Gió không thổi từ biển

Gió không thổi từ biển

Tổng số chương: 3

kính tặng các chiến sĩ biệt động đặc khu sài gòn

PHẦN MỘT

ấy bữa nay xuất hiện ở trước chợ Vườn Chuối một người đàn ông bán thuốc nam. Nhìn vẻ ngoài anh ta chẳng có gì đáng chú ý. Tuổi anh ta, vì nước da mai mái nên thật khó đoán. Tóc anh ta để dài, rồi xoăn, người tầm thước. Hai con mắt nhìn vừa hiền lành, vừa rụt rè như tất cả những người dân cao nguyên một năm đôi bận xuống thành phố mua bán. Nếu có gì khác chăng, thì là việc các môn thuốc của anh ta thường được nhiều người mua, nhiều người tới ngó nghiêng.

- Cái nhà anh này làm ăn coi bộ thiệt thà.

- Dùng thuốc của anh trị bịnh cho con nít thì khỏi liền.

- Tiền nong ông cũng lấy chừng mực lắm, không mắc như mấy người khác đâu.

Bà con đi chợ thường nói về anh như vậy. Có người khen ngay trước mặt, anh chỉ cười. Cái cười ngượng nghịu như chỉ quen với núi đồi hoang vắng mà không quên phô bày tình cảm ở trước phố chợ đông người, để lộ hàm răng xỉn màu ngồ ngộ như cái cười của đứa trẻ sún răng.

Dáng ngồi làm lũi của anh thật tương phản với cảnh chợ nhức mắt những sắc màu, những ồn ào chát chúa của hàng rẫy quán tiệm, của những tốp lính người Việt, người ngoại quốc xộc vào, xộc ra, nghiêng ngả và của tất cả những âm thanh hỗn tạp, kì quái vốn có của một cái chợ tràn ngập hàng hóa. Màu áo chàm của anh càng tương phản với tòa cư xá Mỹ cao vòi vọi ở gốc phố bên kia đường. Vào những lúc xế chiều, cái dáng nhỏ nhoi hơi khập khiễng của anh bị bóng rợp tòa nhà làm bạc đi xiêu vẹo. Anh ngước nhìn lên một chút, mặt hơi nhăn lại như bị ngộp thở rồi lại cúi xuống chậm rãi cất từng bước một.

Người bán thuốc đi tìm chỗ nghỉ đêm.

Vào những lúc ấy, nếu anh bớt rụt rè đi một chút hoặc giả có ai đó đột nhiên gọi lại đưa nốt số tiền mà anh quên chưa lấy, có lẽ anh sẽ bắt gặp một đôi mắt từ xa đang dọi thẳng vào gáy mình. Dưới đôi mắt ấy là cái miệng mím chặt và phía trên vàng trán vuông căng ra, kéo đôi mắt xếch lên.

Chỗ nghỉ đêm của anh thường phụ thuộc vào tiết trời mưa hay tạnh. Mưa thì ngồi bó gối thu lu trên sạp hàng, tạnh lại nằm cong queo dưới bất cứ một mái hàng hiên nào. Gặp bữa kiếm được khá tiền, anh thường ghé vào cái quán trọ lợp mái tôn, tường ghép bằng vỏ đồ hộp gần bùng binh. Cũng có đêm trời trở lạnh, những người lính quân cảnh hoặc cảnh sát dã chiến đô thành đôi lúc gặp anh đi thơ thẩn nơi này nơi nọ cũng như tất cả những đứa con bụi bặm của đêm không có mái lá che thân. Tóm lại chẳng có gì đáng lưu tâm.

Riêng đêm nay anh lại nghỉ ngơi trong một ngôi nhà nhỏ dưới chân cầu xa lộ. Đang trên đường đến bến xe với ý định nghỉ tạm qua đêm để sáng mai xuôi về Thủ Đức bán nốt số thuốc còn lại thì bà má từ trong ngôi nhà đó hớt hải chạy ra nằn nì mời anh vào nhà chữa bệnh cho thằng cháu chưa đầy hai tuổi.

Thằng bé ba hôm nay sốt cao, lên cơn co giật, người ta mách ở Tân Bình có ông lang zếch chữa các bệnh trẻ con hay lắm. Chưa chạy đủ tiền đưa con đi nhà thương, nghe vậy mừng quá, chị tất tả định đi luôn. Bà mẹ lắc đầu: “Tối rồi. Đường đất bây giờ hỗn độn lắm. Đàn bà con gái một thân một mình đi không có được đâu. Để mẹ chạy ra chợ xem ông thầy thuốc nam còn đó thì rước về”. Nghe má nói phải nhưng nóng ruột, chị không chờ được. Vả lại, ông thầy thuốc nam đó mới nghe nói mát tay chứ thực hư đã biết thế nào.

Còn lâu mới tới giờ giới nghiêm mà đường phố đã vắng người qua lại. Thời buối nhá nhem này, không ai dại gì ra đường buổi tối. Không gặp phải mấy người cảnh sát, quân cảnh giữ lại hạch xách cũng đụng bọn du thủ du thực làm rầy. Đó là chưa nói đến chuyện mấy cha lính Mỹ nhậu say rồi không cón đếm xỉa gì đến phép tắc giao tiếp với người bản xứ nữa. Tốt nhất là cứ kín cửa cái then, không hay không biết gì cả.

Chị đi như chạy. Những cơn co giật của đứa con làm ríu chân người mẹ. Chị đi mà không cần biết cái gì đã xảy đến với mình. Tuy nhiên tới đầu một cái hẻm tối hun hút, bước chân chị hơi chựng lại: hẻm Đầu Bò! Cái tên này bao lâu nay thường gây lo âu cho những người qua đường. Người ta nói những dân dao búa tối nào cũng tụ bạ ở đây ăn uống nhậu nhẹt sau một ngày tỏa ra làm ăn trên khắp các ngõ ngách trong thành phố. Và cũng tụ bạ luôn cả những cô gái làng chơi. Hình như cứ ở đâu có du đãng là ở đó có cái loại gái này. Nó tồn tại như bóng với hình, nương tựa, bổ sung cho nhau. Người non gan, ban ngày đi qua đây còn thấy rờn rợn chứ đừng nói ban đêm. Ngay cả cảnh sát an ninh nhiều khi cũng kiếm cớ lảng tránh hoặc phóng xe ào qua cho xong chuyện. Dính với đám này lằng nhằng lắm. Đã từ lâu, hẻm Đầu Bò tồn tại như một vương quốc riêng, ngoài vòng pháp luật.

Tất cả những điều tồn tại ấy chị đều biết nhưng bộ mặt tái xám của đứa con không cho phép chị phung phí thêm một phút giây nào nữa. Chị đi qua những căn nhà tối tù mù, bước trên những khối gạch, đá, xi măng xù xì, hốc hoắm. Một bóng đàn ông từ trong bóng tối tiến ra:

- Đi đâu đó? Lại đây cô em!

Không thèm trả lời, chị vẫn bước, để mặc cái bóng đàn ông ấy chưng hửng giữa đường. Chị đang đi gần tới một cửa tiệm mờ khói thuốc, có ba người đàn ông ngoảnh mặt nhìn đăm đăm ra cửa. Có lẽ họ ngồi đây đã lâu và bây giờ không còn gì để nói với nhau nữa nên âm thầm đốt thuốc. Chai lọ, chén bát nằm ngả ngốn đầy bàn. Người ngồi giữa nhỏ con, chìm trong bóng tối, đầu chùn xuống vai như ông già, chỉ riêng đôi mắt là ánh lên cái vẻ ranh mãnh, lì lợm. Đôi mắt ấy vấp phải người đàn bà và nheo lại.

- ủa con nhỏ nào kia?

- Lạ hoắc! - Người ngồi bên trái mặc áo lính Mỹ rộng thùng hơi nhao đầu ra cửa, trả lời. Không phải bọn con gái tao bao ở đây.

- Chắc vậy không? Con nhỏ này trông được quá!

- Dạ chắc! Tôi nhớ kỹ mặt từng đứa mà anh Hai.

- Kỳ hè. Gọi lại đây coi.

Người thứ ba trung tuổi, thân thể to cao, đen đúa đứng dậy. Tầm lưng đồ sộ của anh ta che lấp cả khuôn cửa sáng đèn, phủ chụp luôn lên cái dáng mảnh khảnh của chị vừa sững lại.

- Cô kia đi đâu?

Nhìn lên một chút, không trả lời, chị tránh qua một bên định bước tiếp.

Cái bóng cao to chặn lại.

- Phép ở đây đã hỏi là phải trả lời. Đi đâu?

- Tôi đi mua thuốc cho con - Chị cau mày.

- Vậy chớ! Sao đi lối này?

- Đường phố là của chung mọi người. Tôi đi lối nào tùy tôi, ông tránh ra.

- Ai cha! Nói năng nghe cứng cỏi gớm hà. Thế cô có biết chỗ này là chỗ nào không?

- Biết! Nhưng có can hệ gì đến tôi? Tôi đi mua thuốc cho con tôi.

- Thế cô có biết người ngồi trong kia là ai không? - ông ta chỉ vào người ngỗi giữa có cặp mắt ranh mãnh.

Chị thoáng lạnh người. Chả nhẽ đó lại là Hai Băng Giá? Tay du đãng có tính tình lạnh lẽo mà cả Sài Gòn biết tiếng? Gầy guộc... nhỏ con... u uẩn... Đúng hắn thật rồi. Hắn đang ngồi đó với cái đầu không lay động, đôi vai so lên và đôi mắt nhìn chị mới sắc lẻm làm sao. Còn chị, lúc này toàn thân chị đã lộ ra dưới ánh đèn ống xanh lét, trong bà ba đen bình dị mà đã lâu lắm rồi các cô gái Sài Gòn không quen dùng. Chị chưa đầy ba mươi tuổi, nước da trắng xanh, đôi mắt đã sớm có cái nét buồn buồn, ẩn ức của những người đàn bà ít gặp may trong cuộc đời, song lại khiến cho khuôn mặt của chị toát lên vẻ đoan trang, nhân hậu cũng hiếm gặp ở cái thời buổi đàn bà con gái cứ thích đi diễu ngoài đường với son phấn trét đày mặt mày. Đôi mắt rất đẹp ấy rọi thẳng vào khuôn mặt xương xương của hắn.

- Biết.

- Biết là biết thế nào?

- Một người đàn ông nhiều tai tiếng.

- Cái gì?

- Ông đừng quát lên như thể. Để tôi đi! Con tôi đang đau nằm nhà.

Tên cao lớn giật mình nhìn sang người ngồi giữa. Người này vẫn không nhúc nhích, riêng đôi mắt thì mở to nhìn chăm chú vào người đàn bà pha một chút ngỡ ngàng.

Chị hất phăng mấy ngón tay nhờn nhờn của gã vừa mơn man lên cầm mình, lặng đi. Một cái gì uất nghẹn lên ngực. Khi bàn tay đó định ngó nguậy vào cằm chị một lần nữa, chị né mặt sang bên rồi tiến tới trước mặt Hai Băng Giá, nhìn thẳng vào tròng mát sâu hút của hắn.

- Tôi đã nghe nói nhiều về ông nhưng tôi nghĩ ông khá hơn kia, không đến nỗi trắng trợn như thế này. Giữa đêm hôm khuya khoắt, tôi là đàn bà thân cô, thế cô, các ông muốn làm gì chẳng được. Thật yêng hùng! Nhưng các ông không được đụng đến phẩm giá của tôi. Mấy ông đừng tưởng đàn bà con gái chúng tôi ai cũng lòng dạ như các ông cả. Cuộc sống này khiến cho các ông không còn biết phân biệt ngay gian, phải quấy gì hết - Giọng chị trở nên giễu cợt - Nói vậy thôi chứ mấy ông làm chi có phẩm giá mà hiểu được phẩm giá của người khác. Đây! Tôi đã vào rồi đây. Mấy ông định giở trò gì thì giở đi.

Không khí trong phòng lắng lại. Hai Băng Giá vẫn đăm đăm nhìn chị như nhìn một cái gì lạ lẫm. Tiếng chị lại vang lên, có chiều khẽ khàng hơn.

- Có thể các ông không có vợ con, các ông không hiểu. Nó đang... Tôi cần mang thuốc về ngay cho cháu. Nếu các ông thử có một đứa con...

Con mắt Hai Băng Giá hơi xẫm lại, khiến cho khuôn mặt càng thêm u tối. Người mặc áo lính hắng giọng cười nhạt:

- Đây không phải rạp hát mà diễn tích tuồng cải lương nghe cô. Cô đáo để vừa vừa thôi, ờ, có thể cô là con gái nhà lành thứ thiệt, nhưng đã lỡ đưa chân vô đây là coi như rồi. Không lấm đầu cũng lấm chân. Luật mà. Luật sinh tồn của tụi tôi đó cô Hai. Cô Hai giáng cảm phiền nghen! Lâu lâu mới được nghe một giọng nói ngang ngang, một vẻ người sạch sẽ thế này, cô Hai chớ làm tới để bọn tôi phải lặng tay, tội nghiệp!

- Không!... Các ông để tôi đi - Tiếng nói của chị đã chớm có cái vẻ chờn chợn và chị ngoắt mình đi ra đường.

- Ý! Đâu có được! - Gã cao lớn vội đưa tay chặn lại. Gã nhìn hau háu vào ngực chị.

Trong thoáng chốc, chị cảm thấy như nút áo mình bị bật tung ra. Chị co người lại và lóng ngóng đưa tay che ngực. Không! Chính cái câu nói của gã mới làm chị nổi gai lên.

- Sẽ có người đi mua thuốc cho thằng nhỏ con cô. Bây giờ cô cứ bình tâm ở lại đây. Cần thiết, thằng nhỏ sẽ được chở đi bệnh viện hoặc gọi bác sĩ riêng tới nhà. Cô ngồi xuống đây. Nhậu! Nhậu lai rai. Nhắp chút cũng được. Đừng ngại chi hết. Tối nay ông Hai có nỗi buồn, cô có thể giúp cho ông vui lên được đó. Chỉ một đêm thôi, sớm mai cô sẽ thấy con người mình khác hẳn đi, thèm khát yêu, thèm khát sống hơn, và cô lại có mặt bên thằng nhỏ với đầy đủ thuốc men, tiền bạc trong tay. Tuyệt! Ráng chiều lòng ông, cô sẽ có lợi.

Trông dáng dấp cô, chác cũng không khá giả gì, người nghèo ta giúp lẫn nhau. Nào ngồi xuống đi! Ngoan đi!

Chị vẫn đứng im, mắt nhìn xuống, bàn tay xanh xao bấu chặt vào cạnh bàn. Tư thế ấy khiến gã đàn ông to con không thể không đặt bàn tay gân guốc vào eo ếch chị với ý định kéo sát vào mình. Mắt gã mờ đi... Bỗng gã ngật mặt, lặng người lùi trở lại. Chính những ngón tay nhỏ nhắn kia đã văng vào giữa mặt hắn một cái tát rất gọn. Rất đỗi kinh ngạc, gã trẹo miệng không ra mếu, không ra cười rồi với một cái khịt mũi trơ trẽn, gã lại nghêu ngoao vươn tay tới nữa. Rõ ràng cuộc đời gã đã không ít lần bị sưng mặt như thế này. Lúc ấy, mặc dù trên tay chị, chai rượu rỗng đã được đặt trước ngực để sẵn sàng vung lên tự vệ nhưng những người xung quanh vẫn không khỏi thầm lo cho cái thân hình nhỏ nhắn của chị khó mà thoát được sự nghiến ngấu bởi cánh tay đồ sộ của gã đàn ông đang cay đòn. Gã lại khịt mũi cái nữa to hơn, phả cả mùi rượu lẫn mùi hành tỏi vào mặt chị... Đúng lúc chị cầm lấy cái chai định vung lên thì Hai Băng Giá lặng lẽ đứng dậy.

- Thôi đủ rồi!

Nghe tiếng nói ấy, gã khổng lồ sững lại rồi len lét đi về chỗ. Chị hơi giật mình: đến lúc này chị mới nhận ra người này còn quá trẻ, chỉ trạc tuổi chị hoặc hơn một chút. Chân tay mảnh dẻ như một thần ký. Khi anh đứng dậy, tất cả vẻ ủ dột, già nua gần như truội xuống nằm ở chỗ cũ, cái còn lại là một khuôn mặt cân đối, thư sinh, thậm chí khá đẹp nếu không tiều tụy, u sầu quá, giống khuôn mặt của người đau bao tử kinh niên.

Anh ta khẽ hất cằm. Hai gã đàn ông ngoan ngoãn đi ra không nói một lời nào. Riêng gã đàn ông cao lớn còn quay lại nhìn chị trong một cái cười hiểm ác “Nhẹ không ưa. Nào! Bây giờ đối mặt với ổng mi còn đáo để được nữa thôi”. Anh ta lại hất cầm cái nữa. Đám người tò mò lố nhố đứng bên ngoài cũng vội vã tản ra.

Trong phòng chỉ còn một mình chị với con người ghê gớm ấy. Ngõ vắng lại trở về sự vật vờ bình thường như mọi tối khác, ông trùm trẻ tuổi vẫn nheo nheo mắt nhìn chị không nói. Trước cái nhìn của con đười ươi ngắm nghía con mồi để chuẩn bị xé xác ấy, chị bất giác thấy lạnh buốt chân tay và toan tìm đường tháo chạy. Nhưng phía sau, cánh cửa sắt đã đóng lại từ lúc nào. Chị lùi lại, dựa lưng vào tường chờ đợi...

Người ấy chỉ tiến thêm lên về phía chị một bước rồi dừng lại. Thế rồi, không có một chút xao động trên nét mặt tưởng như cả đời phiền muộn, anh ta nói nhỏ, tiếng nói mềm mại lạnh lẽo như của một người nào khác.

- Chị có thể đặt lại cái chai ấy trên bàn được không?

- Không đặt! - Chị quác mát trả lời và càng xiết chặt cái chai trong tay hơn. Trời! Chị nghĩ - Thà hắn cứ quát toáng lên như thằng vừa rồi lại đỡ sợ hơn.

- Chị đi mua thuốc ở Tân Bình phải không? - Anh ta vẫn nhẹ nhàng hỏi.

- Không! - Chị càng nép sát vào tường. Hắn định giở trò gì đây? Chị cán chặt môi và càng chú ý phòng ngừa.

- Chị đừng sợ - Anh ta lắc đầu thiểu não rồi đứng lui lại - Chả nhẽ tôi lại đáng sợ đến thế sao? Thôi được! Tôi sẽ không cần nói gì nữa. Bây giờ ta đi!

- Đi mua thuốc cho thằng nhỏ con chị - Anh ta trả lời bình thản - Tôi sẽ đưa chị đi cho nhanh, vả lại đi một mình qua ngõ này không tiện.

Không cần chờ chị trả lời, anh ta uể oải lấy từ dưới gối một vật gì đó nhét vào túi áo khoác rồi vẫn uể oải bước tới chiếc Vespa đậu ở lề đường. Trong nhà, chị vẫn đứng im, mát mở to, cái chai trên tay từ từ hạ xuống...

Khi trước Vespa tháng lại trước nhà, chị đã nghe thấy trong nhà đang vang lên tiếng nói lơ lớ của ông thấy thuốc nam mà chác má chị đã đón được về. Chị khẽ thở phào, quay lại người đàn ông.

Tới nhà rồi. Cám ơn ông Hai. Thiệt phiền ông quá!

Tôi tên Lầm. Phan Hồng Lẩm. Cùng quê Bến Tre với chị. Chị cứ gọi như vậy tiện hơn.

- Dạ! Anh Lầm cho tôi hoàn lại số tiền mua thuốc hồi nãy.

- Không có chi. Mai mốt nếu có gì cần chị cứ cho gọi. Đất Sài Gòn này không sừng sỏ không sống được, chị đừng ngại, ở đây tôi không có ai là người thân thuộc. Lúc mới gặp chị, nhìn vào mắt chị, tôi đã thấy có cái gì khác với... Thôi tôi về. Chị vô với cháu đi.

Chiếc Vespa đã phóng vút đi. Chị đứng lại một chút, tần ngần. Hai Băng Giá... Hai Băng Giá là con người này sao?... Nhưng tiếng khóc của con đã đẩy nhanh chị vào nhà.

Trong nhà thằng Chu Anh đang oằn người trong lòng bà nó và cạnh bên, ông thầy thuốc nam đang bón từng thìa thuốc sóng sánh như mật ong vào cái miệng nhỏ xíu có đôi môi nóng đỏ của nó. Thấy tiếng động, anh ta quay ra gật đầu chào chị rồi lại quay vào gượng nhẹ với thìa thuốc, nhưng ngay sau đó anh lại quay ra và lần này thì thìa thuốc trên tay anh chao đi...

- Chào chú! Chú mới tới - Chị sà đến cạnh con - Má ơi, con đã mua thuốc rồi đây. Toàn loại tốt cả.

- ừa - Bà má gật đầu - Bay đi lâu về, tao lo quá. Cứ để trị đủ liều thứ thuốc này đã. Từ tối tới giờ có vẻ êm.

Người bán thuốc vẫn đứng sững nhìn chị. Thấy chị nhìn lại, anh vội chớp mắt quay đi. Cặp mắt ấy hấp tấp dán vào khuôn mặt thằng bé. Từ vầng trán anh, có một cái gì như một sự bàng hoàng dội lên. Có vẻ mỏi, anh không còn cầm vững thìa thuốc trên tay nữa, đành đứng dậy.

Chị... Chị bón cho cháu. Từ giờ tới sáng uống hai lần nữa. Mỗi làn hai thìa... Tui...

Tui...

Chị quay lại, hơi ngạc nhiên. Chao! Một người miền núi mà sao có giọng nói ngọt ngào làm vậy. Và hình như... Cũng không có vẻ gì lơ lớ cả.

- ô, thằng nhỏ bị đau cái phổi mà - Bắt gặp cái nhìn hồ nghi của chị, anh nói vội - Đau nặng đấy nhưng không sao đâu. Cái thuốc của tôi nó thiêng lắm, chỉ mai là đỡ liền thôi.

Chị nhẹ người. Không hiểu nhẹ vì bệnh tình của con có chiều thuyên giảm hay vì tiếng nói ngồ ngộ vừa rồi đã xóa đi hết cái băn khoăn của chị.

Thằng Chu Anh bỗng ợ một cái rồi quần quại ho mấy tiếng khô khỏng, mặt nó đỏ vang. Nhanh hơn cả chị, anh nhao ngay người tới bế xốc nó lên cho thuốc khỏi trào qua miệng. Nét mặt anh giây phút ấy nhăn nhúm lại trông thật khổ sở. Cánh tay bế đứa nhỏ lập cà lập cập. Trong thoáng chốc rất nhanh, chị thấy anh ghì sát đứa nhỏ vào ngực, mắt tối đi trong tiếng lắp bắp nơi cửa miệng không rõ câu gì. Thấy người lạ âu yếm, quý yêu con mình, người mẹ nào không mát ruột. Chị định lại đỡ lấy con nhưng như bị một làn sóng vô hình ngăn cản, chị chững lại. Trời! Bàn tay... Bàn tay trái... Sao lại giống bàn tay trái của anh thế? Bàn tay có những ngón vuông bè bè, có ngón trỏ bị lụi đốt trên cùng. Chị vội nhìn lên. Rờn rợn... Nhưng không! Không phải khuôn mặt ấy. Kia chỉ là một khuôn mặt thật thà, xa lạ và nước da xạm cháy. Không! Làm gì có chuyện ấy. Chị lại thấy nhẹ nhõm và cười thầm mình sao độ này cứ hay ám ảnh vu vơ. Chị đưa tay đỡ lấy con. Cũng lúc ấy, chị bắt gặp ánh mắt của anh. Ánh mắt cháy bỏng, hun hút, thẫn thờ. Tim chị chợt đập rộn lên. ôi! Con mắt... Sao giống con mắt... Không! Ngay lúc đó, đôi mắt kia đã dài dại đi rồi. Lại bậy nữa. Lần thứ hai chị tự trách mình. “À ơi! Ngủ đi con. Đừng ho nữa... Con ho má thương lắm! Con đừng trách má không dòm ngó nhiều đến con, không đi kiếm kịp thuốc cho con... Bây giờ má chỉ có mình con, má không thương con thì thương ai. Ngủ đi! Đừng ho nữa, sớm mai ngủ dậy là con của má sẽ khỏi liền thôi. À ơi...“

Tiếng nựng con của người mẹ như có sức hút kỳ lạ khiến người bán thuốc chao đảo, cứ muốn nhao về phía hai mẹ con, nhưng bằng một sự gắng gượng nhọc nhằn, anh lại lùi dần về phía cửa. Nhìn tinh thấy khuôn mặt anh méo xệch đi.

- Tui... Tui xin phép bà và cô tui... tui đi.

Anh hấp tấp vơ quàng lấy túi thuốc.

- Ý, đâu có được ông thầy! - Tiền nong tôi đã trả đâu.

- Dạ thôi... Mai mốt tôi lấy cũng được mà. Tiền chút chút mà... Dạ, tui đi!

Lần này bà má giằng cái tay nải lại, vừa năn nỉ vừa kiên quyết.

- Ông thầy đi đây giờ này? sáp giới nghiêm rồi, quân cảnh họ bắt đó.

- Không có bắt đâu. Tui quen hết rồi mà.

Anh xin lại cái tay nải, mát nhìn dáo dác như kẻ định chạy trốn. Anh tránh không nhìn vào mắt chị nhưng tiếng chị đã khẽ khàng cất lên:

- Chú làm ơn ở lại với gia đình tôi một đêm, mai hẵng đi! Lỡ nửa đêm về sáng, cháu nó trở chứng, tôi biết đi gọi ai? Nghe má con tôi một chút đi chú.

Câu nói khiến anh đứng im, tay thõng xuống. Anh nhìn đứa bé giây lâu rồi gật đầu.

Cùng với người bán thuốc, chị cũng không ngủ.

Tối nay sao nhiều việc xảy đến với chị quá. Thái độ bí hiểm của Hai Băng Giá, bệnh tình thằng nhỏ - nỗi lo láng tới tuyệt vọng của chị mấy bữa nay - bỗng như được trời phật phù hộ mà đỡ đi trông thấy, rồi cả sự tận tâm cũng như cung cách đối xử lạ lung của ông thầy thuốc người Thượng nữa... Cái mắt nhìn... Bàn tay thiếu đốt... Cố xóa đi mà cứ thấy đầu óc nôn nao, cố quên đi mà quãng đời cũ cứ thấp thoáng hiện về. Bên kia vách, chị đoán biết người thầy thuốc cũng chưa ngủ. Lát lát, anh ta lại khẽ khẽ cựa mình. Mỗi lần thằng bé lên cơn ho, tiếng cựa mình lại mất đi, như con người ấy đang nín thở và để rồi tiếng cụ cựa lại vang lên mạnh hơn. Rõ ràng chị cảm thấy có cái gì đó vừa vô hình vừa cụ thể cứ lớn mãi lên, sắc nét mãi ra, giống như sợi giây hư ảo nối liền giấc ngủ của đứa bé vào giấc ngủ của người ấy. Có phải như vậy không? Nhiều khi chị cũng nín thở... Chị bỗng sợ nghe tiếng cựa mình của người đó. Nó khơi dậy trong chị biết bao nhiêu điều chị đang cố quên đi. Nó đang hiển hiện ở bên kia vách, gần lắm! Sao ông không ngủ đi, hay ráng mà nằm im cũng được. Chao! Con mắt... Bàn tay...

Ngài đô trưởng bỗng thấy sáng nay trong người vui vẻ. Đêm qua ngài đã ngủ được một giấc ngon lành. Viên bí thư tin cẩn của tổng thống, người anh em đồng hao với ngài, trong buổi họp báo chiều qua đã nói riêng với ngài rằng: ý định đứa ngài về làm tư lệnh một sư đoàn đóng ở vùng I của tướng Tổng tham mưu trưởng (vốn không ưa gì ngài) đã bị tổng thống phế bỏ. Cha! Chút nữa thì binh nghiệp của ngài tiêu ma đó. Từ ngày thụ huấn ở Mỹ về đến giờ, cả năm năm nay, ngài đâu có quen xông pha trận mạc. Đưa nhau ra đấy để mà nướng nhau ư? Chà! Cái lão đại tướng này thiệt... Ngài đã quen công việc ở đây rồi. Với cái đô thành chói chang ánh điện này, ngài đã từ từ, tất nhiên phải tốn biết bao công sức và lọc lõi, leo lên từng nấc để có cái chức tư lệnh thành phố mà bạn bè cùng lứa với ngài có ước mơ cũng không dám. Chính vì cái tin hết sức thú vị đó mà sớm nay, một tớ báo đã cho chạy trên trang nhất câu tuyên bố trong lúc cao hứng của ngài: “... Tôi cho rằng, trong khoảng từ ba đến năm năm tới đây, thành phố của chúng ta sẽ hoàn toàn được đảm bảo an ninh. Những bóng ma Cộng sản trước kia thường lấn quất ở đây, bây giờ, sau cái tết ghê gớm vừa qua, có thể nói chắc rằng đã bị quét hết ra nghĩa địa, rừng rú...” Ngài lắc lắc đầu mỉm cười. Được đấy chứ! Nói trong khi ngà ngà mà nghe cũng được đấy chứ. Nói thiệt! Làm đô trưởng một thủ đô như vầy mà để cho một thằng cha võ biền nào nói năng cục mịch đâu có được. Ngoài cái đảm lược về điều binh khiển tướng, đô trưởng còn là sinh khí, là bộ mặt của toàn thành phố. Không phong lưu mã thượng, không lịch duyệt thông thái, bọn có học nó có coi ra cái gì. Ngài ngắm nhìn khuôn mặt sáng sủa, bộ tóc chải cao và tẩm thân mạnh mẽ ẩn sau bộ quân phục cấp tướng với vẻ hài lòng. “Có một nụ hồng hé nở ngoài kia. Tôi muốn ngắt tặng em nhưng e lại mất đi một chấm đỏ vào trời xanh”. Nếu không có ông bạn giáo sư ngồi bên thì có lẽ ngài hứng chí đọc to lên mấy câu thơ ấy của Hai-nơ rồi. Tuy vậy, sự có mặt của giáo sư lúc này thật tuyệt! Đã bị quét hết ra rừng... Chà! Dùng chữ quét vào đây thật gọn. Nó bao gồm cả thế lẫn lực mà nghe không sao. Tuy nhiên, không nên nói ba năm, một năm, hai năm thôi là vừa. Ba năm là hơi bốc. Nhưng cũng chẳng sao. ông Thiệu còn nói tới những năm năm kia mà.

- Anh Luân! Anh uống đi chớ - Ngài vui vẻ - Tôi biết anh xưa nay vẫn bị bệnh đau bao tử, nhưng không sao đâu. Rượu nhẹ, đàn bà uống còn lắc đầu mà.

Ngài ngồi hẳn xuống, dáng bộ trân trọng - Tóm lại là thế này. Tôi rất rõ anh đang bận bù đầu với cái công trình: “Sự tồn tại dai dẳng của các cộng đồng dân tộc vùng Đông nam Á”. Nhưng cũng xin anh nể tình bằng hữu giữa tôi và anh, anh bới ra ít ngày viết cho tôi cái “quân sử” về Sài Gòn của chúng ta trong và sau Mậu Thân. Tư liệu và phương tiện, anh sẽ có đủ. Còn công sức? Cái này chẳng nên nói với anh nhưng người Mỹ rộng rãi lắm. Cần phải cho thế giới biết về thực lực họ và thực lực của ta. Tất nhiên cả sức mạnh và khả năng quân sự của người Mỹ nữa. Anh cười đó à? Đừng, xin anh đừng cười. Anh vẫn giữ được cái kiểu cười chết người như ngày trước. Nhưng tôi yêu cái lối cười đó. Nó thông minh lắm. Thế nhé! Phải chính tay anh nhúng bút mới được. Không gì vinh hạnh cho những người lính chúng tôi một khi chiến công của mình được một giáo sử học danh tiếng như anh động bút vào. Chậc! Kể ra mặc cho tên Tổng cục chiến tranh chính trị họ làm cũng được, nhưng cái thằng cha đại tá trưởng phòng quân sự ấy dở ẹc. Lại khô khan, hời hợt toàn số liệu chết cứng cho coi. Uống! Đúng ra phải điều lão ta trở về đơn vị cầm súng mà choảng nhau. Ngồi ở trung tâm mà chẳng có một chút đầu óc nào cả. Kìa! Anh lại cười nữa rồi. Bao giờ đứng trước anh tôi cũng có cảm giác mình đang làm một điều gì quê kệch.

Giáo sư Luân chậm rãi đi ra cửa sổ nhìn xuống mặt đường. Ngược lại với ngài đô trưởng, ông thấy không vui. Trong thâm tâm, không muốn nhưng được mới gọi hai, ba lần, cực chẳng đã ông đành tới căn nhà đầy lính gác rần ri này. Xưa nay ông vốn không thích nhìn những bộ quân phục màu tráng hay màu xám, dù ở bên này hay bên kia. Và vả lại... ông cũng có một chuyện riêng tư của gia đình có thể cần phải nhớ đến tiếng nói của người bạn đeo lon tướng này.

- Người ta chỉ đưa vào sử những cái đã qua, không lặp lại trong hiện tại. Anh tin rằng vùng đất này không còn lộn xộn nữa sao? - Giáo sư hỏi mà không quay lại.

- ít nhất cũng được mươi năm không có lộn xộn lớn.

- Tức là anh hoàn toàn tin ở người Mỹ?

- Về tâm địa thì không. Nhưng về lực thì trước hết phải thừa nhận họ biết làm ăn.

- Phải chăng quân đội các anh không bao giờ biết làm ăn?

- Anh vẫn có những câu hỏi phản đề khó trả lời.

- Như vậy, anh mặc nhiên thừa nhận phía bên kia họ mạnh hơn các anh.

- Thôi! Thôi! Tôi là con nhà võ, anh tha cho tôi. Hồi còn đi học, có bao giờ tôi nói lại anh đâu. Tôi thèm cái đầu óc của anh. Bây giờ tôi cần anh giúp tôi trong chuyện này. Anh bằng lòng chớ?

- Tôi đã trả lời rồi thôi.

- Tôi không hiểu.

Viết lại thực trạng những ngày Mậu Thân tôi không làm được. Đó là công việc của báo chí, thông tin. Còn viết sử, tôi sẽ chắc không làm anh hài lòng đâu. sử phải trung thành với mọi sự kiện nhỏ nhất, trung thành với sự thật. Sự thật bên trong các hiện tượng chứ không chỉ là kết quả. Nghĩa là tôi sẽ chứng minh rằng thắng lợi của ông Thiệu vừa rồi là vô nghĩa. Và nếu cho rằng họ thất bại thì cũng hết sức thiếu khoa học. Cái còn lại là sự hiện hữu của người Mỹ trên đất nước này. Sự hiện hữu của một lực lượng khách quan không nằm trong mối quan hệ nội tại của cộng đồng dân tộc. Lịch sử Việt Nam trong giai đoạn này không thể thừa nhận người Mỹ như là một động lực phát triển chính thống. Vậy thì sự thắng và sự thua cũng chưa có luận cứ để khẳng định. Điều này sử học bất lực. Có lẽ đó là một phương diện đơn thuần về chính trị với tất cả những ưu thế của nó: lạnh lẽo, quay ngoắt và vụ lợi.

- Được! - Ngài đô trưởng thoắt trở nên hào hứng - Tôi xin được tranh luận với giáo sư. Giáo sư muốn nói kết quả của sự biến cố Mậu Thân vừa qua thành bại còn đang nằm trong hư thực phải không?

- Không phải một mình tôi nghĩ thế.

Thật là ngây thơ... Xin lỗi! Tôi muốn nói, anh Luân ạ, anh vẫn trong tráng và tốt bụng như trước. Anh nhìn vấn đề bao giờ cũng tròn trịa. Sau cái đòn này, ít nhất phía bên kia cũng choáng váng rất lâu mới gượng lại được. Ví dụ tình hình an ninh khả quan của thành phố chúng ta những tháng qua. Điều đó thua thắng thuộc về ai đã được lý giải rồi. ít nhất cũng là về mặt quân sự.

Nhưng tôi biết chính phủ còn rất lâu mới hết giật mình. Choáng váng hay giật mình chỉ là hai mặt của một tâm trạng. Và tâm trạng chiến tranh mới quyết định kết quả chiến tranh. Nếu anh không cáu, tôi xin nói thật: Ngay buổi họp báo chiều qua của anh cũng là dấu hiệu của sự giật mình. Người thực mạnh không bao giờ đại ngôn. Họ tỉnh táo nhìn nhận cú đấm của đối phương khá nặng, thậm chí gây đau nhức không chịu được nhưng họ cũng biết nện lại những quả đau nhức không kém, hoặc đau nhức hơn. Theo tôi, thắng lợi của biến cố vừa qua và cái trật tự an ninh hiện nay thực chất chưa lấy gì làm đảm bảo. Anh không cho tôi là ảnh hưởng tư tưởng biện chứng của Mác chớ?

- ô không! Sự thật dù phũ phàng vẫn thích nghe hơn lời ngọt ngào dối trá. Anh cứ tự nhiên. Dân chủ mà. Tôi rất thích nguyên tác này. Nó có tác dụng mở rộng tầm nhìn. Tốt lắm.

Vâng! Tôi vẫn muốn được nghe nhắc lại: điều hệ trọng hơn hết là tâm trạng. Tâm trạng của con người. Và con người luôn luôn gắn với môi trường nó tồn tại. Môi trường bây giờ xáo trộn quá! Mọi giá trị luân lý đều bị đảo ngược, mọi nề nếp, chuẩn mực đều bị lật nhào. Đâu đâu cũng thấy đồng tiền, đồ vật và sắt thép chế ngự lên tất cả. Hoang mang và bất lực, con người sống cấu thả, sống bừa phứa. Một khi đã mất tin ở tương lai, tất yếu sẽ sống vội trong hiện tại.

- Anh đang nói về đức tin?

Đúng! Do không yêu và không tin vào một cái gì cả nên hàng ngày con người tự tước bỏ đi cái phần người nhất của mình là hoạt động. Chỉ sống không thôi thì chưa phải là con người anh ạ! Sinh vật nào mà chả sống. Do đó thật khó nghĩ rằng những con người nhợt nhạt như thế lại gánh được những trọng trách, bảo vệ được sự sống còn ở chính thể mà các anh trải qua bao cuộc đảo chính, cách mạng mới thiết lập nên được. Tất nhiên con người ở phía bên kia tôi không được rõ lắm. Có thể họ cũng là những kẻ cuồng tín đang lao theo một mưu đồ chính trị mà quên đi cái lý tưởng nhân văn. Nhưng xét đến cùng, bất cứ một dân tộc nào để xảy ra nội chiến vì những bất đồng của một cá nhân, của một nhóm người thì hết sức phản lịch sử. Nhất là dân tộc lại chấp nhận để cho một kẻ khác đứng ngoài xúi bấy, thậm chí tiếp sức. Anh thử lang thang ra đường phố một ngày coi! Nhô nhuế không còn ra cái gì nữa. Như thành phố của một quốc gia khác. Điên đảo. Quay cuồng. Một quốc gia mà cái nền nã nhất của dân tộc đang mất đi. Một lối hiện sinh bản năng đang ngự trị. Chính vì thế mà tôi không tin vào sự ổn định trong vòng hai, ba năm lại đây của anh.

Ngài đô trưởng giơ hai tay lên trời cười vang tỏ vẻ thú vị. Nhưng ngay sau đó, ngài bỗng tràm ngâm.

- Xưa nay tôi vẫn biết anh không ưa thích chính trị. Nhưng quả thật, tất cả những lập luận của anh vừa rồi khiến tôi chông chiêng. À, những ngày lộn xộn ấy anh ở đâu? - Ngài quay đi búng tàn thuốc, làm như vô tình hỏi câu đó.

- Ngay tại đây thôi. Viết sách, nghe súng nổ, ngắm nhìn thời cuộc và nếu có thể thì rút ra một vài kết luận. Chức năng nhân chứng mà.

- Tóm lại anh không muốn cộng tác với tôi trong chuyện viết sử này?

- Để... Để tôi suy nghĩ thêm - ông đắn đo một chút rồi nói khẽ - Độ này tôi đang bận tâm vì thằng Hải, thằng con độc nhất của tôi, chác anh còn nhớ?

- Hả?... Không! Có! Có nhớ chứ - Đột nhiên ngài tỏ ra lúng túng - Sao lại không nhớ. Môt nhac sĩ thời danh.

- Tên tuổi vì nghệ thuật thì ít, vì chơi bời xả láng thì nhiều. Suốt đêm ngày chỉ đắm nhìn trong nức nở và ái tình. Một thằng đàn ông cạn khô, mất hồn người, thiệt là rầu. Anh ạ! Tôi...

- Tôi hiểu - Ngài đô trưởng thân mật vỗ vỗ vào tay ông, cắt ngang - Thì ra chính vì cậu con nghệ sĩ mà ông bố mất tin ở con người, ở xã hội. Chết thật!

- Không hẳn như vậy, nhưng... Cũng rất có thể như vậy. Vì nó là sản phẩm của môi trường. Với môi trường này, tôi e rằng nó sẽ không lấy lại được bình thường. Ngày trước, nó là một thằng bé khá, có tâm hồn, trung thực và nhiều khát vọng lành mạnh. Bây giờ nó sống vật vờ như cái bóng. Nó không cần biết nó là ai, không hoàn toàn làm chủ được bản thân mình. Một thế hệ trôi nổi và dựa dẫm. Anh ạ! Tôi có một chuyện muốn...

- Anh lại rơi vào bi lụy rồi - Ngài đô trưởng cát ngang - Tôi thì nghĩ khác. Cậu con anh đang thực hiện cái phần tự do nhất, cái phần người nhất của nó. Giai đoạn này con người cần phải có lối sống thực dụng. Lối sống này sẽ tạo nên sức mạnh cần thiết cho quốc gia. Chà! Nếu anh biết được lối sống ép xác của những người phía bên kia? Thật là kinh khủng.

- Tôi chưa thật tin - ông nói và nghĩ rằng mình không nên đem chuyện riêng ra nhờ vả lúc này - Xã hội ta bây giờ đang sao chép lối sống Mỹ một cách sống - sít thì đúng hơn. Có quốc gia nào tự tồn tại bởi những con người chuyên đi bắt chước những cái bên ngoài. Thà cứ sống khổ hạnh như phía bên kia lại giữ được bản ngã của mình. Anh hiểu dùm, đây tôi không nói chuyện chính trị. Thú thực tôi không hiểu những người cách mạng lắm và tôi cũng chưa có ý định tìm hiểu.

- A! Thiệt vừa dịp - Ngài đô trưởng bật ngón tay đánh tách một cái - Ngay bây giờ tôi sẽ cho anh tiếp xúc với một mẫu người cách mạng. Hắn là một sĩ quan đặc công có một thời đánh đấm khét tiếng. Nhưng rồi hắn vẫn là hắn. Tức là hắn vẫn thèm làm một con người ăn uống, ngủ nghê, như mọi người bình thường khác. Một con người hoàn toàn đánh mất lòng tin. Nói chuyện với hắn anh sẽ thấy thú. Còn cái mục kia... Hả? Tùy anh, tôi không ép đâu.

Ngài đô trưởng bấm chuông. Một đại úy còn rất trẻ, có ria mép hiện ra ở ngưỡng cửa.

- Thiếu tá Xanh còn chờ ngoài đó không anh Thuần?

- Dạ còn.

- Tốt lắm! Anh mời hộ thiếu tá vào đây.

Có tiếng giầy bước rất êm đi vào. Giáo sư Luân nhìn lên. Đó là một người đàn ông tầm thước, Bộ âu phục màu xám nhạt cát rất khéo, vầng trán vuông lúc nào cũng căn g ra như muốn kéo đôi mắt xếch lên. Cái miệng anh ta nhỏ, mỏng, luôn mím lại như sắp bật nói ra một điều gì mà cũng không bao giờ định nói ra điều gì cả. Kín bưng và buông thả. Và đôi mắt nữa, mặc dù trong phòng sáng choang ánh điện nhưng nó cũng không sáng lên được chút nào. Một thứ mắt dõi nhìn vào trong. Mỏi mệt, man dại và căng thẳng. Tóm lại, thoạt trông, người đàn ông tầm thước này dễ gây ấn tượng, mau khêu gợi sự tò mò của người khác.

Giáo sư chăm chú nhìn anh ta. Còn anh ta không nhìn ai. Với cái dáng của một người đã quá quen những con mắt lạ lẫm nhìn vào mình, anh ta ung dung đi lại bàn, ngồi xuống. Và cũng rất ung dung, rút một điếu thuốc đưa lên miệng. Giáo sư quay mặt đi. Hình như ông đã gặp con người này ở đâu một lần rồi thì phải? Ngài đô trưởng tự tay rót cho anh ta một ly rượu mạc-ten đầy. Anh ta đỡ lấy uống một cách thận trọng hơi có phần lơ đễnh nhưng không dấu được cảm giác ngon lành. Đây là một kiểu người khép kín, biết tận hưởng khoái lạc cuộc đời nhưng... không tập trung vào một cái gì chính yếu cả. Bằng con mắt nghề nghiệp, giáo sư thầm đánh giá. Và bất giác ông lảng tránh tia nhìn của anh ta đột ngột phóng tới. Cái nhìn rờn rợn này, hình như ông cũng thoáng gặp ở đâu.

Như giới thiệu một người bạn tri kỉ, lại như khuếch trương một món hàng quý, ngài đô trưởng quàng tay ôm lấy một bên vai anh ta rung nhẹ.

- Đây! Thiếu tá Xanh đây, người hùng của Việt Cộng và bây giờ cũng là người hùng của chúng ta. Một người thức thời. Hy vọng tới đây anh sẽ phụ giúp giáo sư một cách đắc lực để hoàn tất cuốn quân sử độc đáo này. Một tài liệu sống vô giá đó anh Luân!

Thiếu tá Xanh chợt đứng dậy:

- Thưa thiếu tướng! Tôi có chuyện cần trình gấp lên ngài.

Chắc không phải chúng ta sắp mở một cuộc tổng tấn công nữa chớ? ồ! Vậy thì cứ chậm rãi. Ngày rộng tháng dài, lo gì. Hình thành cho được một bộ quân sử lúc này là cần nhất.

“Cần cho cái ghế của ông chứ gì”, viên thiếu tá nghĩ.

- Dạ! Tùy thiếu tướng.

Rõ ràng anh ta tỏ ra khó chịu khi có mặt vị giáo sư gầy yều ngồi đây. Giáo sư Luân đọc được ý nghĩ đó và ông nhận xét: một phong độ giả tạo, một giọng nói giả tạo, không thật. Ông đứng dậy cầm lấy ba toong.

- Các ngài cứ luận bàn công việc. Tôi phải đến Vạn Hạnh. Bữa nay có tiết giảng.

- ủa! Còn cái chuyện tôi nhờ anh?

- Mấy bữa nữa tôi sẽ “phôn” cho anh.

- Thế anh không ở lại dùng cơm trưa với tôi sao? Đã lâu lắm rồi chúng ta... Bữa cơm gia đình, có cả thiếu tá Xanh đây nữa. Tôi đảm bảo tiếp xúc với ông ta, giáo sư sẽ thay đổi được khá nhiều quan niệm.

Ngài đô trưởng bắt tay giáo sư thật chặt.

Ra tới cửa, ngài nói nhỏ vào tai giáo sư:

- Tình hình này phải biết giữ mình. Không phải ai cũng hiểu anh được như tôi đâu.

- Tôi nói vậy chác anh hiểu.

Giáo sư Luân nhún vai không nói và đi luôn. Ra tới đường ông mới vỡ lẽ ra rằng mình chưa hề gặp con người tên Xanh ấy bao giờ cả, nhưng vẻ mặt anh ta thì ông không lạ, tất cả những kẻ tráo trở đều có những nét hao hao giống nhau. Và ông mừng thầm đã không đưa việc cậu con trai ra lúc ấy.

Ông không đi đến đại học Vạn Hạnh mà lộn trở lại nhà. ông thấy có chuyện cần phải nói với đứa con trai. Nói ngay hôm nay chứ không thể để một buổi nào khác. Nếu vẫn thế thì đầu tuần sau nó đã phải đi rồi. Điều ấy... Đau đầu vô cùng.

Cùng lúc đó, trên căn phòng có tường cách âm ông vừa rời khỏi, ngài đô trưởng nghiêng hẳn đầu về phía thiếu tá Xanh để nghe cho rõ.

- Nó đã xuất hiện được bữa nay. Thằng Xuân! Dạ thằng Xuân! Tôi không thể lầm được, mặc dù nó đã cải trang trông giống hệt một gã người Thượng.

- Một gã người Thượng? ông không nhầm đấy chớ?

- Đối với người khác thì nhầm nhưng với tôi thì dù cho nó có cải trang thành quỷ tôi cũng nhận được. Đây là một thủ đoạn cải trang hoàn toàn mới lạ của chúng nó. Một gã người Thượng ngồi bán thuốc nam giữa phố chợ nghẹt người! Chà. Thoạt đầu tôi cũng không để ý vì nó khác quá! Khác hẳn. Một bộ mặt được là ủi kĩ lắm mới có thể được như thế. Nhưng dần dần tôi thường thấy nó hay làm bộ lảng vảng ở khu cư xá Mỹ. Một thằng bán thuốc thông thường thì chỉ muốn bán chác cho nhanh rồi lo cuốn xéo về nhà ôm vợ. Thằng này buôn bán khủng khỉnh, không có vẻ gì ham lời ham lãi cả. Nhưng tới khi tôi nhìn thấy bàn tay nó đếm tiền, hai bàn tay có chín ngón thì tôi đã ngờ ngợ. Và đến lúc nhìn vào mắt nó thì... Con mắt lạ lắm! Chỉ có nó mới có thể có con mắt kì lạ như vậy.

- Sao anh nói sau khi trốn tu nó đang bị... A, bị treo giò ở hậu cứ?

- Dạ! Chính thế mà tôi vẫn chưa đoán chắc.

- Lúc này nó đang ở đâu?

- Đêm qua nó vào một gia đình ở chân cầu xa lộ cho thuốc một đứa bé bị bệnh rồi ngủ luôn đấy. Sáng nay nó lên xe lam ngược xa lộ đi đâu không biết. Tôi đã cho bám.

- ô kê! Anh tinh nhanh lắm. Nếu không có những người từ trong ruột chúng nó chun ra như anh thì quỷ mới biết được. Chà! Lảng vảng ở khu cư xá Mỹ à? Chuyện không còn đơn giản nữa rồi. Một tuần nữa cuộc lễ quan trọng sẽ diễn ra ở đó. Nè! Có thể ở đâu đó phía bắc xa lộ nó có cơ sở? Và ngay cả cái gia đình hôm qua biết đâu cũng là một thứ trạm cung cấp tin tức? Phải đặt ra nhiều giả thuyết, phải tung lực lượng phong tỏa khắp nơi và phải hết kín đáo. Nhưng mà... Sao có thể nhanh thế được? Tôi chưa thật tin lắm. Hay là...

- Ngài cứ yên tâm - hắn chau mày - Bằng cách nào đó tôi sẽ đích thân kiểm tra lại.

-Tôi tin ở thiếu tá. Thế còn gia đình ở chân cầu đó là gia đình nào? Chắc là thân cộng hay người nhà Việt cộng chớ?

-Thưa ngài! Một gia đình máy may bình thường mới dời nhà từ Bến Tre lên được gần năm nay. Để tôi điều tra thêm.

Thiếu tướng đi lại trong phòng, đầu gật gù.

- Chà! Bán thuốc! Bán thuốc à? Ghê gớm thật. Coi chừng ông bạn trí thức của tôi lại có lí hơn chúng ta, ông Xanh! ông toàn quyền hành động, không cần phải viện đến bên Tổng nha nữa, chậm chuyện, ông nên nhớ: coi như nó có mặt ở Sài Gòn này giờ nào là giờ đó không yên đâu.

Hoàng Xanh cúi thấp đầu xuống nói nhỏ như nói với riêng mình:

- Dạ! Cái đó thì tôi hiểu...

-Còn cái ông bạn giáo sư của tôi nữa? Cũng thật là khó hiểu. Có lẽ tôi phải qua bên ông đại tá cảnh sát trưởng một chút. Tất cả đều có thể xảy ra.

Tới nửa đường, Thiếu tá Hoàng Xanh ghé vào một tiệm cà phê váng vẻ, kiếm chỗ kín đáo ngồi. Ngồi chưa ấm chỗ, hắn lại đứng dậy. Li cà phê bốc khói vừa mang đến, hắn móc túi trả tiền rồi đi luôn. Tưởng con người này đang có gì vội vã nhưng ra đến cửa, hắn đứng lại nheo nheo mắt nhìn người qua lại một lúc rồi chặc lưỡi đi tát qua đường. Rõ ràng điểm hắn định tới chỉ mới xuất hiện trong đầu. Một chiếc xe lôi phóng qua phun khói vào người hắn. Mặt Hắn nhăn lại: Nhăn lại không phải vì khói mà vì tiếng động cơ rền rĩ như một tràng đại liên bắn gần xoi xói vào óc. Hắn lững thững đi đến căn nhà nhỏ nằm khuất trong một ngõ váng có nhiều bóng me. Dừng lại một chút ở cách cổng phủ đỏ bông giấy, hắn tiếp tục bước đi. Đến đầu ngõ không hiểu ngẫm nghĩ thế nào hắn lại lộn lại. Tiếng chuông rè rè nghe lạc lõng. Một thiếu phụ không còn trẻ trung nhưng khá đẹp ra mở cửa. Thấy Hắn thiếu phụ reo khẽ lên một tiếng rồi vội đuổi con chó Nhật sắp xù lông ra sủa.

... Hắn ngả người trên sa lông, chân duỗi thẳng, mắt nhìn dính vào tấm gương to treo ở giữa phòng. Điếu thuốc không được rít, khói cay xông lên làm Hắn chớp mắt. Thằng người trong gương chợt hiện ra. Hắn đấy ư? Trông cũng được đó chớ. Trán cao, vai rộng, mặt cương nghị. Có lẽ mình mặc bộ này hợp hơn mặc quân phục? Hắn nhướng mắt to lên rồi lại vội nhíu lại ngay. Lâu nay hắn không quen nhìn thẳng vào mắt mình. Hắn đứng lên đi ra cửa sổ rồi lại quay vào, ngồi xuống. Hắn thấy trong lòng sao cứ bồn chồn. Đôi mắt ấy... Phải chính đôi mắt ấy cứ lửng lơ ở trước mặt hắn. Đi một mình ngoài đường không được, hắn phải đến đây cũng như sau mỗi lần thấy có điều gì bất ổn trong đầu, hán lại tìm tới ngôi nhà này. Thiếu phụ đang cúi xuống nhìn hắn, đôi mắt mơn trớn. Hắn lầm lì đứng dậy đi những bước ngắn và chậm trong phòng.

Đến cạnh thiếu phụ, hắn chững lại, không chủ đích. Một thoáng tần ngần... Bằng một động tác cũng rất quen thuộc và thành thạo, Hắn nhẹ nhàng xoay vai thiếu phụ vào lòng mình... Nhưng đúng vào cái lúc đáng lẽ đưa bàn tay ám khói ra phía đầu giường tắt đèn thì hắn lại từ tốn đứng dậy, rồi cũng rất từ tốn hắn lặng lẽ đi ra khỏi phòng.

Thiếu phụ mở bừng mắt không hiểu... Hồi lâu, thì vật mình xuống nệm, mặt vẫn còn đỏ lựng.

- Thằng điên!

Hắn nhìn đồng hồ.

Chưa tới giờ nhận báo cáo. Đi đâu bây giờ? Hắn thật không muốn ngồi vào cái bàn sắt nặng nề màu xám trong phòng làm việc của hắn một chút nào. Hắn định tạt vào tiệm ăn gọi mấy món đồ nguội song không thấy đói. Mấy hôm nay, kể từ lúc tình cờ gặp người bán thuốc ở chợ, Hắn cứ thấy nôn nao như sắp gặp một điều gì ghê gớm. Song có lúc, chính cái điều ấy, hắn lại cảm thấy như mình đã trải qua rồi. Rượu không làm cho hắn bình tâm. Từng bước một, đế giầy Hắn tỉ mẩm đếm gạch trên hè phố.

Vậy là hắn đã trở về cái thành phố này gần trọn năm rồi. Một năm trôi qua kỳ lạ đến nỗi nhiều đêm thức dậy, hắn bàng hoàng không hiểu mình đang ở đâu. Lí lịch hắn cũng khúc khuỷu như tâm trạng hắn. Ba năm làm thư ký cho chủ tịch nghiệp đoàn Taxi, hai năm thoát li ra rừng, lại ba năm vào thành với danh nghĩa một kí giả trẻ tuổi và tháo vát. Hắn đã mặt hầu hết ở tất cả các trận đánh và chưa hề thất bại lần nào. Hồi ấy cách mạng dâng cao như thác lũ. Với chỗ đứng của một chiến sĩ biệt động đô, đã có một thời kì hắn là tượng trưng cho lòng quả cảm, trí sáng tạo, và ý chí không khoan nhượng với kẻ thù trước con mắt đồng đội. Cấp trên tin cậy năng lực chiến đấu của hắn. Toàn bộ phẩm chất người chiến sĩ biệt động cũng hàm chứa trong cái năng lực đó. Người ta tiếp tục trao cho hắn những nhiệm vụ ngày một nặng nề hơn. Hắn hoàn thành trót lọt. Có đợt, Hắn nằm lì ở thành tới cả nửa năm trời để theo đuổi một mục tiêu. Không sao! Thế nào rồi con người ấy cũng sẽ tìm được một cách đánh mới lạ. Họ không từ chối bất cứ một lời yêu cầu nào của hắn. Đồng đội cũng không tiếc gì, kể cả tính mạng, tù đày để hắn chú tâm vào công việc.

Cũng chính trong thời gian đó, hoàn toàn vượt ra ngoài ý muốn của hắn, cái tâm bên trong hắn dần dần bị mềm đi. Thành phố như một cái xoáy nước khổng lồ làm cho hắn chóng mặt. Những lần trở về hậu cứ, bạn bè thấy Hắn ít nói hơn. Và những khó khăn trong các trận đánh qua miệng hắn cũng nhiều dần lên. Ai có thể, kể cả hán, ngờ được rằng, trong quá trình tẩn công vào kẻ thù, người lính ấy đã từng phút bị bản chất kẻ thù tiêm nhiễm trở lại mà không hay. Từ nhức óc với nhịp điệu cuồng loạn của phố phường, đến chỗ thấy Dần dần quen tai. Từ xót xa với lối sống đàng điếm, mất hết sinh khí đến chỗ hắn bỗng thấy thương cảm để rồi chặc lưỡi: “Biết làm sao khác được! Chân lí còn nằm ngoài tầm tay của họ”. Lạ lùng hơn nữa, những thằng mặc áo lính Quốc gia, áo lính ngoại quốc, những thằng người mà trước đây mỗi lần thoáng nhìn thấy là hắn muốn xiết cò ngay, bây giờ trong hắn chỉ nảy sinh một cảm giác xa lạ. Xa lạ thường là cái đi của sự gần gũi. Và nổi lên trên tất cả là những trận đánh nối tiếp mãi không thôi, biết chừng nào mới là trận cuối? Tuổi tác hắn cũng không còn trẻ nữa, lại thêm những vết thương sau mỗi trận lại nhiều hơn. Rồi cuộc đời sẽ đi đến đâu? Đám sương mù ảm đạm ấy lờn vờn trước mắt hán. Thế là hắn quên. Quên dàn màu lá rừng, quên dần khúc sông nước lớn lại ròng nuôi hắn bằng cá bằng rau, quên luôn cả những khuôn mặt xanh xao thiếu nắng của đồng đội. Nếu nhớ thì hắn chỉ còn nhớ bộ mặt lạnh như tiền của người đội trưởng, cấp trên trực tiếp của hắn. Trong một trận đánh, hắn tự động bác bỏ phương án của viên đội trưởng này. Đó là một lối đánh thí mạng, không có hiệu quả và phơi bày toàn bộ bí quyết binh chủng. Hắn nói thế và bộ mặt lạnh như tiền kia trút xuống đầu Hắn cả một đống quan điểm, lỗi lầm này nọ “Tôi không hèn trước chúng nó thì tôi cũng không thể hèn trước anh. Mệnh lệnh của Đảng, tôi xin chấp hành”. Hắn nuốt giận lao vào trận... Trận đánh thất bại, hai người không trở về. Chính Hắn cũng bị thương. Hôm sau hắn làm lì nhận một kỉ luật tạm đình chỉ công tác sau khi đã giáng thẳng cánh vào mặt người đội trưởng ấy một cái tát. Nửa tháng sau, bộ tư lệnh thành xác minh phương án của hắn là đúng và quyết định điều viên đội trưởng ấy về phía sau. Nhưng muộn rồi. Lại thêm một sự u uất vào trong cái bã bời đang hình thành trong hán. Hắn sống trầm đi, tách biệt mọi người. Mưa bao giờ cũng gợi mung lung. Mưa trong rừng càng mờ mịt. Còn phải sống cảnh này đến bao giờ nữa? Kẻ thù sao sống dai thế? Giết được thằng này nó lại mọc thêm thằng khác, ác ôn hơn. Bạn bè cũ quay đi quay lại hy sinh phần lớn. Bao giờ đến lượt ta? Thôi thì cứ đến cho xong. Chờ đợi điều bất hạnh còn ghê gớm hơn chính sự bất hạnh. Nhưng nó chưa đến thì hắn phải nghĩ cách thức làm sao tránh được nó. Đêm chụp xuống, hắn đã nghĩ đến chuyện vín vào sức khỏe để được về phía sau. Hoặc cố tạo ra một vết thương trầm trọng nào đó để có cớ lên cơ quan hậu cứ ngồi. Hay là... Hắn đã nghĩ loáng thoáng đến chuyện nếu bị bắt? Nhưng sáng ra, khi trên sông tràn ngập ánh nắng, hắn lại không làm gì cả. Hắn thấy mình tỉnh táo hơn và dưới kia, Sài Gòn với những mục tiêu, với những con người, phố xá... lại kích thích trí tưởng tượng của hắn. Nhưng rồi chỉ vài ngày sau, những ý nghĩ u ám ấy lại trở về. Những trận đánh không còn hiệu quả. Những tin tức thưa dần đi. Bạn bè thông cảm với hán. Cấp trên cũng chẳng nghĩ gì. Kẻ thù ngày càng có kinh nghiệm hơn, nghề đánh giặc đâu phải chỉ toàn có chiến công. Nắng trong rừng thật mỏng. Số phận Hắn sao mỏng manh. Số phận tất cả những người trong rừng đều mỏng manh. Dằng dặc quá. Những tòa nhà cao tầng, những âm thanh phố phường lẻn về ùa ngọp trong cái đầu trống rỗng của hán. Hắn thèm được sống cái cuộc sống đời thường, không lo láng, sáng dậy uống li cà phê nhàn tản, đêm lên giường nằm nghe sương rơi.

Hắn khát khao được sống như những con người yên hàn trong kia. Khao khát được gần gũi, được làm chủ hoàn toàn cô người tình của hắn. ôi chao! Sao ở đời lại có một người đàn bà ghê gớm đến thế được? Thị đã từng sống với hai đời chồng Mỹ. Và cứ sau vài năm, thị lại trở thành góa phụ. Nhưng số tài sản dành cho một góa phụ Mỹ lại nhân lên. Những cuộc nhân duyên ấy đến nay đối với hắn vẫn còn là điều bí mật. Hắn cũng chẳng cần biết làm gì. Miễn là mỗi làn gặp thị, hắn được chiều chuộng, được âu yếm. Thị là tất cả, là khát vọng, là bù đắp, là nơi nương tựa linh hồn của hán. Tòa nhà một tầng xinh xắn ở ngõ vắng với rượu, thuốc thơm. Con chuồn chuồn không bứt nổi ra khối nhựa mít nữa. Không hề gì. Nhiệm vụ và ái tình là hai cái khái niệm tách rời, không có khả năng tác động đến nhau. Hắn biện luận thế.

Ngày trước, hắn muốn trở về sau trận đánh sáng rực như một vị anh hùng. Nhưng núi rừng u tịch không có chỗ cho hắn phát sáng. Và làm sao mà sáng mãi cho được. Thật là ấu trĩ! Hãy sáng cho chính mình là đủ rồi. Cuộc đời có ai thương mình ngoài mình thương mình ra. Anh hùng và ti tiện, kẻ tháng và người thua cũng đều bình đẳng với nhau dưới mồ. Cuộc đời ngắn ngủi. Bản thân cuộc đời không có giá trị gì. Người thông minh là người biết tạo ra cái vui trên cái không có giá trị ấy. Đày đọa thân mình làm gì cho nhọc xác. Mát bên trái hắn nhìn sự vật rạch ròi ra, nhưng mắt bên phải lại tối xầm lại. Trái tim hắn cũng chia hai phần nóng lạnh không rõ ràng.

Và rồi sự giằng xé ấy hứng đón cả cuộc tổng tấn công Mậu thân. Như một chi tiết máy, hắn vận động cùng với guồng. Vận động vô tri và xọc xạch. Đồng đội ngã xuống nhiều. Hắn vẫn sống. Kẻ thù phản kích ác liệt. Hắn vẫn sống. Nhưng cái buổi sáng quái ác hắn và đội trưởng ba Xuân, người thay thế viên đội trưởng cũ, bị bủa vây bốn phía không còn một tấc sắt trong tay thì cái chi tiết mấy ấy bị văng ra. Những ngày trong khám tối, phần lạnh đen trong tim hắn đã hoàn toàn ngự trị. Hoảng hốt, không còn biết phải bám víu vào một cái gì nữa, hắn chỉ cần sự hiện diện của mình trên mảnh đất này, hiện diện dưới dáng vẻ nào cũng được, miễn là tồn tại. Và tối hôm ấy, để mặc người đội trưởng bê bết trên vũng máu của những trận đòn thù, hắn gõ cửa xà lim để xin được bước sang một thế giới khác. Giây phút cuối cùng, hắn còn kịp nhận thấy đôi mắt của người bạn tù trân trân nhìn mình. Đôi mắt...

Bước chân hắn vẫn đếm ngạch trên hè đường. Đã tới giờ hắn cần có mặt ở công sở để nhận báo cáo. Có lẽ tới đây phải xin thiếu tướng đặt một trụ sở riêng hoặc tự chọn địa điểm liên lạc với tay chân cho tiện làm việc. Hắn rất cần đơn độc. Hay nói đúng hơn, hắn không muốn tiếp xúc nhiều với những nhân viên an ninh cùng phòng. Họ cười đó, nói đó, tâng bóc hắn om xòm đó nhưng vẫn thấy giả tạo thế nào. Không ít làn hắn đã thấy những ánh mắt càu cạu thoáng chút giễu cợt hướng về mình. Láo trung tá trưởng phòng có lần vỗ vai Hắn thật mạnh: “Chú mày làm ăn khá đó. Mới nhập cuộc có hơn nửa năm mà đã có vẻ con nhà lắm. Ráng lên! Cứ đà này chỉ vài tháng nữa là chú mày vượt đàn anh dễ ợt”. Hắn bỗng thấy tê tái. Sao hắn có thể vỗ vai mình như vỗ vai một kẻ làm thuê như vậy được? Mình có phải em út của hắn đâu mà đàn anh với chẳng đàn em? Mà lại rặt một bọn giỏi chơi gái hơn giỏi đánh đấm nữa chớ. Mình trở về đây như trở v

Danh sách chương


Sách tương tự