiên. Chàng biết nàng còn trẻ, song không dè nàng lại trẻ đến thế. Cô gái đang ngồi chung xe với chàng chỉ trạc 14, 15 tuổi là cùng. Dĩ nhiên, chàng không sửng sốt lâu vì tuy luật lệ được cách mạnh hóa, người Ấn vẫn giữ tục tảo hôn. Con gái 14, 15 tuổi thường đã là đàn bà. Mặt nàng hơi buồn. Chàng bỗng có cảm nghĩ nàng là vườn cây non dưới trời nắng từ lâu, đang tương tư nước mát. Thân thể nàng cân đối, song đó là sự cân đối tự nhiên, chứ không không phải do sự lang chạ với đàn ông. Chàng bèn cất tiếng:

-Tôi cũng bắt nước cô đổi ý kiến.

Cô gái cười ròn rã. Lối cười của nàng hoàn toàn Tây phương. Đàn ông trên thế giới vốn hiểu lầm đàn bà. Ngoài đường, họ khiêm tốn, luôn luôn đi sau, không ngồi cùng bàn ăn với chồng. Nhưng coi chừng … khi về đến nhà, người chồng đừng hòng coi họ là nô lệ. Nếu không có sự tiến bộ, phụ nữ Ấn cũng không đến nỗi khổ sở. Vì ngay trong thần thoại cũng như lịch sử bản xứ, phụ nữ đã được nhìn nhận có quyền « hưởng ái ân nhiều hơn đàn ông 8 lần ». ( Xin nhắc lại, hơn 8 lần ). Họ được tận hưởng đến nỗi bệnh lãnh cảm trở thành bệnh hầu như xa lạ đối với họ. Những đặc ân do phong tục, tập quán mà ra, cộng với công cuộc giải phóng nữ quyền đã biến họ thành con người sung sướng nhất nhì Viễn đông về phương diện ái tình. Văn Bình nhích lại gần cô gái:

-Cô cười đẹp ghê!

Cô gái vội mím miệng:

-Em xin lỗi ông. Chú em đã dặn đi dặn lại nhiều lần mà em vẫn quên.

-Dặn gì?

-Góa phụ còn trinh không nên cười nhớt nhả trước mặt người lạ.

-Góa phụ còn trinh?

Văn Bình buột miệng một cách hồn nhiên. Đến khi chàng biết được sự vụng về của mình thì đã muộn. Kể ra, chàng sửng sốt là đúng. Chàng qua lại đất Ấn như đi chợ, song chàng chưa hề nghe nói đến từ « góa phụ còn trinh ». Nhưng chàng vừa buột miệng thì nàng đã sa sầm nét mặt. Nàng nghiêm mặt nhìn qua bên kia đường. Xích lô máy đã chạy qua cửa Đề li. Hình dáng uy nghi của ngôi nhà thờ lớn nhất Ấn đã hiện ra sừng sững. Bắt đầu từ đây là khu vực cổ thành.

Cô gái chìm đắm trong im lặng. Tài xế vẫn cắm cúi lái, không quan tâm đến câu chuyện giữa hành khách. Văn Bình nắm tay nàng:

-Cô vừa nhắc đến ông chú. Chú cô là ai?

Nàng quay lại, ngó chàng bằng cặp mắt ngơ ngác, một sự ngơ ngác hoàn toàn thành thật:

-Ông không biết chú của em ư? Tại sao chú em lại nói là quen ông, rất quen ông?

-Rất quen tôi? Tên ông chú là gì?

-Mahan. Chú của em là Mahan.

Mahan là phó giám đốc trú sứ Sở Mật Vụ của ông Hoàng tại Tân Đề li.

Chú thích:

(1) rượu bờhan là rượu có chất ma túy ở Ấn độ. Tác giả đã giải thích về rượu bờhan trong bộ truyện « Hận vàng Ấn độ », đã xuất bản.

(2) « sukờriya » là « cám ơn » theo tiếng hindi. Người Ấn còn một tiếng khác để tỏ sự cám ơn, đó là « đania-a-oát ». Điều đáng ghi nhận là tuy có tiếng cám ơn, người Ấn rất ít khi nói cám ơn, cũng như có tiếng « mêhátbanisê » là « xin lỗi », « cảm phiền » mà họ lại rất ít khi xin lỗi. Đó không phải là thiếu lịch thiệp, mà là do truyền thống dân tộc.

(3) đó là chi Kalyo Kengyus. Dân số Naga khoảng 200.000, người kalyo chiếm từ 5 đến 10 phần trăm.

(4) con rhinocéros, gọi là tây ngu hoặc tê ngưu. Tê giác là sừng của tây ngu.

(5) đó là giá chính thức năm 1968 – 1970.

(6) năm 1908, chỉ còn sót lại hơn 10 con ở Atsam, và 20 con ở Diến điện. Hiện tây ngu ở Diến chỉ còn rất ít. Năm 1953, chính quyền Atsam lập rừng cấm, gồm 400 km2, không ai được phép săn bắn. Hiện nay có chừng 250 tây ngu ở đó, và trong số này, chỉ có chừng 5 hoặc 15 con thần tê.

(7) đúng 100% như cách làm tình của động vật.

(8) Rajghat, nơi nhục thể của thánh Cam Địa Gandhi được hỏa táng sau ngày ông bị một người đồng hương ám sát. Mỗi ngày thứ sáu trong tuần (ngày thứ sáu là ngày Cam Địa bị chết) người Ấn đều làm lễ tại đó.