Ông Đồ Bể

Ông Đồ Bể

Tổng số chương: 3

NGÀY xưa ở vùng bể có một ông đồ tục danh là ông đồ Bể.

Đừng tưởng cái tên đồ Bể ấy chỉ có nghĩa là một ông đồ ở vùng bể. Bể đây là rộng như bể, ý nói tâm và trí ông đồ rộng như biển cả.

Thời còn nhỏ, đó là một cậu học trò chăm chỉ, thông minh, và ngay thẳng, rất được thầy yêu mến và anh em bạn kính phục.

Năm hăm bốn tuổi ông vác lều chiếu đeo khăn gói ra Thăng-long thi hương. Kể thì ông đã đủ tài ứng thí từ hai khoa trước rồi. Hiềm nỗi nhà nghèo không xoay được tiền ăn đường, ông đành phải ở nhà dạy học cố để dành lấy vài chục quan làm khoản lộ phí. Vì thế mãi năm nay ông mới ra thi.

Một hôm ông vào nghỉ chân uống nước ở cái quán cạnh một tòa miếu cổ. Bà hàng dặn ông khi qua miếu phải bỏ nón, cúi đầu vì đức thánh ngài thiêng lắm. Ông mỉm cười đáp:

– Trời nắng chang chang thế này mà bỏ nón ra nhỡ bị cảm thì khốn!

Bà hàng mắt lấm lét nhìn ông:

– Chả khốn bằng bị ngài vật chết.

Ông đồ thản nhiên hỏi lại:

– Vậy ngài đã vật ai chưa?

Bà hàng hạ giọng thì thầm, kể cho ông đồ nghe những phép thiêng của ông thần. Rồi nói tiếp:

– Chừng như thầy khóa mang lều chiếu đi thi. Vậy thầy nên mua vàng hương vào miếu lạy thánh mà cầu phúc, thì thế nào cũng được tên chiếm bảng vàng.

Ông đồ Bể nghiêm sắc mặt, khảng khái đáp:

– Học thành tài rồi, tất thi đậu, mà chưa thành tài thì đợi đến khoa sau thi lại. Người quân tử không bao giờ chịu đi cầu khấn, lậy lục ai để được đỗ.

Dứt lời, trả tiền nước, đứng dậy đi liền.

Tới miếu, ông đồ dừng lại ngắm nghía cây đa cỗi, cành lá rườm rà che gần kín cái mái rêu phong. Hai bên cửa miếu, hai pho tượng đắp bằng đất, mặt đỏ, mắt trợn tròn như nhìn chòng chọc khách qua đường, và tay cầm thanh gươm giơ lên như lăm le muốn chém ai. Bên đường một cái mốc đá với hai chữ « HẠ-MÃ » nét khắc đã mờ.

Ông đồ Bể nghĩ thầm:

« Biển để hạ mã, nhưng ta có cưỡi ngựa đâu mà bảo xuống ngựa. Còn như ngả nón cúi đầu thì không thấy có yết thị. Vậy ta cứ đường hoàng dõng dạc mà đi. Người quân tử đầu đội trời chân đạp đất, không kiêu ngạo với ai, nhưng không khúm núm sợ ai. »

Và ông đồ ung dung tiến qua miếu.

.

Vừa đi khỏi mươi bước, nghe có tiếng động sau lưng ông quay lại. Một người y phục từa tựa như ông, và cũng vai mang lều chiếu tay xách khăn gói. Ông ngạc nhiên hỏi:

– Tiên sinh ra kinh kỳ ứng thí?

Người kia đáp:

– Thưa vâng.

– Tiên sinh đi đường nào tới mà vừa giờ tôi không gặp tiên sinh ở quán.

– Tôi ở miếu ra.

Người ấy nói thực. Vì đó chính là ông thần hiện thành hình một thầy khóa đi thi. Ông đồ hỏi:

– Tiên sinh vào miếu làm gì thế?

– Tôi vào lễ đức thánh để cầu khẩn ngài phù hộ cho được đỗ… cao. Vì ngài thiêng lắm ai cầu gì được nấy, mà ai vô lễ với ngài thế nào cũng sẽ bị ngài vật chết.

Đó là lời đe dọa của ông thần. Nhưng ông đồ ngay thẳng vô tình không lưu ý tới. Ông còn thật thà hỏi một câu mà thần cho là có ý nghĩa khiêu khích:

– Âm dương cách biệt, ngài làm thế nào mà quật chết được người trần?

– Ngài đã có phép chứ.

Rồi ông thần ngập ngừng, nói tiếp:

– Ban nãy tôi đứng trong miếu nhìn ra thấy tiên sinh hình như đi qua miếu không bỏ nón cúi đầu.

– Vâng, chính thế. Tôi tưởng thế cũng không phải là khiếm lễ với thần. Trời nắng thì phải đội nón. Còn như cái đầu nó đương thẳng thắn ở trên cái cổ can chi lại nghiêng nó đi, lại cúi nó xuống. Chỉ những kẻ hèn hạ, không biết tự trọng hay không chính trực, quang minh mới khúm núm sợ hãi mà thôi.

Ông thần mỉm cười, mỉa mai:

– Vậy hẳn là ngài chính trực, quang minh?

Nhưng ông đồ không tức giận và thản nhiên đáp:

– Tôi chỉ biết bình sinh không nói dối một câu, chưa bao giờ định làm một việc phi pháp, còn như có chính trực, quang minh hay không, thì quả tôi không dám khoe khoang rằng tôi chính trực. quang minh.

Ông thần thầm nhủ: « Được rồi! mi bảo mi không từng nói dối, không bao giờ làm việc phi pháp. Vậy ta sẽ theo mi để chờ cho mi nói dối một câu, hay làm một việc phi pháp, bấy giờ ta sẽ trị tội mi, ta sẽ quật mi chết tươi, cho hồn mi không còn oán hận ta được nữa, không còn đến kiện ta ở trước cửa tòa Diêm Vương được nữa.»

Ông thần nghĩ thế rồi thân mật bảo ông đồ:

– Bác tính ở đời ai mà không nhỡ có khi nói dối một câu.. vô hại.

– Có lẽ vì không biết hay vì vô tình mà sai lầm, chứ người quân tử không bao giờ lại có ý nói dối, dù câu nói dối của mình không có hại hay chỉ là một câu đùa bỡn để làm vui cho chúng bạn.

Ông thần đổi chuyện, hỏi:

– Chắc hẳn bác đã học thuộc hết bộ tứ-thư và kinh, sử.

Ông đồ thành thực và nhún nhường đáp:

– Người học giả nào dám tự phụ rằng mình đã học thuộc hết tứ-thư, kinh, sử. Vì trong đó còn có biết bao nhiêu điển tích mình không hiểu, còn có biết bao nhiêu ý nghĩa tinh vi mình chưa nhận xét được.

Ông thần ngầm phục tính thẳng thắn của kẻ thù, nhưng lòng càng căm tức. Lúc ấy ông đồ kêu khát nước và rướn nhìn phía xa xem bên đường có cái hàng quán nào không. Ông thần cười nói:

– Giá bây giờ có mía mà ăn vài tấm nhỉ?

– Thôi, còn phải nói!

Giữa lúc ấy, vừa đi khỏi rặng tre, hai người thấy một vườn mía hiện ra. Đó là một phép lạ của ông thần, nhưng ông đồ vô tình biết đâu mà để phòng lòng nham hiểm của bạn cùng đường. Vì thế ông thần vừa rủ để xuống vườn mía, ông đồ nghe theo ngay.

Nhưng ông không theo ông thần rút dao chặt mía. Ông chỉ cất tiếng hai ba lần gọi to:

– Ông chủ vườn mía!… có ai đấy không, ra bán mía?

Ông thần cười hỏi:

– Bác gọi người ta làm gì thế?

– Để mua mía.

– Vẽ! ăn một vài cây cho khỏi khát rồi đi. Ai biết đấy là đâu. Vả trong vườn mía có tới hàng nghìn hàng vạn cây, mình ăn một hai cây có thấm thía gì.

Ông đồ ôn tồn đáp:

– Lấy của người khác tức là làm điều phi pháp. Không ai trông thấy nhưng lương tâm mình biết và không để mình yên. Còn như bác bảo vườn mía có nhiều gốc, thì được thế là nhờ ở công trồng trọt của người ta chứ có phải tự nhiên nó mọc lên như cỏ đâu…

Nghĩ ngợi một lát ông lại nói:

– Nhưng chúng ta cứ việc ăn, tôi đã có cách.

Ông thần nửa mừng, nỉra lo, mừng vì thấy kẻ thù đã trúng kế mình, lo vì thấy hắn bảo đã có cách. Ông tự nhủ: « Thử xem cách ấy là cách gì?» …

Ăn xong hai cây mía, ông đồ mở khăn gói lấy mười sáu đồng tiền buộc vào cái cọc giậu và nói như phân vua.

– Ban nãy tôi mua sáu đồng một cây. Bây giờ tôi trả quá lên tám đồng, sợ ở đây người ta bán đắt hơn chăng.

Nghe nói, ông thần tái mặt đi, đành cũng lặng thinh lấy tiền làm theo bạn đồng hành. Nhưng ông bày ngay ra một mưu khác và nghĩ thầm: « Nó đã muốn thế thì ta cho nó hết tiền, vì chắc anh đồ ngông nghênh và kiết xác này chả có được bao nả. Cái kế của ta nhà binh gọi là: « tương kế tựu kế.»

Liền hóa phép ra một vườn dưa bở chín và thơm tho. Rồi rủ ông đồ xuống ăn. Nhưng ông kia từ chối:

– Xin mời bác cứ tự tiện. Còn tôi, tôi chỉ có một số tiền nhỏ mọn đủ để ăn trọ ở kinh đô trong một tháng, tôi không dám phung phí quá độ.

Thế là mưu kế của ông thần lại hỏng.

Trời chiều. Đường vắng. Tiếng chuông chùa buồn gieo trong yên lặng. Ông thần vờ lo lắng bảo ông đồ:

– Trời gần tối rồi mà quanh đây không có làng mạc hàng quán, chúng ta biết làm sao đây?

Ông đồ bình tĩnh trả lời:

– Ta cứ đi một quãng nữa xem có nơi nào, chúng ta sẽ xin vào ngủ trọ. Bằng không thì chúng ta dựng lều bên đường ngủ tạm một đêm phỏng đã sao?

Vừa nói dứt lời thì ở xa xa đã thấy lập lòe một tia lửa đỏ. Ông thần nói:

– Có lẽ đó là một cái quán.

Quả thực đó là một cái quán mà ông thần đã dùng phép thiêng dựng lên trong khoảnh khắc. Hai người đến gọi cửa. Hai thiếu nữ xinh đẹp ra đón tiếp. Ông thần mỉm cười nói trêu ghẹo:

– Chào hai cô mình! Hai cô mình ở đây có một mình thôi ư?

Cô chị nhí nhảnh đáp:

– Chả hai mình là gì!

Bọn họ làm thế để cốt dử cho ông đồ chính trực, quang minh cũng chớt nhả làm theo. Nhưng ông đồ chỉ lễ phép hỏi:

– Thưa hai cô, bà chủ hay ông chủ quán đâu, chúng tôi muốn ngủ trọ một đêm.

Cô em liếc mắt đưa tình:

– Chính chúng em là hai cô chủ quán. Thầy chúng em mất rồi. Còn mẹ chúng em thì bỏ chúng em đây để đi tái giá.

Ông đồ buồn rầu nói:

– Thế thì chúng tôi lấy làm tiếc rằng không thể ngủ trọ hàng hai cô được.

– Tại sao?

– Vì không là vợ chồng thì một người đàn ông trẻ tuổi không thể ngủ cùng nhà với một người con gái xinh đẹp được.

Nói đoạn, ông đồ giương lều nằm ngủ ở trước cổng để mặc ông thần vào trong quán trọ của hai người thiếu nữ.

Sáng hôm sau ông đồ dậy sớm thu xếp lều chiếu gói lại. Ông vui sướng nghe chim muông ca ríu rít trên cành cây tươi xanh. Và tức cảnh ông vịnh một bài thơ tứ tuyệt. Lòng ông lâng lâng thanh thoát không gợn chút hình ảnh hai người gái đẹp tối hôm qua. Trả tiền cơm nước xong, hai người lại lên đường. Ông thần càng căm tức vì nỗi không sao đưa được kẻ thù vào tròng. Nhưng ông càng niềm nở và thân mật.

Và ông xoay kế khác: «Ta không giết được nó về tội nói dối hay về tội làm điều phi pháp thì ta sẽ giết nó về cái tính bất cần và hấp tấp không chịu suy nghĩ vậy.»

Thần liền hóa phép ra một cái giếng khơi. Giữa trưa, trời nắng gắt, ai chẳng khát nước, và gặp giếng mát, nước trong, ai chẳng vui thích muốn uống! Nhưng giếng sâu quá mà miệng giếng lại nhỏ quá, không sao thò tay múc tới nước được.

Dù thế mặc lòng, ông thần cũng lấy bát gỗ ra, rồi theo thành giếng leo xuống. Uống xong, ông ta lại leo lên một cách dễ dàng nhanh nhẹn ; vì ông ta là thần, có nhiều phép lạ nên không thể trượt chân ngã được.

Đến lượt ông đồ Bể. Ông đứng tì thành giếng ngó xuống đáy nước. Và ông nói:

– Bác thực có tài! Chứ giếng sâu thế này thì tôi xin chịu, không thể nào xuống được.

Gần đấy, hai người lực điền đang tát nước bằng chiếc gầu dây. Ông đồ liền chạy lại mượn, rồi thả gầu xuống múc nước uống. Lúc hết khát, ông đồ mới kịp nhận thấy ở trong gầu có một nén vàng, tia sáng chiếu lên chói lòe cả mắt. Ông giơ lên hỏi:

– Cái gì thế này?

Ông thần ghé lại nhìn:

– Dễ vàng! Phải, đích vàng rồi. Số bác được của! Trời cho bác đấy! Nên gói vào khăn để khi nào thi đỗ xong dùng mà làm tiệc ăn mừng.

Ông đồ lắc đầu:

– Vàng này không phải của tôi, khi nào tôi lại lấy như thế!

– Nhưng vàng ấy không phải của ai, thì bác bắt được nó là của bác.

– Biết đâu rằng không phải vàng của thần giếng. Vì vàng nặng tất chìm. Thế mà đây vàng nổi trên mặt nước, đủ rõ rằng đó không phải là vàng của người dương thế.

Nói đoạn, ông đồ cất tiếng hô lớn:

– Ngươi là vật sở hữu của ai, bản thân ngươi là gì, phải hiện nguyên hình mà về với chủ ngươi.

Tức thì, một con rắn vàng quẫy mạnh nhảy từ lòng gầu xuống đáy giếng. Nén vàng đã biến mất.

Danh sách chương


Sách tương tự