← Quay lại trang sách

- II -

CHIỀU hôm ấy hai người tới kinh đô. Ông thần rủ ông đồ đến trọ ở một hàng cơm phố hàng Trống cho được gần trường thi. Về mùa thi cử ở phố nào cũng có hàng cơm, và nhiều nhà thường đổi thành khách sạn.

Vừa đến nơi ông đồ đã nghe thấy các thầy khóa bàn tán:

– Năm nay lão đốc Sơn-Nam chủ khảo.

– Thế thì nguy to rồi.

– Thôi anh em mình đành mang hận trở về.

– Lão ta làm chủ khảo thì tôi nhất định không thèm thi.

Ông đồ Bể hỏi:

– Sao quan đốc học Sơn-Nam làm chánh chủ khảo, tiên sinh lại bỏ thi?

Người kia giọng gắt gỏng:

– Vì lão ta ăn tiền dữ lắm. Đút lót lão thì đỗ, không đút lót lão thì dẫu có tài cũng bằng thừa. Như thế còn thi với cử làm gì?

Ông đồ Bể suy nghĩ rồi đáp:

– Thiết tưởng thánh thượng đã định kén chọn nhân tài thì tất phải giao việc ấy cho những bầy tôi xứng đáng. Tôi sợ tiên sinh ngờ oan cho quan chánh chủ khảo chăng?

– Oan gì! Còn ai lạ cái tính xiểm mị và ăn hối lộ của lão đốc học già ấy. Lão ta tuy đỗ Trạng đấy, nhưng lão ta lại Trạng cả về khoa đục khoét nữa.

Câu nói khôi hài làm gian phòng trọ vang động tiếng cười. Không còn ai thèm giấu giếm, kiêng nể nữa ; lòng công phẫn của các thí sinh đã nghiễm nhiên trở nên ầm ỹ và ồn ào.

Cơm nước xong, ông thần rủ ông đồ đi dạo chơi các phố. Lần đầu tiên ông đồ tới kinh đô, song những thứ được xem ông đã đọc qua trong các pho sách Tàu mà mấy người bạn học giàu có cho ông mượn, nên ông không lấy làm kỳ dị lắm và không trầm trồ khen ngợi như nhiều người nhà quê mới bước chân đến một nơi thành thị náo nhiệt lộng lẫy. Thấy thế, ông thần liền hỏi một câu để được bắt quả tang ông đồ nói dối:

– Chắc bác đã nhiều lần đến kinh đô?

– Không, lần này là lần đầu tôi lai kinh ứng thí.

– Nhưng các hàng hóa bày bán ở các phố, chắc bác đã được coi nhiều lần rồi?

– Không, lần này là lần thứ nhất tôi nhìn thấy. Nhưng tôi đã được thấy tả trong các pho sách Tàu mà người ta cho tôi mượn.

Tới một phố vắng, ông thần ghé gần lại thì thầm bảo ông đồ:

– Tôi có một câu chuyện tâm sự muốn ngỏ cùng bác.

Ông đồ nhún nhường đáp:

– Vậy xin bác cho nghe, may ra tôi sẽ được một bài học về khoa xử thế.

– Chỉ sợ bác cho là quá đường đột.

– Thưa bác, tôi đâu dám, xin bác cứ chỉ giáo cho.

Giọng nói của ông thần càng nhỏ hơn:

– Tôi thấy bác là người có tài lỗi lạc mà càng ngày tôi càng thêm kính mến. Có học lực, có thông minh như bác thì phải đỗ, mà phải đỗ cao nếu không đỗ đầu. Nhưng xem tình hình khoa này và nghe những lời phẩm bình viên chánh chủ khảo thì dẫu làm văn hay như rồng bay phượng múa mà không đút lót cũng khó lòng đỗ được.

Ông đồ ngắt lời, nói gạt:

– Đó là họ phỏng đoán cả, chứ đấng thiên tử là bực minh quân thì các quan tất phải là các bực lương quan, thanh liêm và chính trực. Đâu lại có chuyện ăn tiền ăn lễ như lời họ đồn?

Ông thần mỉm cười:

– Bác ạ, thế gian chẳng ít thì nhiều, không dưng ai dễ đặt điều cho ai. Lão đốc ấy tôi xem ra có vẻ gian giảo thực đấy.

Ông đồ buồn rầu đáp:

– Nếu quả có thế thì đành chờ khoa sau vậy, chứ biết sao?

Ông thần lắc đầu:

– Tôi thì tôi nghĩ khác. Tuổi trẻ của người ta chỉ có một thời. Rồi người ta già yếu, trí tuệ mòn mỏi dần dần. Bác vì nhà nghèo mà khoa này mới ứng thí được kể đã muộn lắm rồi. Đáng lẽ bác phải chiếm bảng vàng ngay từ một, hai khoa trước. Vậy chẳng lẽ chỉ vì sự bất công của một viên chánh chủ khảo thiếu lương tâm mà mình chịu để mai một đại danh của mình, mà mình chịu để phí mất cái tuổi trẻ quý báu của mình ư!

Rồi ghé sát tai ông đồ, ông thần thì thào:

– Chẳng nói giấu gì bác, nhờ trời nhà tôi giàu có. Tôi đã đem theo đây bốn nén vàng để phòng khi gặp phải ông chánh chủ khảo có máu tham đồng, đổi trắng thay đen, thì sẽ tùy cơ ứng biến. Đây bác cầm lấy hai nén rồi ngay đêm nay chúng ta cùng nhau tìm vào nơi nhà riêng của viên đốc học.

Ông đồ Bể từ chối, nói thà rằng không đỗ chứ nhất định không chịu đút lót, lễ lạc để mất cả phẩm giá con người.

Đến đây ông thần mới tỉnh ngộ và hiểu rằng không có cách gì, không thể dùng mưu thần chước quỷ nào trị nổi một người chính trực, quang minh như ông đồ Bể được.

Lòng thù ghét của ông thần đối với ông đồ vụt đổi ra lòng cảm phục. Từ nay ông sẽ cứ ở luôn bên mình ông đồ như trước, nhưng để ủng hộ chứ không phải để hãm hại nữa.

Vì thế, ông đồ Bể vào lọt được bốn kỳ cũng là nhờ ở sức giúp đỡ của ông thần. Kỳ nào chấm đến bài của ông đồ Bể, ông chánh chủ khảo cũng nhận thấy văn chương lỗi lạc đáng được phê ưu. Nhưng ông nghĩ thầm: «Thằng này cậy có tài không thèm biết đến ta. Vậy ta thử phê liệt cho nó hỏng tuột xem nó có còn chỉ cậy ở văn tài và học lực được nữa không!» Và ông mỉm cười chấm son thong thả viết chữ « liệt » đỏ rất lo, rồi khinh bỉ vứt quyển thi sang một bên. Điều ông không ngờ tới, là chữ « liệt » của ông chỉ là chữ « ưu »: ông thần đã đưa tay ông viết chữ nọ hóa ra chữ kia mà ông vẫn không biết.

Thế rồi, xong bốn kỳ thi, ông đồ Bể đậu thủ khoa. Thành thử cái người mà ông chánh chủ khảo định để đỗ đầu phải trụt xuống thứ nhì. Chính ông cùng không hiểu tại sao. Ông đành thở dài trả lại người ấy hai mươi nén bạc trong số năm mươi nén mà người ấy đã khấn ông để mua cho bằng được cái hương khôi.

Ông đồ Bể thẳng thắn tự nhủ: « Đấy, ta đã bảo các quan trường công minh mà! Quả có sai đâu! »

Hôm xướng danh, thiên hạ nô nức đi xem. Các cô thiếu nữ Long- thành chen vai thích cánh để được thấy mặt ông thủ khoa. Nhưng ông này không để ý tới một cô nào, tiến thẳng lại chỗ các quan trường, vái dài rồi vội vàng lĩnh lấy mũ áo vua ban ra đi.

*

SỢ món tiền lộ phí thiếu hụt nếu ông còn dềnh dàng ở lại xem các nơi danh thắng chốn đế đô, ngay hôm ấy ông tân khoa trở về làng.

Khi qua miếu cổ, ông thần ra đón tiếp:

– Chào ông cống mới.

Ông thủ khoa đoán chừng người bạn cùng đường đã lạc đệ nên lủi mất ngay từ hôm nghe tin mình trúng cử. Liền an ủi mấy câu:

– Thi cử chẳng qua ăn nhau về số mệnh. Thôi thì khoa này chẳng đậu bác chờ khoa sau… Có tài như bác, lo gì!

Ông thần cười, nói:

– Lần đầu tiên bác nói dối đấy nhé. Bác thừa biết rằng phải có tài lỗi lạc như bác mới đáng đỗ sao bác còn đem câu khách sáo về số mệnh ra an ủi tôi?

Ông thủ khoa cũng cười. Ông thần lại nói:

– Nhưng nay dù bác có nói dối một câu vô tội với người hỏng thi để người ấy khỏi mủi lòng, tôi cũng không tìm cách trị tội bác đâu. Vì nay bác đã trở nên một bạn chí thân của tôi rồi.

Ông thủ khoa ngơ ngác không hiểu. Ông thần liền đem hết chuyện thực ra kể, từ hôm ông đồ qua miếu không ngả nón cúi đầu cho tới hôm ông trúng cử. Nói xong, ông thần biến mất.

Ông thủ khoa buồn rầu thầm nghĩ: « Thì ra nhờ có thần, mình mới đỗ. Như thế, cái thủ khoa của mình phỏng còn giá trị gì!»

Ý nghĩ ấy vẫn lẩn quẩn trong óc ông khi ông lủi thủi về tới đầu làng. Vì thế, thấy dân làng tấp nập mang cờ, mang lọng ra đón rước, ông xua tay nói:

– Xin mời các ông về cho. Tôi chẳng đỗ đạt gì cả mà rước xách. Tôi vẫn là ông đồ Bể như xưa thôi, các ông ạ.

Ai nấy kinh ngạc không hiểu và nhất định ép ông tân khoa ngồi lên võng. Xem chừng không từ chối nổi, ông thủ khoa đành phân trần:

– Tôi đỗ là nhờ ở một sự mắn may, một sự bất công, nên thế nào rồi tôi cũng phải dâng sớ tâu lên đức hoàng thượng để xin ngài đánh hỏng tuột cái thủ khoa của tôi đi để tránh khỏi một sự man trá do một vị hung thần bày ra. Vậy nếu các ông có yêu tôi mà cho tôi ngồi võng để khiêng tôi về thì tôi xin vâng. Còn nói to tát rằng đón rước một ông thủ khoa thì quả thực tôi không dám nhận.

Dân làng cho là ông tân khoa quá nhún nhường nên cũng tuân theo mà hạ cờ im trống, rước ông về nơi nhà tranh chật hẹp.

Mẹ già ông nghe tin ông đỗ đã đi vay tiền bà con mua một con bò, hai con lợn, chục thúng gạo tẻ, dăm thúng gạo nếp, chờ con về thì làm tiệc ăn khao. Nhưng ông thủ khoa khóc lạy mẹ xin hãy để cho thong thả.

Rồi lập tức ông lấy giấy bút thảo một tờ sớ tâu lên thiên tử, kể hết đầu đuôi việc gặp thần và được thần giúp. Sau cùng ông xin hoàng thượng xuống chiếu tiêu hủy cái thủ khoa gian lận của ông đi.

Nhận được sớ của ông thủ khoa, vua và các quan trong triều đều kinh ngạc. Vua cho đó là một sự rất lạ, rất hiếm ở chốn nhân gian: một người được chấm đỗ đầu rồi còn dâng sớ khiếu oan, kêu rằng mình thực không đáng đỗ mà bỗng được người ta cho đỗ oan. Một quan ngự sử quỳ tâu:

– Kẻ hạ thần đồ rằng viên thủ khoa mắc chứng điên.

Vua cười, phán:

– Hơn hết là đem các bài thi của hắn ra duyệt lại.

Khi một viên hàn lâm tốt giọng đã lần lượt đọc hết bốn bài văn, kinh nghĩa, thơ, phú và văn sách của thủ khoa thì hoàng thượng trầm trồ khen ngợi:

– Văn bài ấy quả thực đáng phê ưu.

Ngài liền cầm các bài văn đọc lại một lượt nữa. Và vì thế ngài trông thấy bốn chữ « ƯU» của viên chánh chủ khảo bên những chữ bình của các viên sơ khảo, phúc khảo. Ngài cảm động nghĩ thầm: « Viên đốc học Sơn-đông thực là một người tôi hiền. Không có hắn thì ta đã mất một vị thủ khoa có học vấn uyên thâm.»

Ngài liền xuống chiếu cất viên đốc học Sơn-Nam lên chức học bộ thượng thư, và ban lệnh cho đòi viên thủ khoa Bể đến triều bệ kiến.

Mười hôm sau, một người quần nâu áo nâu đi đất tiến đến cửa ngọ môn. Nghe người ấy xưng danh là ông đồ Bể vừa nhận được chiếu chỉ vời vào triều bệ kiến, quân lính không tin và đến trình các quan để các quan tâu lên thiên tử. Thiên tử nghe tâu cười ngất, truyền cho dẫn người kỳ dị kia vào hầu.

Ngắm vẻ mặt khôi ngô và nghe lời biện bạch thâm thúy, vua hiểu ngay rằng đó là một bậc chân tài. Ngài liền phán:

– Sao mũ áo trẫm ban cho, ngươi không dùng?

Ông thủ khoa quỳ tâu:

– Dạ, kẻ hạ thần có đem theo để nộp lên thánh thượng, vì kẻ hạ thần tự xét không xứng đáng với phẩm phục của triều đình.

Dứt lời liền mở khăn gói lấy mũ áo kính cẩn dâng lên.

Vua cười:

– Trẫm đã xét lại văn bài của ngươi rồi, ngươi thực đáng đậu thủ khoa. Vậy trẫm cho phép nhà ngươi hãy vào nhà trong sửa sang mũ ảo chỉnh tề rồi ra đợi lệnh.

Đại đanh của ông thủ khoa đồn khắp kinh thành và đến tận tai hoàng hậu. Hoàng hậu liền vời vào nội cung để xem mặt. Rồi sau khi ban thuởng một chén rượu thọ, Ngài truyền thủ khoa thuật lại câu chuyện gặp thần mà thủ khoa có nói sơ trong bản văn dâng lên thiên tử.

Thủ khoa không quen uống rượu nên mới nhấp một chén đã chuếnh choáng, nóng bừng mặt. Vì thế ông không còn đủ sáng suốt để giữ gìn, đem hết sự thực ra kể. Tới đoạn viên chủ khảo định hạ bút phê liệt, chữ «liệt» lại hóa ra chữ «ưu», hoàng hậu chau mày nói:

– Tên chủ khảo gian trá đến bậc ấy mà sao Thiên tử lại làm cất hắn lên chức học bộ thượng thư?

Hoàng hậu bèn truyền thủ khoa theo đến trước mặt Thiên tử và kể lại câu chuyện thi cử để ngài nghe. Lúc bấy giờ ông thủ khoa đã tỉnh rượu nhưng không dám giấu điếm một điều gì, vì đã trót một lần thuật hết sự thực.

Vua nổi cơn thịnh nộ, tức thì xuống lệnh đòi viên thượng thư bộ học đến trước ngai rồng mà mắng rằng:

– Trẫm giao cho nhà ngươi cái trọng trách kén nhân tài, ai ngờ ngươi chỉ tưởng đến ăn lễ chứ không nghĩ gì đến sự phó thác ân cần của trẫm. Như những bài văn của viên thủ khoa đây mà ngươi định phê liệt thì thật ngươi không còn coi ai ra gì nữa. Tội khi quân này đáng lẽ phải xử trảm, nay trẫm hãy tạm giáng ngươi xuống chức huấn đạo cho ngươi ăn năn sửa mình.

Viên thượng thư sợ hãi mướt mồ hôi, cúi đầu đứng im thin thít vì không hiểu sao hoàng thượng lại đoán biết được ý nghĩ thầm kín của mình.