← Quay lại trang sách

Chương III Thiên đàng hay địa ngục

Đây là sự bất ngờ thứ 3 từ sau khi Văn Bình đặt chân xuống đất Ấn độ. Chàng biết chắc bị theo dõi, song sự bất ngờ đối với chàng là bị bạn theo, không phải địch theo. Theo phía sau một cách tài tình, và chính xác. Mahan phải là tay cừ khôi. Chàng có nhiều kinh nghiệm mà vẫn bị nhân viên của hắn bám sát dễ dàng. Quãng trường Connốt gồm một chục ngả đường khác nhau. Tại sao Mahan đoán được chàng lẻn ra đường Mintô để sai cô cháu mĩ miều phục sẵn với chiếc xích lô máy?

Chàng chưa hỏi, cô gái đã nhanh nhẩu giải thích:

-Em cứ sợ lạc mất ông. Chú em nói là tiếp xúc với ông tại lữ quán không được an toàn, nên thừa cơ đối phương rình rập ông ngoài đường, em sẽ tương kế tựu kế gặp ông.

-Chú Mahan đang chờ tôi ở đâu?

Vô tình chàng vừa tôn Mahan làm chú. Chàng gọi hắn bằng chú cũng chẳng thiệt nào. Còn lợi nữa là khác. Được ôm cô gái nhỏ bé bằng trét tay này vào lòng thì gọi Mahan bằng « ông cố nội » chàng cũng sẵn sàng, chứ đừng nói gọi là « chú hờ » nữa. Nàng cười tươi rói:

-Đang đi phía sau. Chú Mahan liên lạc với em bằng vô tuyền cầm tay.

Chàng hỏi:

-Bây giờ cô dẫn tôi đi đâu

Nàng nhìn quanh một vòng rồi đáp:

-Xích lô đậu bên ngoài đền Jama (1), rồi ông vào bên trong.

-Còn cô?

-Em phải chờ. Chú Mahan sẽ đến sau, từ 5 đến 10 phút.

-Trong trường hợp không gặp nhau?

-Chắc chắn gặp. Ông đừng đi đâu hết. Chú Mahan dặn ông cứ bách bộ lên cửa bắc, rồi lẩn quẩn quanh đó.

-Biết đâu đấy. Trong trường hợp tôi không gặp chú Mahan, phiền cô trình lại là chập tối tôi sẽ trở về khách sạn Sứ Thần.

Chàng tần ngần ngắm tòa giáo đường bằng cẩm thạch trắng và đá sỏi được xây cất trong thế kỷ 17 đang lấp lánh Trước mặt, những cái tháp tròn và nhọn đâm thẳng lên trời. Giáo đường đã đồ sộ, lại được đặt trên nền cao, từ mặt đất lên đến ngưỡng cửa đều phải trèo 20 bậc đá, nên toàn bộ trở nên đồ sộ hơn. Bất giác, Văn Bình cảm thấy bé nhỏ như hột bụi. Cô gái lại cười hồn nhiên. Chàng sực nhớ đến tiếng « góa phụ còn trinh » nàng vừa thốt. Tại sao đã thành góa phụ chết chồng mà còn trinh nữ? Tại sao góa phụ còn trinh không được phép cười?

Vừa cười, nàng vừa nói:

-Sắp đến rồi đấy.

Xích lô máy bớt tốc độ, và lăn bánh từ từ. Văn Bình lại hỏi nàng:

-Tên cô là gì?

Nàng cười to thêm:

-Chú Mahan khuyên em không nên cho người lạ biết tên. Đàn ông lạ càng nguy hiểm hơn nữa.

-Tôi là đàn ông không nguy hiểm.

-Xì … trông ông như vậy mà không nguy hiểm ư? Nguy hiểm nhất đời đấy. Nhưng ông là bạn của chú Mahan nên không lẽ em giấu tên ở nhà của em là Amalaka.

-Trời cái tên nghe êm như điệu nhạc.

-Ông lầm. Amalaka chỉ là tên của trái lê.

Chàng nhìn ngực nàng chằm chằm:

-Cái tên « Amalaka » này rất hợp với cô.

Mặt nàng ửng đỏ:

-Chào ông.

-Chào cô Amalaka. Tiếng nước tôi cũng có « amalaka », đó là « tuyết lê ». Cô có 2 trái … tuyết lê tuyệt vời. Ai làm chồng cô là kẻ vô cùng hạnh phúc.

-Ông lầm. Ai làm chồng em thì khổ. Em đã trải qua 2 đời chồng.

-Cô bao nhiêu tuổi?

-Mười ba. Em lấy chồng năm lên năm. Chồng em lớn hơn em 3 tuổi. Chồng em bị chết về bệnh đậu mùa. Năm em lên 8, em lấy chồng lần thứ hai. Và chồng cũng chết. Lần này chết vì tai nạn xe hơi. Em mới 10 tuổi thì đã 2 lần góa bụa.

-Tôi hiểu rồi. Cô lấy chồng, nhưng chồng cô còn quá nhỏ tuổi, không hề có chuyện ăn nằm nên cô được liệt vào thành phần « góa phụ còn trinh ».

Hai má nàng đỏ hơn. Rụt rè mãi, nàng mới thốt được tiếng « vâng ». Cũng may, xe đã đến nơi. Văn Bình xuống xe, bước thẳng về phía cửa đền. Chàng quên chào gã xa phu. Quên cả thưởng tiền cho hắn. Chàng không dám chần chờ bên Amalaka Tuyết lê, vì sợ nàng sẵn sàng ngả đầu vào vai chàng. Chàng phải đến Lũy đỏ để gặp mệ Khương như đã hẹn. Và chàng không muốn Mahan biết. Chàng cũng không muốn vương lụy giai nhân « còn trinh » trước khi bắt tay vào công việc, 1 công việc mà chàng tiên đoán sẽ hết sức gay cấn.

Ra khỏi đại giáo đường bằng cửa bắc, Văn Bình tiến vào đường Chadni Chowk, con đường khi xưa được coi là chứa nhiều vàng bạc nhất thế giới. Khi xưa, nó là đường lớn. Nó ở trước hoàng cung. Nhà vua ra lệnh đắp thật rộng để xe long mã và đoàn tùy tùng của ngài có thể qua lại dễ dàng. Ngày nay, nó biến thành 1 trong những con đường nghẽn kẹt, với xe hơi cao lêu nghêu, taxi chạy ọc ạch bên cạnh đoàn xe thổ mộ do ngựa kéo, và những con lừa chở hàng nặng chĩu trên lưng. Ngày nay, du khách thích mua đồ cổ thường đến đó. Tuy thành phố Tân Đề Li có trên 600 tiệm kim hoàn, chỉ những tiệm kim hoàn ở đường Chadni Chowk mới luôn luôn bán đồ cổ bằng vàng bạc quý giá.

Đi hết đường thì đến Lũy đỏ, tức Cung điện đỏ, chạy dài hơn một cây số dọc bờ sông. Văn Bình không để ý tới lời chào mời đon đả của đạo binh nam nữ bán hình ảnh du lịch loạn xị màu sắc ở hai bên lối đi từ cửa ngọ môn vào nội điện.

Tiền điện gồm 2 gian phòng lớn. Văn Bình tạt qua gian phòng được giành cho các cuộc bệ kiến. Trong quá khứ vàng son oanh liệt, bức tường đá hoa của phòng thiết triều này được cẩn toàn kim cương và ngọc bích, sau đó binh sĩ viễn chinh Anh đã thổ phỉ gần hết. Nhà vua ngự trên long sàng bằng vàng khối, bên dưới cái lọng lấp lánh hạt soàn. Thần dân vào bệ kiến không dám ngẩng đầu lên chiêm ngưỡng mặt rồng sợ bị xử tử về tội khi quân.

Mệ Khương hẹn chàng tại gian phòng được xây bằng cẩm thạch trắng, nơi nhà vua tiếp khách đặc biệt. Văn Bình chưa nhìn thấy mệ Khương ở đâu. Giòng chữ khoe khoang vẫn nhảy múa trăn tường:

« Nếu quả thật có thiên đàng hạ giới

thì phải đến nơi đây.

Vâng, phải đến nơi đây,

mới tìm thấy thiên đàng. »

-Kìa, anh Z.28. Anh đã tìm thấy thiên đàng rồi chứ?

Chàng nhận ngay được giọng mệ Khương. Mệ xa quê hương đã lâu nên tiếng nói không còn trau truốt, lại pha vẻ lơ lớ của người ngoại quốc mặc dầu mệ vẫn giữ lại lối phát âm nằng nặng mà êm tai của miền sông Hương núi Ngự chôn rau cắt rốn.

Mệ Khương từ sau cây cột lớn bước ra. Cây cột khá lớn, mệ núp đó đã lâu song Văn Bình không nhìn thấy. Nếu chàng nhìn thấy, chàng vẫn phải ngần ngừ trước khi có thể quyết định người lạ là Nguyễn phước Vĩnh Khương tức mệ Khương, cựu trấn thủ viên của Sở Mật Vụ Sàigòn ở khu vực biên giới Diến điện –Atsam…

Mệ Khương phục sức theo lối maharaját. Tiếng maharaját được dùng để chỉ những kẻ đại quyền quý, đại phú ông Ấn độ. Mệ vẫn có dáng điệu ung dung như thời xưa, nhưng bệ vệ hơn nhiều. Chắc mệ khoái món ăn bản xứ (kể cả món ăn ái tình nữa), và đớp hít thật nhiều nên thân thể mệ căng phồng từ đầu xuống chân. Cằm mệ có ba nấc, cổ mệ tròn bạnh đầy thịt mỡ. Cái bụng của mệ vượt ra phía trước, không thua bụng đàn bà chửa 7, 8 tháng là bao, không khéo còn to hơn nữa.

Trông mệ, Văn Bình liên tưởng ngay đến tấm hình maharaját vẽ trên mọi áp-phích, tài liệu quảng cáo của công ty hàng không Air India. Nghĩa là mệ chít khăn rực rỡ và mặc áp dài kim tuyến, thắt lưng bạc óng ánh, mặt mệ láng bóng điểm rõ bộ râu mép được gọt tỉa công phu và bôi dầu thơm. Nhìn bức họa ông maharaját, du khách nào khó tính cũng đâm ra có thiện cảm với đất Ấn. du khách nào khét tiếng xi-măng cốt sắt cũng xỉa ngay tiền mua vé để đến Ấn viếng thăm một chuyến dối già.

Dưới tấm hình maharaját (2), hãng máy bay Air India thường chua thêm giòng chữ hấp dẫn « quí ngài sẽ được đón tiếp như một maharaját », nghĩa là được nghênh tiếp thật long trọng, thật nồng nàn.

Mệ Khương cúi đầu, chắp tay trước ngực xá Văn Bình. Khi ấy, Văn Bình có cảm tưởng chính chàng mới là maharaját. Chàng đáp lễ, mệ Khương cười nhe hàm răng vàng:

-Trời ơi, 10 năm nay anh vẫn không thay đổi chút nào. Không gầy, cũng không mập thêm. Lại chưa có nếp răn nào trên mặt, chưa có cả sợi tóc bạc nào mới lạ chứ… Anh vớ được thuốc hườn cải lão hoàn đồng, phải không?

Văn Bình cười theo:

-Phải. Nhờ con thần tê của anh đấy. Bộ mật nó đắng kinh khủng, tôi nghe lời anh dặn nên pha rượu, nhắm mắt uống hết. Lâu lắm tôi muốn mua sừng. Bên nhà không thiếu gì, song không tốt bằng. Tôi không dè anh còn lang thang ở đây. Nếu biết, tôi đã vù sang, yêu cầu anh dẫn lên rừng, bắn lén vài con tây ngu nữa.

-Không được đâu. Chính phủ cấm đoán rất nghiêm khắc. Nhưng anh đừng ngại, tôi sẽ kiếm giùm anh một cặp sừng thật tốt. Từ khách sạn đến đây, anh có bị theo không?

-Có.

-Biết mà. Nhân viên của Nagúpta dai như đỉa đói.

-Anh vừa nhắc đến Nagúpta.

-Vâng. Hắn là xếp hiện thời của tôi. Nếu tôi không lầm anh cũng sẽ gặp hắn.

-Nagúpta, giám đốc hãng chuyên chở đường bộ và đường biển Raga?

-Phải. Hãng Raga chỉ là bức bình phong cho Nagúpta hoạt động, buôn lậu, bán tin tức, đâm thuê chém mướn, nghĩa là tất cả những công việc gì có thể mang lại tiền bạc, rõ nhiều tiền bạc. Sở dĩ anh qua đây do một nguồn tin quan trọng được Nagúpta cung cấp.

-Anh biết hơi nhiều. Biết hơi nhiều thì anh càng dễ lên đường về xứ của giun dế.

-Sinh ư nghệ, tử ư nghệ mà anh!

-Ô kia, tôi tưởng anh đã giải nghệ từ sau vụ giai nhân Naga…

-Vâng, sau khi anh tha tôi và nhắm mắt cho tôi vù khỏi bắc Diến, tôi sống liền tù tì 3 năm trên núi. Lòng tự dặn lòng nhất quyết không đa mang cái nghề điệp báo bạc bẽo này nữa. Nhưng anh ơi, nghĩ thì dễ mà làm thì quá khó. Dường như con ma điệp báo nó đã thâm nhập lục phủ ngũ tạng, và len lỏi vào huyết quản của tôi. Tôi sống ẩn dật tại tiểu bang Atsam được đúng 3 năm rồi dọt về đây. Phần vì con ma điệp báo, nhưng phần khác cũng do con ma … giai nhân, anh ạ. Tôi yêu một cô gái Ấn, quê quán ở Đề Li. Nàng về xứ, bắt buộc tôi phải về theo. Rồi từ đó tôi khám phá ra một chân lý mới. Đó là đàn bà con gái ở đây rất hợp của kiến thức Kama Sutra của tôi. Và tôi đã ở lại. Tôi chơi bời ngông ngạo hơn cả ông maharaját, uống rượu cũng dám đánh bại cả thần Lưu Linh. Đó là chưa kể đến cái thú đổ bác… vì thế tôi cần tiền. Tôi cần tiền như con người cần thở dưỡng khí. Từ 18 tháng nay, tôi làm việc cho Nagúpta.

-Làm việc gì?

-Như anh đã biết, tôi chuyên về mật mã. Tôi suýt mất mạng vì cuốn sổ mật mã cách đây 10 năm. Giờ đây tôi lại làm việc kiểm thính và phiên dịch mật mã cho Nagúpta. Do đó, tôi phăng ra những mưu đồ của hắn nhân dịp anh đến Ấn.

-Mưu đồ ra sao?

-Hắn sẽ thộp cổ anh.

-Hừ… tóm được tôi không phải dễ.

-Nagúpta bắt được anh hay không, đó là chuyện khác. Tôi hàm ơn anh, từ bao năm nay tôi trông chờ cái ngày được tái ngộ. Hẳn anh đã biết, tôi không phải là phường vong ân bội nghĩa. Tôi có bổn phận giúp anh phá hỏng kế hoạch thâm độc của bè lũ Nagúpta.

-Anh biết tôi đến đây với mục đích nào chưa?

-Biết. Ông Hoàng muốn anh đích thân giáp mặt thiếu tướng Kôvic để xem có thật Kôvic tha thiết « chọn tự do » hay đó chỉ là độc kế.

-Ai nói với anh như vậy?

-Xin anh miễn hỏi.

-Anh cũng có liên hệ với Mahan?

-Không. Tôi từng đi ăn, đi chơi với Mahan nhiều lần, song không hoạt động chung với hắn. Có nhiều lý do, thứ nhất giá tôi năn nỉ xin được phục vụ dưới quyền hắn, hắn cũng không dám kết nạp vì hồ sơ đen về tôi đang còn rành rành. Thứ hai, cho dẫu hắn năn nỉ tôi cũng phải lạy cả tơi lẫn nón.

-Hai người không hợp nhau.

-Hắn và tôi như sao hôm và sao mai, không tài nào gặp nhau được.

-Hồi nãy, hẹn với tôi, anh sợ Nagúpta hay sợ Mahan cho nhân viên đi theo tôi?

-Sợ cả hai.

-Anh không tin Mahan?

-Tôi không phải là ông tổng giám đốc Hoàng để có đủ thẩm quyền và trách nhiệm xét đoán về sự trung thành của Mahan. Vả lại, vấn đề đặt ra không phải là tin hay không tin Mahan. Tôi chỉ sợ Mahan bố trí lỏng lẻo hoặc vụng về, Nagúpta phăng ra nơi hẹn thì nguy.

-Nagúpta sẽ giết anh?

-Dĩ nhiên. Chẳng giấu gì anh, hiện nay tôi thèm sống hơn ai hết. Kinh điển Kama Sutra đã hoàn toàn biến đổi tinh thần và thể xác của tôi. Tôi báo tin cho anh đề phòng là để đền đáp ơn xưa, nhưng cũng bảo vệ mạng sống. Nagúpta còn thì tôi phải mất. Tôi là thư sinh trói con gà không chặt, tôi không thể hạ thủ được hắn. Sau lưng hắn còn một tổ chức hùng hậu. Hắn chỉ giơ ngón tay là tôi bị nghiền nát như cám. Tôi thiết nghĩ chỉ có anh mới loại trừ được thần ôn dịch Nagúpta.

-Đồng ý. Trong mấy ngày nữa, anh sẽ được ăn no ngủ kỹ bên cạnh người đẹp da bánh mật của anh. Mục đích chuyến đi này của tôi là tìm gặp Kôvic. Nagúpta hay ông thiên lôi ngăn cản, tôi không cần biết. Dầu Nagúpta có ba đầu sáu tay tôi cũng sẽ làm mất chỗ đội nón. Tuy nhiên, trong công tác lệnh không thấy ghi Kôvic hiện ở đâu. Dường như Mahan cũng không biết.

-Tôi được đọc bức mật điện Kôvic nhờ Nagúpta chuyển về Sàigòn cho ông Hoàng. Bức điện chỉ nói là thiếu tướng Kôvic chờ đặc phái viên Sàigòn tại Snac.

-Đúng. Kôvic nói là đợi tôi tại Snac. Tôi đã coi hết bản đồ Ấn chẳng thấy địa danh nào mang tên Snac cả. Vả lại, cái tên Snac có vẻ xa lạ đối với tiếng Ấn. Máy điện tử ở Sàigòn đã lục soát hàng triệu địa danh khác nhau trên thế giới, từ tên một làng xã hẻo lánh đến tên một đường phố vô danh tiểu tốt, nhưng rốt cuộc đã chịu đầu hàng. Máy IBM không biết, song tôi có ấn tượng anh biết.

-Anh đánh giá tôi quá cao.

-Hừ, anh Vĩnh Khương … nếu anh cố tình giấu diếm, tôi sẽ chấm dứt cuộc hợp tác giữa hai ta.

-Anh đừng giận tôi, tội nghiệp. Tôi không ăn nhậu gì trong vụ này. Như anh rõ, tôi có thể kiếm nhiều tiền, tôi lén gặp anh về vụ Kôvic chẳng phải để hy vọng lãnh thưởng. Tôi chỉ muốn Nagúpta chết càng sớm càng tốt. Tôi không quen thề, song nếu anh không tin, tôi sẽ xin thề độc. Thú thật với anh, tôi đã nghĩ nát óc, và tôi cũng chưa phăng ra Snac là nơi nào nữa.

-Nagúpta biết không?

-Tôi chưa đủ yếu tố để trả lời anh. Nhưng theo tôi nghĩ thì Nagúpta chưa biết.

-Vậy thì sự tiếp xúc của anh với tôi hôm nay chẳng có ích lợi gì cả.

-Ích lợi lắm chứ! Anh thử nhớ lại hai điều kiện do Kôvi đưa ra để « chọn tự do », bên cạnh điều kiện tiền bạc. Đó là Kôvic chỉ chịu quy thuận với đại tá Z.28. Kôvic chỉ chịu lên đường cùng với Myriam, người yêu của hắn, hiện là phụ tá tham vụ văn hóa tại sứ quán Liên sô ở đây. Điều này có nghĩa là Myriam biết rõ Snac ở đâu.

-Anh quen nàng?

-Không. Nhưng tôi đã lo liệu giùm anh. Với tư cách phụ tá tham vụ văn hóa Myriam đang tham quan và nghiên cứu thắng cảnh lịch sử Khajuraho, cách đây 2 giờ rưỡi đồng hồ máy bay. Thôi, tôi đi đây, tôi không thể nán thêm phút nào nữa. Tôi vừa thoáng thấy một khuôn mặt khả nghi. Có lẽ hắn là đàn em của thằng ôn dịch Nagúpta. Trước khi từ giã, tôi xin nhắc lại là tôi không mong được đền bù gì cả, ngoại trừ bằng tính mạng của Nagúpta. Tôi tin chắc anh thành công…Mỏa đi…ô-voa toa nhé!

Suốt 15 phút trò chuyện với chàng, mệ Khương chỉ dùng tiếng anh và tôi nghiêm chỉnh. Nhưng đến khi chia tay, mệ lại tếu như ngày xưa, toa toa mỏa mỏa rối rít.

Tuy thân thể phì nộn, mệ Khương bước rảo lẹ làng. Trong loáng mắt, mệ đã biến sau hàng cột. Văn Bình chưa ra vội. Chàng muốn lưu lại để viếng thăm kỳ hết những thắng tích ngàn một đêm lẻ của cung điện đỏ. Thật vậy, chàng đã đến đây nhiều lần, song chàng luôn luôn hối hả. Chàng chưa có dịp vào sâu hơn nữa. Chàng nghe nói khi xưa ban đêm vườn hoa trong cung được thắp đèn dầu, vậy mà ánh sáng vẫn tỏa chiếu rực rỡ. Nước sông được chuyển vào bằng ống cống lớn phun chảy rào rào như hàng trăm, hàng ngàn con rắn thần uốn khúc dưới ánh đèn. Và khi xưa, những đêm trăng mát, những chiều sương lạnh, nhà vua thường kề vai ái phi tản bộ trong vườn, giữa những thớt voi đồ sộ thắng yên vàng chói lọi, quản tượng dõng dạc ra lệnh thì chúng kính cẩn quỳ gối, rước nhà vua lên. Và trên lưng voi là căn phòng đầy đủ tiện nghi, có cả giường ngọc, nệm lông thú, gối gấm, sơn hào hải vị và mỹ tửu để nhà vua ôm ấp giai nhân…

Làm vua sướng thật! Văn Bình đã nếm trải mọi thú yêu đương, song chưa hề được biết thú yêu đương trên lưng voi khổng lồ trong vườn hoa thơm ngào ngạt, nghe tiếng giòng sông róc rách, tiếng đàn sitar du dương từ cung vàng điện ngọc vẳng ra xen lẫn tiếng kêu của chó sói đực từ đỉnh đồi ngoại ô vọng tới… Trời ơi, chừng nào chàng được ngự trên lưng voi và thực hành 29 kiểu làm tình của cẩm nang Kama Sutra!

Bất giác Văn Bình nhớ đến KS.29.

Trái tim chàng đập liên hồi như thể chàng vừa chạy một hơi từ ngọ môn vào cung điện đỏ. Giác quan thứ sáu bắt chàng máy mắt và giật thớ thịt cổ.

Chàng quay nhìn phía sau. Mệ Khương tức KS.29 đã biến dạng.

Bỗng chàng nghe tiếng thét. Tiếng thét bằng Việt ngữ, nghe rợn tóc gáy:

-Cứu tôi với, Z.28.

Tiếng kêu này đích thật là của mệ Khương. Nó phát xuất từ góc vườn thượng uyển, phía gần bờ sông Jamuna. Nơi đó chàng thấy người đi lại khá đông.

Chàng phóng tới như tên bắn. Đám đông lố nhố rẽ sang hai bên. Mệ Khương nằm thẳng băng trên nền cỏ úa. Mệ vốn là shaki nổi danh –shaki là người làm nghề hướng dẫn du khách săn bắn- mệ đã quen với bản năng đánh hơi nguy hiểm và né tránh lằn tên mũi đạn của dã thú. Vậy mà mệ vẫn chết.

Sinh ư nghệ, tử ư nghệ, mệ Khương vừa tâm sự xong với chàng thì bị ngã gục. Một mũi tên tre xuyên trúng tim mệ. Đây là loại tre vầu, cứng không thua kim khí. Tre vầu ở bộ lạc Naga được coi là rắn nhất. Mệ Khương từng dậy Văn Bình cách chọn tre trong rừng già, và cách chẻ tre, vót thành tên, cho vào nồi luộc chín trước khi phơi nắng, hong sương, và ngâm trong rượu pha nhựa rễ cây. Loại tên tre vầu này có tác dụng giết người trong nháy mắt. Chỉ trầy sớt da thịt, thuốc độc ngấm vào máu là vô phương cứu chữa.

Mệ Khương không trối trăn được tiếng nào. Dầu còn hấp hối để trối trăn, mệ cũng không thể chỉ điểm hung thủ. Chung quanh Văn Bình toàn là đàn ông mặc áo trắng rộng thùng thình, quần trắng rộng thùng thình bó ngang mắt cá. Nước da đen bẩn, lối phục sức đã giống nhau, nét mặt lại đều giống nhau như đúc. Và làn da đen thường che lấp những khác biệt trên dung mạo.

Thấy mệ Khương chết, đám đông vẫn thản nhiên. Nngười Ấn đã quá quen với cảnh chết chóc. Một người mau miệng thốt lên một tiếng ngắn.

Văn Bình nhanh tay thó cái bót phơi của mệ Khương nhét vào túi mình. Sự hiện diện của chàng ở đây không cần thiết nữa. Như thể hai chân được gắn động cơ phản lực, chàng vù khỏi Lũy đỏ.

Trời đang còn sáng. Trước mặt chàng là những con đường hẻm ngoằn ngoèo, gập ghềnh và những cửa hàng bán thượng vàng hạ cám, thiếu không khí, thiếu vệ sinh, thiếu cả bóng dáng của các cô gái dậy thì nẩy nở. Đám thày bói râu ria xồm xoàm, móng tay đầy đất ghét, áo ướt đẫm bồ hôi dầu đang quạt phành phạch trên vỉa hè, tiếp tục thiên hô bát sát với những thân chủ nhẹ dạ. Hành khất già trẻ nam nữ, gày béo tụ tập đông đúc. Văn Bình vừa ló diện họ đã ùa lại như ruồi nhặng. Cũng may một chiếc xích lô máy chở hai du khách tây phương áo quần chỉnh tề đậu xịch gần đó. Hai du khách này có vẻ xộp hơn nên Văn Bình thoát nạn.

Chàng chạy sát lề để tránh con bò cái đang nằm tênh hênh ngoài đường. Bề ngang con đường chỉ bằng hai xải tay nên con bò cái đã làm giao thông tắc nghẽn. Chàng đổ vào hẻm, vượt qua cửa hàng hỗn độn của người thợ vá giày dép, đồ đoàn cũng choán hết hẻm như con bò cái ngoài lộ, suýt đâm phải bác cai hớt tóc đang hành nghề, tay cầm con dao lưỡi cong rỉ sét trông như lưỡi liềm nhỏ…

15 phút sau Văn Bình mới ra khỏi mê hồn trận của khu cổ thành.

***

Đến gần khách sạn Sứ Thần, Văn Bình đậu taxi. Đó không phải là biện pháp đề phòng thường lệ vì chàng chẳng cần đề phòng nữa. Người ta đã biết chàng đến Tân Đề Li. Nếu kẻ ra lệnh giết mệ Khương là Nagúpta thì chắc chắn hắn ta chưa đụng đến da thịt chàng. Cho dẫu hung thủ là ai chăng nữa, là KGB hay Quốc tế Tình báo Sở, địch vẫn để chàng sống. Sống cho đến khi chàng phăng ra địa chỉ Snac trên bản đồ…

Chàng đậu xe vì nhìn thấy giai nhân Tuyết Lê Amalaka đang nhẩn nha trên lề đường. Chàng gọi nàng là Tuyết Lê không đến nỗi ngoa ngữ. Nàng đã thay đổi y phục. Cái sari quốc hồn quốc túy đã nhường chỗ cho cái áo pull dán khít. Nàng mặc pull hồng, màu áo hồng làm tăng vẻ nõn nà của làn da ngăm ngăm. Khi nàng khoác sari, nàng đã xứng với hỗn danh tuyết lê. Giờ đây, với áo thun chật ních, chàng mới nhận thấy tiếng amalaka đúng, chao ôi là…đúng…

Chàng lẩm bẩm một mình:

-Thì ra ông Hoàng bị nghi oan…

Chàng đã nghi oan ông tổng giám đốc tìm cách đẩy chàng xa Sàigòn. Trước giờ lên đường, chàng đinh ninh vụ Kôvic buồn như trấu cắn. Và chàng đã lầm to… Chàng lầm to khi xô cửa buya-rô ông Hoàng…

Chàng chưa kịp yên vị trong cái ghế bành nệm đỏ quen thuộc kê trước bàn giấy khói xì-gà bốc nghi ngút thì ông Hoàng đã nhập đề:

-Anh còn nhớ Kôvic không?

Dầu trí nhớ chàng thuộc loại bết bát, chàng cũng quên được con người mang tên Kôvic, công dân Liên Sô. Phương chi óc chàng nhớ dai không thua óc điện tử IBM. Chàng đáp liền:

-Thưa nhớ. Tình cờ tôi đã cứu hắn khỏi bị đánh tan xương nát thịt trong một vũ trường ở Luân Đôn. Nếu tôi biết Kôvic là ông bự KGB sô viết, đội lốt nhân viên phái bộ thương mãi, và những tên anh chị vây đánh hắn đêm đó chỉ là cớm Anh quốc cải trang, tôi đã không giơ ngón tay út can thiệp. Thú thật với ông, bây giờ tôi vẫn tiếc. Rõ không cái dại nào bằng cái dại nào…

-Không dại đâu. Bằng chứng là không có vụ ẩu đả này thì không thể có đề nghị của tướng Kôvic hôm nay.

Văn Bình ghé qua Luân Đôn để thăm một người bạn « du hí » trong sứ quán. Chỉ có thế thôi, ngoài ra không có công vụ nào khác. Chàng dự tính nghỉ lại một đêm, lang thang xuống xóm yên hoa rồi sáng sớm leo máy bay đi Nữu ước trên đường trở về Sàigòn. Chàng đang khiêu vũ thì ẩu đả xảy ra. Một đám người trang bị quả đấm sắt và dây sên xe đạp bất thần gây gổ với hai tửu khách mặc dạ phục. Ngay trong phút đầu, hai tửu khách đã ăn đòn đau. Một trong hai tửu khách là Kôvic, khi ấy mới là đại tá nhiệm chức KGB. Bạn hắn bị quất gẫy xương nằm sụm trên đất, một mình hắn phải đương đầu với 4 kẻ địch to lớn, am tường quyền cước.

Máu giang hồ hành hiệp nổi lên trong huyết quản Văn Bình. Chẳng cần đợi Kôvic kêu cứu, chàng lao vào vòng chiến. Và trong phút chốc, 4 nhân viên MI-6 cải trang làm dân du đãng bị đánh thua liểng xiểng. Kôvic mời Văn Bình đến một hộp đêm sang trọng khác để uống rượu tẩy trần. Chưa hết, hắn còn mời chàng về nhà riêng, tiếp tục công cuộc thù tạc say sưa. Vì cũng như chàng, Kôvic là một cây rượu và là một cây chơi bời có hạng.

Đến rạng đông, Kovic sai tài xế đưa chàng về lữ quán để chàng sửa soạn ra phi trường. 5 phút trước khi máy bay cất cánh, chàng gặp một phụ tá thân tín của ông M. tổng giám đốc tình báo Anh quốc. Viên phụ tá này kéo chàng vào góc phòng đợi và « xổ nho » luôn một hơi không ngừng. Té ra Kôvic núp sau chiêu bài phái bộ thương mãi hiền lành để lượm lặt tin tức quốc phòng và tổ chức màng lưới do thám trên đất Anh cát lợi. Ông M. muốn trục xuất Kôvic song hắn ăn vụng chùi mép rất giỏi, ông không tìm ra bằng cớ. Nên ông M. bày ra trò say rượu giành gái ở xóm thanh lâu để tẩm quất Kôvic thành tật chứ không đánh chết. Mưu cơ của ông bị thất bại hoàn toàn vì Văn Bình đã bốc đồng can thiệp. Văn Bình chết lặng người. Chàng chỉ biết xin lỗi rồi cúi gằm, mang bộ mặt đưa đám lên máy bay.

Đến Nữu ước, chàng xuống thang máy bay thì có người chực sẵn trao cho chàng một bức điện. Bức điện được gởi theo thủ tục khẩn cấp của hệ thống thương mãi, ký tên K. ở dưới, và ghi những chữ như sau « Thành thật cám ơn và suốt đời sẽ không quên hành động đẹp này của một đối thủ đáng kính ».

Đối với đại tá Kôvic, Văn Bình còn hơn là đối thủ nữa. Tuy chàng không quen hắn, chàng vẫn là kẻ thù bất cộng đái thiên của hắn. Vì hắn giữ chân trọng yếu trong guồng máy mật vụ sô viết KGB, và chàng cũng giữ chân trọng yếu trong guồng máy mật vụ của ông Hoàng. Đêm ấy, lẽ ra chàng phải đánh hôi. Nếu chàng sợ quần hùng quốc tế chê cười thì tối thiểu chàng cũng phải ngồi yên uống rượu. Vì trước đó 6 tháng, đại tá Kôvic đã làm thịt một đường dây của ông Hoàng từ Ba Lê đến Bá Linh, khiến gần một tá điệp viên lớn nhỏ do ông Hoàng mất bao nhiêu công phu đào luyện bị cháy tan nát. Hơn thế nữa, hai điệp viên bị cầm tù, một bị thiệt mạng…

Chàng đang điếng người, như thể anh chồng chung thủy bị cô vợ đẹp cắm một đống sừng lên đầu. Chàng về đến Sàigòn thì điệp văn phản đối của ông tổng giám đốc M. còn nằm trên bàn ông Hoàng. Ông Hoàng đưa cho chàng đọc rồi cất vào hồ sơ, nói lảng sang chuyện khác. Ông già gớm thật! Có lẽ từ khi ấy, ông Hoàng đã nhìn thấy những việc sẽ xảy ra cho hùm sám sô viết Kôvic.

-Không dại đâu. Bằng chứng là không có vụ ẩu đả này thì không thể có đề nghị của tướng Kôvic hôm nay.

Ông Hoàng thở một vòng khói xì-gà Havan rồi nói tiếp:

-Lúc Kôvic tình cờ gặp anh ở Luân Đôn, hắn mới đeo lon đại tá nhiệm chức. Trong các quân đội tây phương, từ tá lên tướng rất khó. Trong quân đội cộng sản sô viết, ngoài những khó khăn thường lệ, còn vấn đề tin cậy nữa. Phải được Trung ương Đảng tin cậy và KGB bảo lãnh thì mới có hy vọng ngấm nghé ngôi sao.

Kôvic chỉ làm đại tá nhiệm chức một thời gian ngắn. Hắn trở về Mạc tư khoa phục vụ tại tổng hành doanh KGB rồi được vinh thăng thiếu tướng. Anh đã đoán được lý do tại sao hắn thăng quan tiến chức mau lẹ chưa?

-Thưa, chắc hắn có pít-tông hạng đại bên Trung ương Đảng.

-Đúng. Như anh đã biết, Trung ương Đảng, cơ quan lãnh đạo tối cao Liên Sô được chia thành nhiều bộ. Con số mỗi thời một khác. Năm 1966 có 32 bộ, gọi là otdiel. Otdiel đảm trách các cơ quan an ninh, tình báo, do thám và phản gián, nghĩa là điều khiển KGB, GRU, Smerch… được ngụy trang dưới một cái tên hiền lành là bộ Công vụ.

Đại tướng Mirônốp (3) chỉ huy bộ công vụ cho đến ngày 19-10-1964, bốn ngày sau khi thủ tướng Cút-sép bị truất phế. Tướng Mirônốp giữ chức này từ năm 1959, sau khi lập được những thành tích rực rỡ trong đảng bộ Lênin-gờrát.

Ngày 19-10 năm ấy, tướng Mirônốp đáp phi cơ riêng từ Mạc tư khoa đi Bel-gờrát để tham dự lễ kỷ niệm 20 năm Hồng quân giải phóng thủ đô Nam Tư. Cùng đi với Mirônốp có thống chế Biriuzốp (4), tổng tham mưu trưởng Hồng quân.

Phái đoàn gồm 5 sĩ quan cao cấp, và 2 nhân viên phi hành. Chiếc Illusin 18 bay gần đến Bel-gờrát, gặp trời mưa, gió và sương mù dầy đặc, nên hạ xuống độ cao 1.000 mét. Nhưng phi công lại đâm vào núi Avala, và mọi người trên máy bay đều tử nạn. Cuộc điều tra chính thức sau đó cho biết tai nạn xảy ra là do lỗi của phi công. Nhưng các chuyên viên tình báo tây phương có bằng cớ là phi cơ bị phá hoại. Mặc dầu thống chế Biriuzốp được làm lễ quốc táng, người ta vẫn hiểu ngầm sở dĩ tai nạn xảy ra là do Biriuzốp thân cận Cút-sếp, và có khả năng đảo chính lật ngược thế cờ đưa Cút-sếp trở lại lãnh đạo. Tướng Mirônốp cũng vậy, tuy không phải là đàn em keo sơn của Cút-sếp, hắn đã biết quá nhiều. Phe chống Cút-sếp sợ hắn còn sống sẽ di hại về sau. Nên một mũi tên bắn hai con chim, phe chống Cút-sếp đã thừa dịp cuộc kinh lý Bel-gờrát ám sát luôn Biriuzốp và Mirônốp. (5)

Anh vừa dùng một tiếng lóng. Tiếng pít-tông để chỉ thế lực thầm kín nhưng cực mạnh của Kôvic. Pít-tông của Kôvic trong Trung ương Đảng giúp hắn trèo từ úy lên tá, từ tá lên tướng nhanh như chớp nhoáng là cố đại tướng Mirônốp và cố thống chế Biriuzốp. Cả hai đều có liên hệ máu mủ với Kôvic…

-Mirônốp chết, Kôvic bị rơi vào tình trạng thất sủng?

-Phải. Khi ấy, Kôvic đang phụ trách nha Nam Á và Viễn đông trong KGB. Tên tuổi hắn bị chìm vào quên lãng một thời gian. Hắn mất đặc quyền từng có từ nhiều năm qua. Rồi hắn mất chức điều khiển ơ Trung ương. Hắn lại mất luôn quyền được phục vụ ở hải ngoại. Hắn bị đầy tới một xó xỉnh trên lãnh thổ sô viết. Gần đây, hắn tìm cách liên lạc với tôi, và yêu cầu được « chọn tự do ».

-Kôvic muốn trốn khỏi Liên Sô?

-Hắn nói rõ tài liệu gởi cho tôi là hắn sẵn sàng hợp tác với tôi.

-Bao nhiêu triệu mỹ kim, thưa ông?

-Anh đánh giá thiếu tướng Kôvic quá thấp. Hắn không đòi quá nhiều. Thường lệ, một thủ lãnh cỡ như hắn trị giá từ 5 triệu đô la trở lên. Hắn đòi 5 triệu tôi cũng chấp thuận ngay, không bàn cãi. Đằng này hắn chỉ đòi lấy lệ, vỏn vẹn 500 ngàn. Hắn giải thích là vấn đề tiền bạc đối với hắn không quan trọng. Chẳng lẽ hắn « chọn tự do » bố thí nên hắn phải đặt giá. Trong nhiều năm tại chức, Kôvic đã gởi được nhiều tiền ở nước ngoài. Đối với hắn, quan trọng hơn hết là vấn đề tình cảm.

-Vợ con hắn còn mắc kẹt ở Liên Sô?

-Năm nay hắn trạc 50, 52 tuổi gì đó. Hắn cưới vợ từ năm 25, sau khi tốt nghiệp đại học. Vợ hắn không sinh đẻ lần nào, và cách đây 10, 15 năm vợ hắn chết vì bệnh đau gan. Ai cũng tưởng hắn sẽ tục huyền nhanh chóng. Mãi đến thời gian gần đây, Kôvic mới tìm được bạn lòng tên là Myriam. Nàng cũng là nhân viên KGB như hắn. Dĩ nhiên ở cấp thấp, Myriam còn trẻ, khoảng 23, 24 tuổi. Kôvic đặt điều kiện Myriam cùng « chọn tự do » với hắn. Điều kiện thứ hai là phải có sự hiện diện của anh, hắn mới tin tưởng.

-Kôvic liên lạc với ông theo đường dây nào?

-Qua trung gian của Nagúpta ở Tân Đề Li. Đại diện của ta tại chỗ là Mahan. Hắn mang tên chà và trăm phần trăm, nhưng lại quen húp nước mắm. Song thân hắn lập nghiệp ở Sàigòn, mở cửa hàng tơ lụa to lớn. Mahan về quê hương để học, tôi kết nạp hắn vào Tổ chức. Từ nhiều năm nay, hắn giúp ta được nhiều việc quan trọng. Hiện Mahan là chuyên viên về tiểu lục địa Ấn. Đành rằng Kôvic chỉ chịu thương lượng với anh, anh cũng cần có Mahan mới khỏi lạ nước lạ cái.

-Tại sao Kôvic không đi thẳng với ta mà lại qua trung gian Nagúpta?

-Kôvic từng có liên hệ với Nagúpta từ trước. Hồi Kôvic lãnh quyền sinh sát của KGB quanh giải Hy mã Lạp sơn, Nagúpta đã làm thuê cho hắn một vài vụ. Có vẻ Nagúpta tỏ ra sòng phẳng và kín miệng nên Kôvic nhờ hắn móc nối với ta.

-Nghĩa là Nagúpta biết nơi Kôvic ẩn náu?

-Không. Nagúpta chỉ có bổn phận chuyển đề nghị của Kôvic cho ta. Ta bằng lòng trả công hắn 300 ngàn đô la.

-Ngồi không ở giữa, chỉ tốn chút nước miếng mà được lãnh 300 ngàn đô la. Tôi nhận thấy dạo này ông hơi … hào phóng.

-Hừ… 300 ngàn, chứ 3 triệu đô la, tôi cũng không mà cả…Tuy nhiên, điều làm tôi băn khoăn không phải vì số tiền 300 ngàn quá nhiều như anh nghĩ, mà là quá ít… Kinh nghiệm như Nagúpta phải biết Kôvic trị giá gấp mấy chụcc lần số tiền 300 ngàn…

-Sự kiện này cho thấy Nagúpta có thể hai lòng…

-Nagúpta là kẻ hai lòng từ lâu. Hai lòng còn là ít, hắn ăn mảnh với 3, 4 nơi một lúc nữa kia. Tôi có ấn tượng Nagúpta thi hành kế hoạch của KGB.

-Chờ tôi ló đầu là chộp.

-Chính thế. Không những tôi ngờ Nagúpta, tôi còn ngờ cả Kôvic nữa. Vẫn biết Kôvic bị thất sủng, nhưng biết đâu đấy…

-Nói tóm lại, chuyến này ông muốn tôi qua Ấn độ để chui đầu vào dây thòng lọng?

-Cũng gần như thế. Chỉ khác một điểm là dây thòng lọng có thể đã mục…

Ông tổng giám đốc đẩy lại gần chàng cái phong bì lớn đựng hình cát pốt tan Myriam được chụp toàn thân bằng màu. Nàng không đẹp mấy.

Văn Bình vốn ưa những điệp vụ có mặt đàn bà đẹp nên tấm ảnh của Myriam làm chàng kém hăng say. Ấn độ là xứ nóng chảy mỡ, nếu chàng phải sống bên cạnh những người đàn bà không có gì đặc sắc như Myriam thì chán chết.

Sự thật đã khác hẳn. Chàng đã nghi oan ông Hoàng. Chưa biết Myriam bằng xương bằng thịt ra sao, nhưng chỉ riêng Tuyết Lê diện áo hồng đang biểu diễn đường cong góa phụ còn trinh dưới ánh hoàng hôn cũng đủ đáng đồng tiền bát gạo.

Con đường hơi vắng. Tấm thân cân đối của Tuyết Lê núng nẩy cạnh gốc cây kim tước hoa vàng chóe. Cửa xe taxi thuộc loại cổ lỗ sĩ nên chàng mở mãi không chịu bung ra. Mắt chàng vẫn dán chặt lấy bộ ngực ngon lành của Tuyết Lê. Vì vậy chàng thấy rõ những sự việc xảy ra loang loáng như lằn chớp xẹt…

Nàng đang đứng bỗng nghiêng mình, rồi nhanh như chim cắt, nàng phóng nhoài trên đất. Trong khoảnh khắc, nàng đã trốn khuất sau giãy xe hơi san sát đậu sát lề.

Cũng khi ấy, một loạt đạn tiểu liên nổ ròn. Hung thủ không nhắm bắn Văn Bình. Mục phiêu của hung thủ lại là cô gái mặc áo thun hồng, nhưng nàng đã tinh mắt né tránh nên băng đạn thép đã cắm thành hàng dài trên tường và thân cây kim tước.

Rõ ràng là hung thủ không muốn giết chàng. Nếu muốn, hung thủ đã có thể núp sau đám đông ở Lũy đỏ tặng chàng một mũi tên độc. Chiếc taxi chở chàng lại nằm trong tầm súng của hung thủ. Họ chỉ giết những cộng sự viên của chàng…

Lạ lùng… Bí mật…

Chàng vừa xô bật cửa xe thì một loạt đạn tiểu liên khác cất lên. Tiếng nổ này kêu chóc chóc nghe rùng rợn. Té ra Tuyết Lê không đợi một mình trên vỉa hè. Vệ sĩ của nàng đã chực sẵn trong hẻm. Chiếc díp đeo bảng số tư nhân, mui và sườn bằng tôn cứng chạy vèo tới và nhả đạn. Hung thủ trên xe díp gồm 2 tên. Họ bắn không trúng. Song họ bị trúng đạn. Vỏ xe phía trước bị bắn xẹp. Tay lái loạng choạng. Một lằn đạn xẹt qua khung cửa, xuyên qua màng tang từ phải sang trái. Tài xế chết ngay trên vô-lăng.

Chiếc díp mất người điều khiển đâm sầm vào cây kim tước hoa vàng chóe.

Và tiếng súng chết chóc cũng ngừng nổ.

Chú thích:

(1) giáo đường Jama Masjid.

(2) maharajah.

(3) tức Nikolai Romanovitch Mironov. Tướng Mironov còn là thượng cấp của tổng giám đốc KGB hồi đó là Semitchastuy, người được coi là trùm mật vụ Liên Sô.

(4) thống chế Sergei S. Biriuzov, hồi đệ nhị thế chiến là tư lệnh quân đoàn 37 giải phóng Nam Tư, sau là tư lệnh đơn vị hỏa tiễn. Chết lúc 60 tuổi.

(5) vụ phá hoại phi cơ này có thật. Chuyên viên tình báo tây phương tiết lộ các cao kế trên phi cơ đã bị một bàn tay bí mật làm hư hỏng.