← Quay lại trang sách

- III -

MÙA xuân năm sau ông thủ khoa Bể lại tới kinh đô thi hội và thi đình. Lần này ông y phục chỉnh tề, ung dung cưỡi con ngựa trắng vua ban, và không phải khệ nệ mang theo lều chiếu như ngày đi thi hương nữa. Nhưng cái khăn gói nâu cũ ông vẫn khoác bên vai. Vì ông vẫn nghèo như xưa, tuy đã đậu thủ khoa, nên không có tiền mướn tiểu đồng. Hôm ông vào bệ kiến, thiên tử ban vàng, ban lụa ông đều từ chối, nói chưa có công chức gì, ông không dám nhận tiền của nhà vua, vì tiền của nhà vua tức là tiền của quốc dân: phải làm việc cho quốc dân mới được phép nhận tiền của quốc dân. Đằng này ông tuy đổ thủ khoa cũng vẫn chỉ là một anh học trò cao đẳng, và vẫn ăn không ngồi rồi như mọi người ăn không ngồi rồi khác.

Câu trả lời hơi làm phật lòng hoàng thượng, vì cứ kể thì hoàng thượng cũng chẳng làm được việc gì ích lợi cho dân lắm mà vẫn thu thuế của dân để tiêu hoang tiêu hủy, lại còn thừa tiền ban phát cho kẻ khác nữa. Nhưng ông thủ khoa không hề nghĩ thế ; ông cho công việc của đức vua bao giờ cũng nặng nhọc, khó khăn nhất trong nước, vì đức vua là người cao nhất, tài giỏi nhất trong nước.

Đến trước tòa miếu cổ, ông thủ khoa xuống ngựa cho đúng với chữ « hạ mã » để trên mốc đá. Vả lại, ông đã có lòng kính mến ông thần. Ông kính mến ông thần không phải vì ông thần đã giúp cho ông đỗ thủ khoa: Ông cho rằng dù ông thần không giúp mà viên chủ khảo công bình không ăn lễ đút lót thì thế nào ông chả đỗ đầu! Ông kính mến ông thần là vì ông phục lòng hào hiệp của một kẻ thù quân tử: thù ghét ông, ông thần đã không vật chết ông ngay mà còn chờ khi ông phạm tội mới dám hạ thủ. Như thế, kể cũng là một ông thần anh hùng.

Ông vừa xuống ngựa định vào miếu thì ông thần đã hiện lên chắp tay vái ông:

– Kính chào ông hai lần thủ khoa.

Ông thủ khoa Bể đáp lễ rồi ngạc nhiên hỏi:

– Sao lại hai lần thủ khoa?

– Vì đỗ đầu rồi, bác còn lai kinh ứng thí lần nữa mà vẫn đỗ đầu.

Cả hai cùng cười. Ông thần lại chắp tay vái:

– Thôi xin chúc bác thượng lộ bình an. Khi nào đỗ Trạng tôi sẽ thân mang lễ đến mừng.

Dứt lời, thần lại biến đi.

Ông thủ khoa Bể tới kinh đô, thi hội xong thi đình, quả nhiên đỗ trạng nguyên.

Hoàng thượng ban yến. Lúc các ông tân khoa đương ngồi dự tiệc, bỗng một người đến trước ngọ môn xin vào bệ kiến, nói có việc rất quan trọng. Vua cho vào.

Người ấy tới nơi. Ông trạng Bể sửng sốt đứng dậy, rồi quỳ tâu:

– Muôn tâu bệ hạ, người này chính là thần miếu cổ, trong câu chuyện « liệt, ưu ».

Vua cười phán hỏi ông thần:

– Ngươi xin bệ kiến có mục đích gì?

– Muôn tâu bệ hạ, kẻ hạ thần đến dâng lời kính mừng bệ hạ đã kén được những vị tân khoa có chân tài. Hạ thần lại xin bệ hạ cho phép hạ thần được tặng ông bạn trạng nguyên một vật kỷ niệm.

Vừa nói vừa giơ ra một cái nhẫn kim cương nạm trong bạch kim. Rồi lại nói:

– Muôn tâu bệ hạ, nhẫn này có một đức tính rất lạ. Là đeo nó vào ngón tay thì không ai nói dối mình được một câu. Vì hễ ai nói dối thì mình thấy viên kim cương trong sáng này vẩn đục ngay như tro. Còn nếu chính mình mà cố ý nói dối thì nhẫn sẽ bay đi không trở về nữa.

.

Vua đỡ lấy cái nhẫn kỳ dị ngắm nghía. Lúc ngài ngửng lên thì ông thần đã biến mất. Ngài liền thân đeo nhẫn vào ngón tay út trạng nguyên vì nhẫn rất nhỏ.

Rồi ngài phán hỏi:

– Cớ sao thần miếu cổ lại tặng khanh cái nhẫn ấy?

– Muôn tâu bệ hạ vì hạ thần suốt đời chưa từng nói dối một câu. Nguyên trước thần miếu cổ là kẻ thù của hạ thần, chỉ rình hạ thần nói dối một câu là vật chết.

Vua cười nói tiếp:

– Nhưng vì khanh không nói dối nên hắn không làm gì nổi, phải không?

– Dạ, muôn tâu bệ hạ.

Muốn thử phép thiêng của nhẫn thần vua hỏi một vị tiến sĩ trẻ tuổi:

– Khanh đã có vợ chưa?

Ông tiến sĩ biết rằng công chúa Liên-Hương tài sắc hoàn toàn vả ông ta lại đương có tà tâm bỏ vợ tào khang, liền sung sướng quỳ tâu:

– Muôn tâu thánh thượng, kẻ hạ thần vì nhà nghèo nên chưa dám nghĩ đến đường gia thất.

Vua quay sang phía trạng nguyên, cười phán:

– Khanh giơ nhẫn ta xem.

Quả nhiên mặt kim cương đương sáng bỗng sạm lại như màu tro. Vua phá lên cười. Và các ông tân khoa đã chuếnh choáng hơi men cũng cất tiếng cười theo.

– Thế là khanh nói dối rồi nhé!

Ông tân khoa bẽn lẽn, mặt đỏ lên, rồi tái đi, rồi cũng sạm theo màu tro như mặt nhẫn.

Vua lại hỏi trạng nguyên:

– Còn trạng nguyên thì hẳn cũng đã có vợ rồi?

Trạng thẳng thắn đáp:

– Muôn tâu bệ hạ, chưa ạ.

Vừa nói vừa giơ nhẫn ra. Mặt nhẫn đã trở lại trong sáng như trước. Vua cười:

– Khanh làm thế là thừa, vì nếu khanh nói dối thì nhẫn đã bay đi mất rồi còn đâu.

Buổi chiều, các ông tân khoa lại được hoàng thượng và hoàng hậu vời vào dự yến trong nội cung một lần nữa. Trong tiệc yến này có cả công chúa Liên-Hương và các nàng công chúa khác. Để các công chúa ngồi dự tiệc với các ông tân khoa, đó là một điều hiếm có ở các triều đình Á-đông. Nhưng trong truyện này, hoàng hậu và hoàng thượng ưa những sự giản dị, thẳng thắn, không bắt các công chúa xinh đẹp phải cấm cung.

Đương khi yến ẩm, các nàng công chúa tâu với hoàng hậu truyền trạng nguyên đưa cho xem chiếc nhẫn thần. Hoàng thượng phán:

– Các con muốn xem nhẫn thần đều phải tuyên bố câu này: « Trong đời con, con chưa từng nói dối bao giờ.»

Các nàng công chúa lần lượt vâng lệnh. Nhưng sau mỗi câu tuyên bố, hoàng thượng và hoàng hậu lại phá lên cười vì thấy mặt nhẫn của trạng nguyên vẩn đục.

Đến lượt công chúa Liên-Hương, nàng khép nép thưa rằng:

– Muôn tâu vương phụ, vương mẫu, con xin phép đổi và thêm bớt vài chữ trong câu tuyên bố có được không?

Hoàng thượng mỉm cười đáp:

– Được!

Công chúa liền tâu:

– Trong đời con, một đôi khi con cũng có nói dối, nhưng toàn là những câu nói dối vô hại, hoặc vì phép xã giao, hoặc vì lòng nhân đạo.

Sau khi nhận thấy mặt nhẫn thần vẫn sáng hoàng hậu ban lời ngợi khen lòng thành thực và tính ngay thẳng của công chúa Liên-Hương. Rồi hoàng thượng truyền trạng nguyên đưa nhẫn cho công chúa xem.

Ông trạng Bể tâu:

– Muôn tâu thánh thượng và hoàng hậu, câu tuyên bố của công chúa Liên-Hương tỏ rằng công chúa là một thiếu nữ thông minh, lịch thiệp và nhân từ. Vậy hạ thần xin phép thánh thượng và hoàng hậu được kính tặng công chúa cái nhẫn thần này.

Vừa nói vừa tháo nhẫn dâng lên vua. Vua trao cho hoàng hậu, hoàng hậu mỉm cười đeo vừa khít vào ngón tay giữa của công chúa Liên-Hương vì bàn tay công chúa rất bé nhỏ, xinh xắn.

Công chúa Liên-Hương sung sướng đỏ mặt, đứng dậy bẽn lẽn nói:

– Tôi xin cảm ơn ông trạng nguyên.

Hoàng thượng cười nhìn công chúa:

– Con nên tặng lại trạng nguyên một vật kỷ niệm chứ?

Công chúa Liên-Hương liền lấy chiếc khăn hồng nhờ vua cha trao cho ông trạng Bể mà nói rằng:

– Chiếc khăn này chính tay tôi thêu lấy, xin kính tặng ông trạng nguyên.

Chẳng nói, các bạn độc giả của tôi cũng đoán biết rằng ông trạng Bể sẽ lấy công chúa Liên- Hương.

Và công chúa Liên-Hương sẽ là một người vợ hiền, vì suốt đời sẽ không dám nói dối chồng một câu, sợ nhẫn thần bay đi mất.

Khái Hưng

(1939)