Chương XIV Đoạn kết
Địch gồm đúng 4 tên. Một tên không mang súng. Ba tên còn lại chia nhau canh gác cẩn mật, mắt gườm gườm. Trông mặt, Văn Bình biết địch là người Tàu.
Myriam ồ một tiếng kinh ngạc. Tên xếp bước vào phòng. Cao lớn. Khôi ngô. Trạc 35, 36 tuổi. Phục sức diêm dúa. Sống mũi cao và tròng mắt xanh biếc của người Trung Hoa lai tây phương.
Gã mắt xanh chào Myriam. Nàng nhìn hắn, chép miệng, nửa bực bội, nửa chán chường:
-Té ra ở đâu cũng gặp ông!
Gã mắt xanh nói với Văn Bình:
-Xin phép ông được tự giới thiệu: cô Myriam đã gặp tôi một lần tại đền Khạ.
Văn Bình cười gằn:
-Ông khỏi vỗ ngực khoe khoang tôi cũng biết. Ông là cộng sự viên của "xã trưởng Giang Chung".
-Vâng, bọn tôi được xã trưởng phái đến nghênh đón tướng Kôvic và ông.
-Riêng tôi, tôi chẳng hẹp hòi gì, song còn tướng Kôvic. Hiện Kôvic ở chỗ khác.
-Chỗ nào?
-Ông cảm phiền, tôi không thể tiết lộ.
Gã mắt xanh cười ha hả:
-Không thể tiết lộ cũng không sao. Nào, mời cô Myriam và ông Văn Bình xuống xe.
Myriam vùng vằng:
-Đây là xứ người, ông xớ rớ đến tôi, phản gián Ấn độ sẽ không để yên.
-Dĩ nhiên, tôi sẽ không xớ rớ đến cô. Và cô sẽ ngoan ngoãn đi theo tôi.
-Ông không được hỗn xược.
-Cô tha lỗi cho lối phát biểu hơi tàn nhẫn của tôi, nhưng sự thật là vậy, sự thật là cô sẽ ngoan ngoãn đi theo tôi.
-Ông lầm. Tôi chẳng đi đâu cả. Tôi sẽ ở trong phòng này. Tôi sẽ cố thủ tại khách sạn Oberoi.
-Cô từ chối, tôi không dám ép. Chào cô, chúng tôi xuống xe, cô cần nhắn tướng Kôvic điều gì không?
Myriam bàng hoàng:
-Ông nói sao? Tướng Kôvic lọt vào tay ông rồi ư?
Gã mắt xanh nhún vai:
-Vâng, tướng Kôvic đang chờ cô. Xin cô quyết định càng sớm càng tốt.
-Nghĩa là các ông đã bắt được tướng Kôvic?
-Tự Kôvic đến với chúng tôi. Trong thời gian còn hoạt động ở ven núi Hy mã, tướng Kôvic và đồng chí xã trưởng chống đối nhau. Nhưng tình hình đã đổi khác, tướng Kôvic xét thấy về với chúng tôi hơn là đi theo ông Hoàng.
-Ai báo tin ông biết chúng tôi ở đây?
-Đại tá Văn Bình Z.28.
-Khổ quá, tôi cứ đinh ninh…
-Chết…cô đừng nghi oan ông Văn Bình. Nếu Văn Bình chịu làm việc với chúng tôi thì còn hân hạnh nào bằng. Cô ơi, ông Văn Bình chỉ báo tin gián tiếp. Tại đền Khạ, tôi đã giấu dụng cụ truyền âm bén nhậy trong xách tay của cô. Dọc đường cô nói gì, mọi người nói gì, chúng tôi đều nghe hết. Ông Văn Bình lập kế cho Kôvic thoát thân, không dè chúng tôi đã đợi sẵn bên ngoài.
Myriam nín lặng, liếc Văn Bình. Bắt gặp luồng nhỡ tuyến soi mói của chàng, nàng vội nhìn ra góc. Avalốp và Gấu trắng vẫn còn sống. Riêng Avalốp có vẻ bị thương nặng hơn, hơi thở lịm dần, da mặt trắng nhợt.
Gã mắt xanh hất hàm hỏi Văn Bình:
-Về phần ông, ông tính sao?
Văn Bình đáp:
-Lâu nay tôi mới nghe danh, chưa được diện kiến xã trưởng Giang Chung. Âu đây cũng là dịp may cho tôi.
Gã mắt xanh nói:
-Xã trưởng đã già, mà còn cường tráng và minh mẫn. Võ nghệ của ông được liệt vào hàng thượng thừa, nhưng ông chưa ăn thua gì đối với xã trưởng. Dầu sao ông cũng giúp chúng tôi được một việc quan hệ vô giá. Thú thật, nếu ông không ra mặt chưa biết đến ngày nào chúng tôi mới trừ khử được bọn ác ôn trong ban 13, nhất là Khỉ đột và Gấu trắng. Tài nghệ của Khỉ đột không đáng sợ lắm, nhưng còn Gấu trắng… Hắn đã giết hàng chục đồng chí của tôi. Nhờ ông, chúng tôi đã nhổ được cây gai lớn nhất. Nhân danh Tình báo Sở, tôi xin trân trọng cám ơn ông…
-Cám ơn trước khi tặng viên đạn 9 li vào trũng gáy rồi ném xác cho quạ rỉa!
-Đối xử với bậc kỳ tài, chỉ có trọng dụng hoặc giết. Tôi không tin xã trưởng ra lệnh giết ông. Về kình lực, ông là võ sư độc nhất vô nhị ở châu Á. Dầu ông từng hạ thủ những võ sĩ xuất sắc nhất của Bắc kinh như Tsu Kiang, Nêmin, Antôn… dầu ông tiếp tục gây thù kết oán với Tình báo Sở, chúng tôi vẫn muốn triệu thỉnh ông làm đệ nhất huấn luyện viên võ thuật.
Đám đông dạt sang bên. Nghe Avalốp rên nho nhỏ, Myriam động lòng quay lại hỏi gã mắt xanh:
-Avalốp còn sống, ông ơi!
Hắn đáp:
-Vâng, còn sống.
-Tại sao ông không dìu đi luôn?
-Avalốp và Gấu trắng phải ở lại. Nhân viên của tôi sẽ chích thuốc cho họ.
-Chích thuốc gì?
-Cô phục vụ từ lâu cho KGB mà còn ngây thơ quá.
Myriam nín lặng. Nàng bắt đầu hiểu. Chích thuốc ở đây không phải là thuốc khỏe, mà là thuốc độc.
Gã mắt xanh dẫn mọi người xuống sân. Trời đã tối mù. Gã mắt xanh nói:
-Theo lý số Trung hoa, ngày có nguyệt thực hoặc nhật thực là ngày rất xấu. Avalốp khôn như ranh, hắn đinh ninh xã trưởng tin dị đoan không dám hạ lệnh xuất quân hôm nay, Và hắn sẽ tha hồ múa gậy vườn hoang… Hắn không ngờ xã trưởng rất giỏi nhâm độn. Ngày xấu thì chọn giờ tốt. Chúng tôi vượt biên giới nhằm giờ hoàng đạo. Avalốp và ông thua là tất nhiên.
Văn Bình nhún vai:
-Xã trưởng xủ quẻ về tôi ra sao?
-Âm mưu đòn phép của ông bị thất bại.
-Hừ, nhân viên của tôi có thể giải cứu tôi bất cứ lúc nào.
-Ông lừa được Avalốp, đừng hòng lừa chúng tôi. Tôi đã đọc bức thư ông viết cho Kôvic. Ông dặn Kôvic đến một khách sạn nhỏ cách đây hai trăm mét, giết Khỉ đột rồi gọi dây nói về. Sau đó Kôvic phải đến khách sạn Park, cũng ở trên đường này, chờ ông. Chẳng có ma nào đón tiếp Kôvic. Đúng hay sai, đại tá Văn Bình?
Myriam nhìn Văn Bình, nôn nóng chờ chàng trả lời. Chàng không nói nửa lời. Nàng hỏi:
-Đúng hay sai, hả anh?
Văn Bình đáp ngắn:
-Đúng.
Myriam òa khóc. Từ nãy đến giờ, nàng nuôi hy vọng tràn trề. Hy vọng này vụt biến. Thế là hết. Tình báo Sở hứa đãi ngộ Kôvic đàng hoàng, song nàng không tin. Kôvic đặt kỳ vọng vào Văn Bình. Theo Kôvic, Văn Bình là điệp viên vô địch. Sự thật đã chứng tỏ chàng thua không còn manh giáp.
Viên quản lý mập ú và lùn tịt chờ sẵn phía dưới cầu thang, bộ điệu xun xoe. Với sự tiếp sức của viên quản lý, gã mắt xanh Tình báo Sở đoạt được ưu thắng là chuyện dĩ nhiên. Viên quản lý chào gã mắt xanh, rồi báo cáo:
-Thưa thượng tá, kế hoạch đã hoàn tất.
À ra gã mắt xanh là thượng tá. Chắc hắn là thượng tá chính hiệu chứ không « nhảy dù » như chàng. Gã mắt xanh thượng tá gật gù, quay lại nói với Văn Bình:
-Quên, chưa tự giới thiệu, tôi cũng đeo lon tá như anh, tôi có vóc dáng tây phương nhưng lại là người Trung hoa, tôi hơi lai, mọi người thường gọi tôi là thượng tá Lai. Đây là viên quản lý. Nếu Avalốp còn sống, hắn sẽ thổ huyết mà chết vì hắn đinh ninh trăm phần trăm nhân viên khách sạn Oberoi tối mắt tối mũi trước đống giấy bạc của hắn. Chẳng giấu gì anh, viên quản lý làm việc cho tôi từ lâu.
Trước khi xuống hết thang gác, quẹo ra sân, thượng tá Lai hỏi quản lý:
-Bọn nó nằm ở đâu?
Viên quản lý chỉ một căn phòng đối diện:
-Thưa, trong này.
-Cả thằng nốt ruồi?
-Vâng, có cả.
Thượng tá Lai cười ha hả, lấy gót chân đạp cửa phòng. Hắn trở thành chủ nhân ông tuyệt đối. Hắn không thèm giữ gìn gì nữa. Văn Bình cảm thấy tim đau nhói: chàng đã biết « thằng nốt ruồi » thượng tá Lai vừa nhắc đến là ai.
Đây là căn phòng trống, bốn bức tường cũng như nền nhà hoàn toàn trần trụi.
Trên nền gạch hoa bóng, một giãy xác chết nằm sóng sượt. Xác chết nào cũng mang vết thương loe máu trên ngực. Cả bọn bị hạ sát bằng súng và đều là nhân viên ban 13 của Avalốp. Nạn nhân nào cũng trúng đạn vào tim, trên khuôn mặt còn lại vẻ ngơ ngác, chứng tỏ bị hạ sát bất thần.
Thượng tá Lai đá xác chết gần nhất, hỏi Văn Bình:
-Anh biết họ chứ?
Văn Bình đáp:
-Biết.
Thượng tá Lai dẫn chàng lại góc phòng, chỉ xác chết nằm co quắp, nước da khá trắng trẻo, cặp mắt còn mở trừng trừng như chứa đầy uất hận:
-Anh cũng biết thằng này?
Thượng tá Lai là đối thủ ghê gớm. Hắn đã ra lệnh loại trừ gã bồi phòng 25, nghĩa là hắn đã biết rõ những bí mật về Kôvic.
Gã bồi phòng 25, cộng sự viên thân tín của Kôvic trong khách sạn Oberoi, cũng bị giết bằng viên đạn xuyên tim. Văn Bình thở dài khi nhìn hai nốt ruồi hồng trên mặt hắn. Theo tướng số Á đông, nốt ruồi son thường nâng tuổi thọ. Nốt ruồi son trên màng tang là triệu chứng sống rất lâu, thế mà gã bồi thiệt mạng. Trời, nạn nhân còn trẻ măng, tay chân, thân hình tròn trịa, típ người rất hợp với đàn bà khó tính.
Thượng tá Lai nói:
-Cám ơn anh đã giết giùm Nagúpta và Pisa. Nagúpta giỏi võ, nếu anh không ra tay, chúng tôi tất vất vả lắm.
-Mấy người bắn súng trước phòng tôi cũng là nhân viên của anh?
-Phải. Chẳng hiểu chúng làm ăn cách nào mà bị bọn KGB phát hiện. Nhưng vậy mà hay, vì kế hoạch của xã trưởng dễ thành công hơn.
Mọi người ra xe. Thượng tá Lai vỗ vai viên quản lý ra hiệu từ giã. Hai chiếc xe hơi đen lăn bánh từ từ trên con đường rộng giữa tiếng gió rào rào từ dưới hồ thổi lại.
Xe chạy được một quãng ngắn thì dừng. Văn Bình nghe tiếng gió rõ hơn. Những rặng cây hiện lờ mờ trên nền hồ loang loáng ánh bạc. Văn Bình hỏi:
-Hồ Dal?
Thuợng tá Lai đáp:
-Vâng, mời anh xuống thuyền hoa.
Cảnh tượng đang mở ra trước mắt Văn Bình nhuộm vẻ đột ngột huyền ảo như trong tiểu thuyết thần thoại. Bờ hồ đang tối om bỗng sáng rực, chiếu rõ giẫy thuyền máy lớn nhỏ đủ cỡ đang buông neo hoặc lướt từ từ trên mặt hồ phẳng lặng. Trong số này có loại thuyền sikara trang trí đẹp mắt và hiền dịu như thôn nữ dậy thì. Thuyền sikara chở được 4 người là một hình thức taxi thông dụng ở đây. Sikara thi vị hơn đò sông Hương, nó rộng hơn, an toàn hơn, khách có thể nhấm nháp trên mặt nước, và đặc biệt là hẹn hò không bị kiểm tục quấy rầy với những bông hoa biết nói trinh nguyên.
Sông Hương của đất Thần kinh không có thuyền máy lớn như ngôi nhà tục gọi là nhà-nổi như ở Sờri-naga. Văn Bình nhìn thấy hơn chục ngôi nhà-nổi đậu rải rác ven hồ (1).
Loại nhà-nổi này thường gồm 3, 4 phòng ngủ sang trọng, có buồng tắm đầy đủ nước nóng, nước lạnh, và sân thượng khang trang, trồng hoa thơm rực rỡ, để khách tắm nắng buổi sáng và uống rượu buổi tối. Nhà-nổi được trang bị máy phát điện riêng, đôi khi có thêm nhiều sikara xinh xắn kèm theo dùng làm nơi nấu nướng, và nơi gia nhân cư ngụ.
Sàn thuyền trơn bóng được ráp bằng gỗ quý, trông như gỗ lúp. Văn Bình không thấy một hột bụi. Du thuyền của giới tỉ phú tây phương thiết tưởng cũng sang trọng đến như thế là cùng. Khoang thuyền được điều hòa khí hậu, các cửa kính đều gắn bản lề tự động êm ru, khách đặt chân trên những tấm thảm len sặc sỡ dệt bằng tay. Văn Bình ngây ngất như lạc vào lâu đài ngàn một đêm lẻ.
Chàng ghé tai thượng tá Lai:
-Nhà-nổi đẹp quá! Tuy nhiên tôi sợ không an toàn. Dùng phi cơ nhẹ, vượt biên giới vừa nhanh vừa tiện hơn.
-Anh sui dại tôi hả? Trên đỉnh núi phía đông, đối diện biên giới nước tôi, KGB lén đặt nhiều toán phòng không đặc biệt, mỗi toán gồm 2 nhân viên, một tên vác đạn, một tên mang ống phóng hỏa tiễn, loại hỏa tiễn tầm nhiệt của họ chính xác kinh khủng, phi cơ phải bay thật cao mới thoát khỏi tầm bắn. Nhưng Sờri-naga giống cái chậu thau, mình vừa từ đáy chậu bay lên là bọn KGB bấm nút, và chắc chắn ăn đạn. Chỉ một hỏa tiễn tầm nhiệt đủ phá nát một phi cơ cỡ lớn, huống hồ trực thăng bay thấp hoặc phi cơ nhẹ của Quốc tế Tình báo Sở. Chúng mình đi thuyền an toàn hơn…
-KGB có thể chặn lại dọc đường.
-Anh mong như vậy lắm. Nhưng anh ơi, chúng tôi đã nghiên cứu kỹ càng. Anh nên ăn no ngủ kỹ, đừng suy nghĩ quá nhiều mà tổn thọ.
Kôvic đang ngồi ủ rũ trong ghế, quay mặt ra cửa. Thấy Văn Bình và Myriam, hắn có vẻ mừng rỡ, nhưng hắn vẫn không nhúc nhích.
Myriam nghẹn ngào gục vào vai Kôvic. Hắn gỡ nàng ra, giọng buồn bã:
-Cháu không khác mẹ cháu chút nào. Vui lên, Avalốp đã bị giết, có gì mà khóc?
Đoạn quay sang Văn Bình:
-Xin lỗi anh đã mất bao công phu và thiện chí từ Sàigòn qua Ấn, mầy mò lên tận Cát-sơ-mia tìm tôi. Sự việc xảy ra hoàn toàn bất khả kháng. Tôi rất muốn đi với anh, nhưng "xã trưởng Giang Chung" đòi rước tôi về Bắc kinh. Dầu muốn dầu không, tôi phải chịu trách nhiệm phần nào về việc anh bị kẹt hôm nay. Anh yên tâm, tôi là con người sòng phẳng, nếu anh không được trả tự do, tôi sẽ từ chối hợp tác với xã trưởng.
Thượng tá Lai mở cửa, mời Văn Bình qua ca-bin đối diện. Phòng này hẹp hơn, song được trang trí tối tân và đầy đủ. Thượng tá Lai bảo chàng:
-Anh phải ở luôn trong phòng, không được đi đâu. Nếu anh cần liên lạc, xin nhấc điện thoại. Phong cảnh bên hồ khá đẹp đẽ, ra đến sông lớn còn đẹp hơn nữa, nhưng tôi không thể cho phép anh ngưỡng ngoạn vì điều kiện an ninh. Chúng ta đang ở trong địa phận Cát-sơ-mia, chừng nào ra khỏi vùng nguy hiểm, anh muốn làm gì tùy ý.
Văn Bình cởi áo ngoài, vứt xuống giường. Chàng đốt thuốc Salem, hút được nửa điếu với rượu huýt ky thì thức ăn được bưng tới. Quả thượng tá Lai lo liệu chu đáo! Trên con thuyền lênh đênh ở xứ lạ, hắn đã khoản đãi chàng thịnh soạn không kém ở đại phạn quán Bắc kinh, với cái khay bạc hình tròn, đũa ngọc bích, bát ăn nạm vàng, và đĩa sứ Giang tây đựng những món ăn cầu kỳ.
Thượng tá Lai kéo ghế ngồi ăn với Văn Bình. Hắn giải thích:
-Lẽ ra mâm cơm này chỉ được giành riêng cho anh. Sở dĩ tôi thù tiếp vì sợ anh lo ngại không dám dúng đũa. Tôi ngồi chung bàn để đảm bảo thức ăn không trộn thuốc mê.
Thượng tá Lai cười nói huyên thiên, uống rượu vô hồi kỳ trận. Cũng như Văn Bình, càng uống nhiều hắn càng tỉnh. Uống đến lúc trên bàn không còn giọt rượu nào nữa, Văn Bình mới ngả lưng xuống giường.
Giác quan thứ sáu bỗng kéo chàng dậy. Tuy khí hậu được điều hòa, cửa đóng kín, Văn Bình vẫn nghe rõ tiếng máy nổ xình xịch. Con thuyền đang chạy từ từ đột nhiên khựng lại, rung chuyển dữ dội, rồi băng mình trên làn nước phẳng. Thường loại nhà-nổi này di chuyển rất chậm, từ hồ Dal qua hồ Nagin chỉ cách 3 cây số mà nó chạy mất 5 giờ đồng hồ. Chắc thượng tá Lai đã gắn động cơ đặc biệt, nghĩa là thượng tá Lai tìm mọi cách ra khỏi địa phận Sờri-naga trong một thời gian ngắn…
Văn Bình cảm thấy cổ họng khô đét. Nếu kế hoạch của chàng bị trục trặc, chỉ một trục trặc nhỏ bé, là con thuyền chở Kôvic thoát khỏi vòng tay…Chốc chốc chàng lại ngó cườm tay. Chàng vốn điềm tĩnh mà vẫn nóng ruột khác thường.
Con thuyền cứ chạy mỗi lúc một nhanh. Nhiều khi nó cưỡi sóng vùn vụt như thể nó là chiếc ca-nô nhỏ bé. Văn Bình vặn núm cửa, cánh cửa chỉ mở vào được một phân tây rồi bị chặn lại. Chàng cười nhạt: thượng tá Lai đã móc khóa bên ngoài. Hắn quên rằng nếu muốn thoát thân, chàng chỉ dùng vai húc nhẹ là tấm gỗ quý nát bấy…
Chàng đi đi lại lại trong ca-bin, giết thời giờ bằng cách mường tượng đến cái eo bằng trét tay của Tuyết Lê, và nghệ thuật làm tình say mê độc đáo của những cô gái Ấn bán khoán cho thần linh gọi là đevađasi…
Nhưng Văn Bình không thể mơ mộng được lâu. Động cơ của ngôi nhà-nổi kêu đẹt đẹt một chuỗi ngắn rồi ngưng nổ. Nhà-nổi đậu lại. Lần này sàn thuyền tròng trành như sắp đắm. Văn Bình xuống tấn, kềm chân xuống mặt gỗ, nếu không đã bị xô bắn vào vách.
Tiếng người nói léo nhéo bên ngoài. Trước đó là mấy tiếng súng ngắn. Văn Bình trèo lên giường, quay mặt vào trong, giả vờ ngủ say. Thượng tá Lai xô cửa. Thấy chàng ngủ, hắn kêu trời đoạn lay chàng dậy. Văn Bình lè nhè một tiếng rồi trở mình. Thượng tá Lai quơ bộ quần áo vứt cho chàng:
-Mặc vào. Cảnh sát giang thuyền chặn tàu lại khám.
Văn Bình ngáp:
-Thế hả? Cám ơn cảnh sát Sờri-naga. Tôi sẽ tố cáo anh là cánh tay phải của xã trưởng Giang Chung. Anh bắt cóc tôi chở về Bắc kinh làm thịt. Muốn tôi ngậm miệng, anh nên thả tôi ra.
Thượng tá Lai cười nhạt:
-Trên thủy lộ này, cảnh sát giang thuyền chặn xét là thường. Cát-sơ-mia vốn là đầu mối tranh chấp giữa Ấn và Hồi. Chính phủ Ấn sợ ngoại bang lén lút võ trang cho dân bộ lạc, anh hiểu chưa? Bọn tôi ăn chịu với tiểu đội giang cảnh từ trước. Nếu họ lạ mặt, tôi có thể vung tiền. Hối lộ không xong, tôi có thể dùng súng. Nào, anh mặc quần áo nhanh lên. Trời đất, ai đời ngủ đêm mà cởi bỏ trần truồng như nhộng…
Bỗng hắn hạ giọng, lẩm bẩm:
-Chậc, ngực nở thật, bụng lép thật! Thân hình thế này chẳng trách các bà các cô chết mệt…
Mọi người trèo lên boong. Phong cảnh bên trên đẹp tuyệt vời. Văn Bình quen sống nguy hiểm, tim óc được trui luyện mà cũng bồi hồi rung động. Trời sắp rạng sáng. Vầng đông lóe rực màu da cam của mặt trời gần mọc và màu trắng óng ánh của những đỉnh núi phủ tuyết. Du thuyền đã ra khỏi hồ Dal và đang lênh đênh trên sông Jelum. Hai bên bờ toàn là tùng bách ngay ngắn, tròn trịa, cân đối và thẳng tắp.
Giang thuyền cảnh sát đậu chềnh ềnh giữa giòng sông, nước trong vắt như thủy tinh. Hai ngọn đèn pha lớn từ giang thuyền chiếu qua nhà-nổi. Lực lượng khám xét túc trực đầy đủ trên boong, gồm nửa tiểu đội, da dẻ đen đủi.
Thượng tá Lai tiến lên, nói với gã tiểu đội trưởng:
-Thuyền chúng tôi chỉ có 3 người khách, nếu thiếu úy muốn, tôi xin trình giấy.
Tiểu đội trưởng, một thanh niên Ấn cao nhẳng, nét mặt xương xương, tóc mai xuống đến gần mép, nhún vai:
-Khỏi cần. Chúng tôi chỉ có nhiệm vụ xét thuyền. Sở dĩ chúng tôi làm phiền quý vị vì có lệnh trên. Chúng tôi được lệnh tìm võ khí lậu được chở qua đây, nên bất cứ tàu thuyền nào cũng bị chặn lại. Yêu cầu quý vị thông cảm.
Gã tiểu độ trưởng khoát tay cho bọn lính tản mát xuống khoang du thuyền. Nhưng ngay khi ấy, một việc bất ngờ xảy ra. Chẳng hiểu sao một cận vệ của thượng tá Lai lóng cóng cách nào để một trái lựu đạn miễng giấu ở thắt lưng tuột rớt xuống sàn. Và đó lại là lựu đạn rút chốt…
Tên cận vệ kêu « trời ơi » rồi phóng mình nằm rạp. Văn Bình ôm Myriam ngã nhào sang bên trái. Oàng oàng…oác oác…lựu đạn nổ tung. Hỗn loạn và kinh hoàng diễn ra. Những khối thịt người trúng miểng sắt té gục. Những tiếng la hét rùng rợn. Sàn nhà-nổi nghiêng hẳn về một phía.
Văn Bình thoáng thấy ba, bốn người bị thương. Bọn còn sống sót, quên cả giữ gìn, vội vã bóp cò lia lịa. Tiếng tiểu liên của cảnh sát giang thuyền át hẳn tiếng súng lục của bọn cận vệ Tình báo Sở. Tiếng tiểu liên AK Tình báo Sở từ đuôi nhà-nổi bắt đầu cất lên ròn rã. Gã tiểu đội trưởng cảnh sát thét tiêu lệnh:
-Ngưng bắn!
Nhưng hai bên vẫn tiếp tục nhả đạn. Phe thượng tá Lai yếu thế rõ rệt, mấy khẩu AK ở đuôi đã bị khóa họng. Văn Bình bò dậy, vừa kịp để nhìn thấy thượng tá Lai chồm lên lưng Kôvic, giơ tay phóng atêmi.
Văn Bình vùng lên, gạt nhẹ, thượng tá Lai chúi xuống. Chàng nghe tiếng ai kêu tên chàng, tiếp theo là một phát súng lục khô khan và một tràng tiểu liên có lẽ bắn vu vơ vào khoảng không. Một xác người ngã vật sau lưng chàng, khẩu AK chạm nền thuyền gây ra âm thanh nhỏ.
Một cô gái nhảy vào du thuyền, khẩu súng trên tay bốc khói khét lẹt. Cô gái là Amalaka Tuyết Lê. Nàng kêu tên Văn Bình để báo tin chàng bị bắn lén. Mọi việc chỉ xảy ra trong vòng nửa tích tắc đồng hồ.
Tuyết Lê mặc đồ chẽn, thân hình nàng càng thon nhỏ và hấp dẫn. Nàng trông ngon lành như trái dâu ướp lạnh với đường trắng và rượu rom thượng hạng Cuba.
Thượng tá Lai băng mình xuống sông. Nhưng nửa xạc-giơ đạn 9 li đã cắm đầy thân thể. Hắn chìm ngập dưới nước. Giòng sông trong vắt trở nên đỏ ngầu trong khoảnh khắc. Kẻ vừa bắn hạ thượng tá Lai là Mahan, phụ tá giám đốc trú sứ Sở Mật Vụ tại Tân Đề Li, chú của giai nhân Tuyết Lê.
Tuyết Lê quăng súng, chạy lại ôm chầm lấy chàng bất chấp mọi người đứng chung quanh. Nàng hôn chàng như thể chàng là người yêu lâu năm xa cách. Mahan phải kéo nàng ra. Myriam trố mắt nhìn Tuyết Lê, lắp bắp mãi mới thành tiếng:
-Té ra …té ra cô Tuyết Lê không bị đau ruột dư!
Văn Bình cười:
-Không. Nàng chỉ áp dụng kế hoạch của tôi. Tôi nghĩ xã trưởng Giang Chung sẽ phỗng tay trên, nên chờ khi màn sắp hạ mới cho xuất đầu lộ diện.
Bọn nhân viên Tình báo Sở nằm chết la liệt. Mahan sai ném xác xuống sông. Những tiếng lõm bõm lần lượt nổi lên. Đoạn Mahan quay sang xiết chặt tay Văn Bình:
-Tôi xin bái phục anh.
Kôvic bị hai viên đạn vào đùi, máu tuôn xối xả. Mahan quỳ xuống xem xét rồi nói:
-Không sao. Tôi có đầy đủ dụng cụ cứu thương.
Mọi người xúm lại khiêng Kôvic qua giang thuyền cảnh sát. Trung tá Vốtsơn của CIA đợi sẵn với chai huýt ky và nụ cười cởi mở. Hắn ôm Văn Bình hôn:
-Thành thật khen ngợi anh.
Hắn rót rượu cho chàng rồi hỏi:
-Mahan nói là anh đã sắp sẵn kế hoạch thoát khỏi Cát-sơ-mia, vì vậy chúng tôi chưa sửa soạn gì cả. Giờ đây, ta đi đâu?
Văn Bình đáp:
-Ngược giòng sông này độ 30 phút nữa sẽ có một bãi trống, được dùng làm sân vận động cho quân đội Anh ngày trước. Giang thuyền của ta sẽ neo lại, và ta sẽ lên phi cơ.
-Phi cơ của ông Hoàng?
-Phải. Nơi đó toàn thông um tùm, phi cơ được ngụy trang rất khéo, trên cao nhìn xuống không thấy. Phi cơ nhẹ này sẽ chở chúng ta qua A phú hãn.
-Anh tính toán như thần. Đại tá Pit nói về anh không ngoa. Sau gần một đêm gay cấn, chắc anh đã thấm mệt. À, tôi đem theo chai sâm-banh tuyệt cú mèo của Pháp, xin khui để mừng anh, mừng điệp vụ của chúng ta thành công vẻ vang.
Giang thuyền cảnh sát phóng nhanh giữa hai bờ sông hoa nở đỏ rực, trên giòng nước cũng bắt đầu đỏ rực. Ca-bin giành cho Văn Bình gồm cái bàn, hai cái ghế, đối diện cái cút-sét gắn vào vách thuyền. Mahan và Myriam còn bận săn sóc vho Kôvic nên trong ca-bin chỉ có Tuyết Lê và Văn Bình. Nàng đeo cứng lấy chàng như thể sợ chàng chắp cánh bay mất. Miệng tươi như hoa nở, Vốtsơn mở nút chai sâm-banh kêu bộp một tiếng ấm áp, chờ rượu hơi sủi trắng rồi rót ra ly. Tuy nhiên, hắn nâng ly lên môi, nhắp được một hớp thì vội đặt xuống, mặt hớt hơ hớt hải:
-Chết, có việc quan trọng, suýt quên…
Vốtsơn lúng búng nói với Văn Bình « anh tha lỗi…chờ tôi một phút nhé…anh cứ uống tự nhiên… » rồi mở cửa chạy nhanh ra ngoài.
5 phút sau hắn trở vào thì Tuyết Lê đã nằm gục xuống nệm bên cạnh Văn Bình. Cả hai đều ngáy o o. Vốtsơn nhếch mép cười nham hiểm, đoạn khóa cửa, lục bên dưới cút-sét ra cái hộp điện đài, cắm điện, kéo ăn-ten, hí hoáy viết trước khi ấn cây cần mã tự truyền tin.
Vốtsơn chuyển bức mật điện ngắn trong vòng 2 phút đồng hồ là hoàn tất. Vốtsơn giật mình khi nghe tiếng Văn Bình cựa quậy và hắng giọng. Cặp mắt điệp viên Z.28 bắn tóe chất thép nóng làm Vốtsơn ran rát da thịt. Hắn run run lùi lại. Văn Bình cười gằn:
-Tôi vẫn còn tỉnh mà anh. Chỉ có Tuyết Lê bị mê mà thôi.
Vốtsơn hỏi, giọng lạc hẳn vì sợ hãi:
-Anh không uống rượu?
-Không. Mặc dầu tôi đang thèm kinh khủng.
-Trời ơi, nghĩa là anh đã khám phá ra vai trò thật của tôi?
-Dĩ nhiên. Không kể chú cháu Mahan, anh là người duy nhất biết tôi xuống đền Khạ gặp Myriam. Xã trưởng Giang Chung chặn bắt Myriam là do anh báo cáo. Những vụ mưu sát Mahan, mưu sát chúng tôi cũng đều do anh báo cáo với Quốc tế Tình báo Sở.
-Hừ…anh Z.28…Tôi đã vô tình rước voi về dầy mồ…Nếu tôi không đề nghị của đại tá Pit thì anh đã chẳng qua đây và…
-Lầm rồi, anh Vốtsơn ơi! Đại tá Pit cũng như ông tổng giám đốc Sì-mít đã phong phanh vai trò hàng hai của anh nên nhờ tôi thử lại đáp số bài toán. Anh muốn hay không muốn thì tôi cũng có mặt tại Ấn. Vốtsơn, anh vừa đánh điện cho xã trưởng?
-Vâng.
-Nói những gì?
-Tôi yêu cầu xã trưởng phái một phi cơ đến bãi trống…Đinh ninh mọi người đã bị mê man, tôi sẽ lên bờ hạ sát phi hành đoàn trên chiếc trực thăng đợi sẵn của Sở Mật Vụ rồi…
-Chẳng có chiếc trực thăng nào hết. Anh đã bị tôi lừa. Chẳng qua tôi nhờ anh mượn tạm phi cơ của Tình báo Sở.
-Trời!
-Số phận anh đã an bài, anh…
-Anh Văn Bình ơi…tôi không chủ tâm phản bội, xin anh xét lại. Tôi xin đái công chuộc tội…Tôi sẽ cung cấp bản mật mã của Tình báo Sở và toàn bộ danh sách điệp viên của họ ở Ấn độ…
-Còn gì nữa?
-Tên hoa tiêu sắp lái phi cơ nhẹ đến là sĩ quan cao cấp Tình báo Sở, xã trưởng rất cưng. Anh tóm được hắn thì đòi gì xã trưởng cũng chấp thuận. Tôi nghe nói cách đây mấy tháng có 3 điệp viên của ông Hoàng bị xã trưởng lừa bắt ở Hồng kông lén giải qua Hoa lục, anh mang tên hoa tiêu ra đổi thì…
-Đồng ý. Vốtsơn, anh đừng nghĩ đến chuyện lộn xộn, nghe không?
-Tôi đâu dám. Tôi hoàn toàn tuân lệnh anh. Anh bảo gì tôi cũng vâng theo, miễn hồ…khỏi lên ghế điện.
-Trong trường hợp anh tuân lệnh triệt để, không những anh không bị bắt về Mỹ ra tòa án quân sự lãnh án tử hình, hoặc ăn viên đạn vào trũng gáy như số phận thông thường của điệp viên hai mang, anh còn được tôi trả tự do nữa.
Vốtsơn mừng muốn chảy nước mắt. Hắn chắp tay xá chàng, song chàng đã nhăn mặt trèo lên boong giang thuyền. Vốtsơn ngoan ngoãn đi theo. Những mảng đen cuối cùng của ban đêm đã tan biến. Giòng sông lượn khúc giữa hai rặng núi cao ngất. Trước mặt, ở một khuỷu sông, một bãi trống xanh rờn cỏ non hiện ra. Bầu trời bao la bắt đầu nhuộm sắc hồng.
Giang thuyền từ từ cập bến. Một lát sau, có tiếng máy bay từ đằng đông vọng lại. Rồi một chiếc phi cơ nhỏ, màu da trời, nương theo những kẽ hở trên đỉnh núi hạ xuống thung lũng, lượn rà rà dọc theo giòng sông ngoằn ngoèo. Văn Bình trao khẩu súng lục cho Vốtsơn. Chẳng nói chẳng rằng, viên trung tá CIA nhét khẩu Tôkarếp vào túi đoạn bước rảo trên thảm cỏ ướt sương trong lúc phi cơ sà hẳn xuống thấp, sửa soạn hạ cánh, cách nơi giang thuyền neo lại một quãng ngắn.
Mahan tì bá súng có ống ngắm xa vào mạn thuyền máy, chĩa nòng về phía phi cơ. Văn Bình chặn lại:
-Cất đi anh.
Mặt Mahan lộ vẻ bối rối và hoài nghi:
-Không tin Vốtsơn được đâu. Chắc hắn sẽ trở cờ. Tôi hườm súng sẵn, nếu hắn thiếu đàng hoàng, tôi sẽ đẹt một phát. Chỉ một viên đạn xuyên phá đặc biệt này đủ làm phi cơ tan tành.
Văn Bình dựng khẩu súng sát vỏ tàu, giọng đầy tin tưởng:
-Bậy nào…bắn sụm phi cơ thì lấy gì mà đi?
-Còn phi cơ của tôi đậu tại Sờri-naga.
-Mahan, anh ngây thơ lắm. Giờ này phản gián Ấn độ đã túc trực ở sân bay, mình ló mặt ra họ sẽ tóm liền. Họ trung lập thật đấy song họ sợ làm mất lòng mấy ông lớn KGB sô viết. Đành rằng họ không ưa gì Tình báo Sở Hoa lục, nhưng giữa Hoa lục và chúng ta, họ sẽ chẳng ngần ngại chọn Hoa lục.
Chiếc phi cơ du lịch nhỏ đã đậu hẳn giữa bãi. Ánh nắng hồng ban mai nhảy múa tha thướt trên đôi cánh dài và cái đuôi vểnh lên một cách ngạo nghễ. Hoa tiêu thò đầu ra ngoài trong khi Vốtsơn đáp lễ bằng một phát đạn bắn trúng mặt. Nạn nhân ngoẹo cổ chết tức khắc. Vốtsơn trèo lên, hì hục quăng xác hoa tiêu xuống đất, đoạn vẫy Văn Bình.
Loại phi cơ này lớn hơn phi cơ nhẹ Cessna đôi chút, thân chứa được 4, 5 hành khách, và chỉ cần một nhân viên phi hành. Văn Bình chạy nhanh về phía phi cơ. Vốtsơn đứng chống nạnh bên thi thể viên hoa tiêu bất hạnh, miệng cười toe toét.
Khi Văn Bình còn cách độ một thước, đột nhiên miệng Vốtsơn mím lại. Hắn nhích miệng súng lên ngang ngực chàng, giọng đắc thắng:
-Khôn sống, mống chết…anh mang hai thứ tóc trên đầu sau hàng chục năm lăn lộn trong nghề mà còn cả tin cũng lạ…Đền ơn tri kỷ, tôi sẽ bắn trúng tim, anh khỏi phải hấp hối, đau đớn tội nghiệp. Anh Z.28, sự đời là thế, anh đừng oán thán…
Văn Bình thở dài:
-Anh nên nghĩ lại, dầu sao…
Vốtsơn cắt ngang:
-Tôi đã nghĩ nhiều, quá nhiều rồi. Anh chết, Mahan chết, Myriam chết, tôi sẽ có thể tiếp tục hoạt động phây phây ở Ấn độ, lãnh lương CIA và Tình báo Sở. Haha…tôi sẽ có nửa triệu đô la tiền thưởng về vụ Kôvic. Giết được anh, ít nhất tôi cũng đớp được thêm nửa triệu nữa. Cám ơn anh Văn Bình nhé!
Độp một tiếng nhỏ, Vốtsơn bóp cò song viên đạn không nổ. Chắc là đạn thối. Hốt hoảng, Vốtsơn bắn tiếp. Cũng chỉ nghe một tiếng độp ngắn ngủi vô duyên. Vốtsơn tái mặt lắp bắp:
-Té ra…té ra…
Văn Bình cười nhạt:
-Khôn sống mống chết mà anh… Trong bì đạn chỉ có viên thứ nhất không hư để anh hạ thủ tên hoa tiêu, số còn lại đều là đạn thối.
Tay run lẩy bẩy, Vốtsơn vứt khẩu Tôkarếp vô dụng xuống bãi cỏ rồi vùng chạy. Nhưng hắn chỉ chạy được một quãng thì gục ngã trước lằn đạn ác liệt của Mahan.
Văn Bình xốc Tuyết Lê lên máy bay. Nàng đã tỉnh hẳn, song cơ thể còn mệt. Trời thật trong và đẹp. Miệng Tuyết Lê bỗng tỏa ra nhiều hương thơm quế chi, hương thơm của tình yêu. Lòng Văn Bình rạo rực như tân lang trong đêm hợp cẩn.
Chàng nhìn đồng hồ: 6 giờ sáng. Thời khắc này là thời khắc thần tiên nhất trong ngày. Theo các khoa học gia, 6 giờ sáng là lúc hạch tuyến ái tình gia tăng mạnh mẽ cực độ (2).
Lên phi cơ, bỏ lỡ những những giây phút độc nhất vô nhị này thật uổng.
Bên phải, giòng sông lấp lánh ánh nắng, một bầy chim lạ đang líu lo ca hót. Một chú khỉ đực đang âu yếm rượt đuổi cô khỉ cái. Buổi sáng là thời khắc ân ái tuyệt hảo của chim. Khỉ cũng yêu đương vào lúc rạng sáng…
Hừ…thiên hạ chờ đợi một lát chẳng sao…
Văn Bình ghé tai Tuyết Lê thì thầm:
-Em nói với chú Mahan đi.
Mắt nàng sáng rực:
-Khỏi nói, em đã nói rõ từ lúc ở trên máy bay. Anh ra bờ sông với em nhé. Hoa đỏ nở đẹp lắm. Có nhiều bụi cây um tùm, không ai thấy đâu.
Rồi nàng chắt lưỡi:
-Có thấy nữa thì chết ai đâu, phải không anh Z.28?
NGƯỜI THỨ TÁM
Chú thích:
(1) loại nhà-nổi này dài từ 24m đến 38m, rộng từ 4m đến 8m, thường neo trên sông Jelum, trên hồ Nagin và Dal. Tiền thuê nhà-nổi hạng nhất (4 phòng) khoảng 45 Rs cho một người, 75 Rs cho 2 người, từ người khách thứ 3 trả thêm 23 Rs. Thuê như vậy chỉ tính tiền trọ (không tính tiền ăn), tiền điện nước, và công đầy tớ (4 người).
(2) tại một hội nghị quốc tế y học ở Nữu ước năm 1967, người ta tiết lộ là buổi sáng hạch tuyến đàn ông được tiết nhiều hơn 40% hạch tuyến được tiết ra vào chập tối, hoặc ban đêm. Vì vậy buổi sáng được coi là thời khắc thuận hảo nhất. Mặt khác, theo bác sĩ Georges Valensin thì các giống chim muông, đặc biệt là giống khỉ chỉ làm tình vào lúc rạng đông.
.