Chương 6 YÊU CẦU CẢNH VỆ BÁC BỎ TIN BỊA ĐẶT: KHÔNG TÌM THẤY CON TRAI
Mao Chủ tịch trầm ngâm nói: "Vốn cứ tưởng Cách mạng Văn hóa sẽ kết thúc trong năm nay, nhưng xem ra là không thể! Tôi nói với Mao Chủ tịch, trên báo chữ to đưa tin Người đã tìm thấy con trai của mình sau bao năm thất lạc, hiện đang là kế toán trong một đội sản xuất... Mao Chủ tịch vội hỏi: "Cháu đã bác bỏ tin bịa đặt chưa? Chuyện gia đình nhà tôi cháu đều biết rất rõ, không cần phải nói chưa tìm thấy con trai, cho dù là có tìm thấy, thì có ý nghĩa gì cơ chứ? Cháu bác bỏ tin bịa đặt ấy ngay đi!"
Tháng 1 năm 1967, dưới chính sách hoạch định của Trương Xuân Kiều và Vương Hồng Văn, phái tạo phản đã đoạt được quyền hành từ trong tay của các cơ quan chính Đảng ở Thượng Hải.
Mao Chủ tịch ủng hộ sự kiện này. Nhân dân nhật báo, tạp chí Hồng kỳ, báo Quân giải phóng, hai tờ báo đều đăng xã luận: "Đại tạo phản đoạt chính quyền", chỉ trong thời gian ngắn đã có phản ứng dây chuyền trên phạm vi toàn quốc, đại bộ phận tỉnh thành, khu tự trị, các cơ quan chính Đảng đều lọt vào tay phái tạo phản. "Đánh đổ tất cả", "nội chiến toàn diện", làm cho các cơ quan lãnh đạo tê liệt, công xưởng nhà máy ngừng sản xuất, giao thông đình trệ, cả nước sống trong bầu không khí hỗn loạn.
Mặc dù đã cử rất nhiều chính trị viên Quân giải phóng hạ phóng, thực hiện "tam chi lưỡng quân"[1], nhưng vẫn không thể ổn định được đại cục, không khống chế được cục diện. Mao Chủ tịch vốn dự tính ngay sau khi đoạt lại quyền hành đến sau tháng 3 hoặc tháng 4 là có thể dừng, song cứ kéo dài mãi, tình hình ngày càng nghiêm trọng. Ở bể bơi Trung Nam Hải, Mao Chủ tịch trong lòng bất an, lo lắng vô cùng.
Người rất muốn tìm hiểu diễn biến tình hình bên ngoài. Ngươi không bằng lòng khi nhận được báo cáo vắn tắt của các nhóm Hồng vệ binh gửi về, song Người không thể tự ra ngoài để thị sát nữa rồi. Người chỉ còn cách tìm các nhân viên ngày thường luôn sống bên mình, nay hạ phóng chi viện cho phái tả để hỏi han tình hình, qua họ để nắm bắt thêm tình hình nhằm bổ sung cho hướng giải quyết của mình. Người cho rằng chỉ có cách làm này mới biết được sự thật đang diễn ra trong toàn xã hội
Sáng ngày 8 tháng 5, Mao Chủ tịch không ngủ, ra ngoài đi dạo. Men theo con đường nhỏ cạnh bể bơi, Người chậm rãi bước đi. Đi bên trái Người là Vương Hải Dung, bên phải là Đường Văn Sinh, ba người vừa đi vừa nói chuyện. Hai người này nói với Người những câu chuyện đang xảy ra ở nước ngoài, thỉnh thoảng xen chuyện trong nước, nói những chuyện liên quan tới tình hình Cách mạng Văn hóa. Ấn tượng nhất là, phái tạo phản đã đoạt được quyền hành trên phạm vi toàn quốc, sau khi thành lập Ủy ban cách mạng, tình hình vẫn không có gì sáng sủa, các cuộc đấu tranh giữa các Đảng phái vẫn diễn ra gay gắt, thậm chí có nơi xảy ra đánh nhau. Nghe họ nói chuyện, tôi cảm thấy rất hấp dẫn.
Có thể nói, hai người phụ nữ này có cá tính rất mạnh, tóc cắt ngắn đến tai, mắt đeo kính, mặc bộ quần áo vải thô, thoạt nhìn biết ngay họ thuộc giới trí thức. Tư tưởng của họ khoáng đạt, sôi nổi, hình tượng ngôn ngữ sinh động, Mao Chủ tịch rất thích hai người này nói những chuyện thuộc thể loại trên. Vì lý do công tác nên khi hai phụ nữ này nói chuyện với Mao Chủ tịch, tôi cũng được nghe khá nhiều nội dung trao đổi giữa họ. Ba người cảnh vệ chúng tôi, có tôi, Tiểu Thương và anh Lý luôn đi sau họ, các buổi đi dạo như thế này với chức năng bảo vệ, chúng tôi đều phải có mặt.
Đi quanh bể bơi vài vòng, khi đi đến phía bắc bể bơi, chúng tôi không nghe được họ đang nói chuyện gì, Mao
Chủ tịch đột ngột đứng lại, quay sang phía tôi đang đứng, Người hỏi: "Trường Giang, cháu đã lâu rồi chưa về thăm nhà phải không?"
"Gần hai năm rồi ạ!"
"Bác cho cháu thời gian 15 ngày, nghỉ về quê thăm gia đình, kết hợp tìm hiểu tình hình nông thôn." Sự quan tâm và ôn tồn của Mao Chủ tịch đã khiến hai phụ nữ chú ý, họ lịch sự đi lại gần tôi. Trong lúc Mao Chủ tịch và tôi nói chuyện, Người duỗi ban tay trái ra, đặt bàn tay phải áp sát vào bàn tay trái, Người đang tính toán giúp tôi lịch trình về quê: từ đâu đến đâu, thời gian hết mấy ngày; khi về đến nhà làm những công việc gì, hết mấy ngày. Trong lúc tính toán, chợt xuất hiện vấn đề, Người nói tiếp: "Thế thì cháu chỉ được ở nhà 6 ngày, ít quá." Nói đến đây, giọng Mao Chủ tịch bỗng nhỏ hẳn xuống, như đang tự nói với chính mình.
"Thế này nhé Trường Giang, cho cháu nghỉ 20 ngày, được không?"
"Được ạ!" Con người tôi là vậy, luôn trả lời thẳng vào vấn đề, Mao Chủ tịch đã cân nhắc kỹ rồi, tôi không phải bổ sung và hỏi thêm gì nữa, tôi nói tiếp: "Ngay chiều nay cháu đi mua vé tàu hỏa."
Vương Hải Dung tiếp lời: "Anh chỉ biết được một số tình hình ở thành phố, tình hình nông thôn chưa nắm bắt được nhiều, khi về quê anh tìm hiểu sâu thêm một chút."
"Cháu về đi." Mao Chủ tịch quay sang phía anh Lý đang đứng cạnh tôi, nói: "Cháu Lý Liên Khánh cũng về quê đi, hai cháu cùng về."
Anh Lý là chính trị viên của đại đội tôi, quê anh ở tỉnh Quảng Đông. Đảm nhiệm những công việc như thế này, đối với chúng tôi mà nói, đây không phải là lần đầu.
Tháng 12 năm 1954, Mao Chủ tịch từng nói với các chiến sĩ cảnh vệ trực ban ở vườn Phong Trạch: "Trong vòng một năm, các cháu luân phiên về quê, thăm gia đình kết hợp tìm hiểu giúp bác tình hình đời sống của quần chúng, tìm hiểu tình hình hợp tác xã nông thôn, tình hình trưng thu mua hàng nông sản của nông dân." Mao Chủ tịch còn chỉ rõ: "Có không ít bà con nông dân không bằng lòng với phương thức mua bán hiện nay, có một số tổ chức hợp tác xã là giả." Người nhấn mạnh: "Lộ phí bác đài thọ, khi trở lại đây, các cháu báo cáo tình hình cho bác...".
Nguyện vọng tìm hiểu tình hình thực tế của Mao Chủ tịch có thể nói là khát vọng. Ngày 14 tháng 5 năm 1955, tại phòng họp Di Niên đường trong Trung Nam Hải, Mao Chủ tịch nói chuyện với toàn thể cán bộ chiến sĩ đại đội I thuộc trung đoàn cảnh vệ Trung ương, đồng thời chỉ rõ ba nhiệm vụ: bảo vệ, điều tra và học văn hóa. Nội dung của buổi nói chuyện rất phong phú, nhiệm vụ đề ra cũng rất rõ ràng, trước khi chuẩn bị kết thúc buổi nói chuyện, Mao Chủ tịch nói: "Các cháu đều làm công tác bảo vệ, ngày nào cũng bên cạnh bác, lặp đi lặp lại công vụ này khô khan quá. Bây giờ bác tăng thêm công tác điều tra cho các cháu. Các cháu làm tốt công tác này, có lợi cho Đảng, cho Trung ương, đối với bác cũng có cái hay của nó, các cháu có đồng ý không?"
"Đồng ý ạ!" Tất cả các chiến sĩ tham dự buổi nói chuyện đồng thanh đáp. Mao Chủ tịch nói tiếp: "Cũng giống như ăn cơm vậy, ăn cơm, ăn rau, thêm chút ớt thì mới thú."
Người đưa câu chuyện ăn cơm ra ví von, hình tượng sinh động, dễ hiểu, khiến không khí buổi nói chuyện vui vẻ hẳn lên. Mao Chủ tịch dường như rất hiểu các chiến sĩ cảnh vệ, Người căn dặn: "Các cháu thay nhau về quê, báo lại cho bác biết tình hình nông thôn các cháu tìm hiểu được. Về nông thôn các cháu trước tiên cần khiêm tốn, tôn trọng người già, tôn trọng cán bộ địa phương, tôn kính cha mẹ, thái độ hòa nhã, không được tự cao tự đại, hách dịch. Thủ trưởng của các cháu hách dịch, các cháu không vui, các cháu hách dịch với bà con nông dân, bà con nông dân cũng không vui. Khiêm tốn sẽ điều tra ra tình hình." Mao Chủ tịch đưa ra ví dụ để minh chứng: "Năm ngoái, có một chiến sĩ cảnh vệ về quê, không tôn trọng cán bộ địa phương, nói mình giữ chức bí thư gì đó, khiến cán bộ và nhân dân địa phương không vừa lòng. Sau khi chiến sĩ nọ đi rồi, mọi người viết thư tố cáo. Như vậy là không tốt, các cháu về quê, không được nói là Mao Chủ tịch cử tôi về quê tìm hiểu tình hình."
Sau đó ít lâu, đích thân Mao Chủ tịch chấp bút viết một số yêu cầu công tác nghiên cứu điều tra:
Phía dưới bản tuân thủ công tác ký tên: Mao Trạch Đông. Cánh cảnh vệ chúng tôi tổ chức học tập, các chiến sĩ đều phải học thuộc 5 nguyên tắc trên.
Từ đó về sau, mỗi lần về quê thăm gia đình, công việc điều tra nông thôn là nhiệm vụ thường xuyên của các chiến sĩ cảnh vệ, trung bình mỗi năm tiến hành 1-2 lần điều tra. Qua công tác điều tra, chúng tôi nắm được khá nhiều tình hình và đều hội báo với Mao Chủ tịch, Người chăm chú lắng nghe từng chi tiết nhỏ. Những điều chúng tôi hội báo với Người tuy có nhiều lợi ích song vẫn chưa toàn diện, chưa đều khắp. Sau này, ngoài hai khu vực Tây Tạng và Đài Loan, tất cả các tỉnh thành còn lại đều có người của đại đội cảnh vệ tiến hành thị sát điều tra. Có hay không có "năng lực điều tra" cũng là một tiêu chí để chúng tôi lựa chọn để cử người đi điều tra. Đương nhiên, những người được chúng tôi cử đi điều tra đều hoàn thành tốt nhiệm vụ, nắm tình hình nông thôn sâu rộng hơn.
Được ít lâu sau, do cơ cấu tổ chức có sự thay đổi, cương vị công tác của nhân viên cũng có sự thay đổi nên công tác điều tra không được thường xuyên liên tục, lúc có lúc không. Song, đối với những người luôn ở bên cạnh Người như chúng tôi, công việc điều tra hằng năm vẫn được tiến hành. Do đó, khi nghe thấy Chủ tịch nói về quê điều tra, chúng tôi không cảm thấy bất ngờ.
Lúc bấy giờ, tôi và Lý Liên Khánh suốt ngày ở bể bơi, bên cạnh Mao Chủ tịch, Người hiểu rất rõ chúng tôi. Đại đội tôi được phân công bảo vệ hai khu vực: bể bơi và vườn Phong Trạch, đồng thời tháp tùng Mao Chủ tịch mỗi khi Người ra ngoài, vì thế biên chế cán bộ khá đông. Khi hai người về quê, công việc ở đơn vị vẫn phải vận hành như cũ. Tôi bàn giao công việc đơn vị cho đại đội trưởng và chính trị viên thay tôi điều hành. Ngay chiều hôm đó, chung tôi đáp tàu từ ga Bắc Kinh về quê.
Ngày 27 tháng 5, tôi điều tra tình hình nông thôn xong và quay trở lại Bắc Kinh. Hai, ba ngày sau, tức khoảng ngày 30 tháng 5, chúng tôi nhận được thông báo từ thư ký riêng của Mao Chủ tịch, ngay chiều hôm đó báo cáo trực tiếp với Người.
Khi bước đến cửa phòng Mao Chủ tịch ở cạnh bể bơi, tôi đã thấy Mao Chủ tịch ngồi chờ trên ghế phô-tơi, quay mặt ra phía cửa, tôi nói: "Chủ tịch, cháu đã về ạ!" Mao Chủ tịch phấn khởi đứng dậy bắt tay tôi, chỉ sang ghế bên cạnh,
nói: "Trường Giang, ngồi đi!"
Tuy biết thính lực của Mao Chủ tịch vẫn còn tốt, song tôi cảm thấy ngồi trên chiếc ghế đẩu báo cáo không được rõ, đặc biệt là giọng nói của Người hơi nặng, e rằng đối thoại nghe không rõ, hoặc nghe bỏ sót, hiểu lầm, bèn lấy một chiếc ghế tựa đặt sát bàn trà, ngồi đối diện hơi lệch một chút sang phải, như vậy tôi ngồi rất gần Mao Chủ tịch, nghe Người nói sẽ rõ hơn.
Mao Chủ tịch nói: "Trường Giang, có gì thì nói đi, đã điều tra được những gì?"
Tôi không viết thành văn bản báo cáo, thậm chí không mang theo cả sổ ghi chép, liền báo cáo miệng tình hình nông thôn trên dọc đường đi về quê, tôi báo cáo những gì tôi nhìn thấy và nghe thấy cho Mao Chủ tịch nghe. Tôi còn nhớ một số điểm chính tôi đã báo cáo với Người:
Trên đường về nhà, tàu hỏa bị chặn lại ngang đường, do đó về đến nhà không đúng thời gian như đã định, phải ngủ lại một đêm tại thành phố Dương Châu tỉnh Giang Tô, quần chúng nơi đây đánh trống chiêng và hô khẩu hiệu, ầm ĩ đến nỗi không ngủ được, xem ra cuộc đấu tranh giữahai phái xảy ra rất quyết liệt, còn quyết liệt hơn cả Bắc Kinh.
Thành phần tham gia đại bộ phận là học sinh và cán bộ cơ quan, còn nghe nói có nơi xảy ra bắn nhau... Tôi nói: "Hai phái đưa ra rất nhiều lý luận, họ chỉ trích lẫn nhau, lăng mạ nhau, ngôn ngữ thô tục, phái nọ chửi phái kia là phái Bảo hoàng, là tay sai..."
Mao Chủ tịch nói: "Cuộc đấu tranh mang tính bè phái ở Bắc Kinh cũng có ảnh hưởng đến cả nước."
"Cháu còn nghe quần chúng nói rằng, hai phái còn xảy ra võ đấu."
"Bác đã dặn trước rồi, chỉ đấu văn chứ không được đấu võ cơ mà."
"Chủ tịch!" - tôi mạnh dạn đưa ra ý kiến của mình -
"Những câu nói của Bác có lợi cho họ thì họ chấp hành, còn không có lợi cho họ thì họ bỏ qua, điều tồi tệ nhất là, họ đã viện dẫn các câu nói của Bác để chỉ trích, công kích đối phương..."
Giọng Mao Chủ tịch trầm hẳn xuống: "Thiết tưởng Đại Cách mạng Văn hóa xảy ra trong vòng một năm đã đến lúc phải kết thúc rồi, nhưng xem ra khó mà dừng lại được!"
Tôi nói đến cuộc đấu tranh giữa các phe phái lên một cao trào nới, đã dùng đến vũ khí, ảnh hưởng đến sản xuất, ảnh hưởng đến trật tự trị an xã hội, v.v... Mao Chủ tịch nghe xong, chậm rãi nói: "Không ít nơi trên cả nước tình hình gay cấn như ở Dương Châu, Dương Châu có tính điển hình nhất định..."
Tôi báo cáo tiếp tình hình quê tôi đang vào vụ thu hoạch tiểu mạch, quần chúng nông dân đều rất bận, xã viên hăng hái làm việc. Đối với "Văn cách" (nói tắt của cụm từ Đại Cách mạng Văn hóa), họ cho rằng đó là việc của "những người thành thị". Họ còn nói: "Nếu chúng ta cũng bỏ việc đi gõ trống, đánh thanh la, hô khẩu hiệu thì chết đói cả nút, về việc này trước đây chúng ta đã bị một vố rồi! Học sinh đi làm cách mạng, công việc đã có bố mẹ lo, cán bộ đi làm cách mạng, đã có Nhà nước trả lương, công nhân đã có nhà máy lo. Còn cánh nông dân chúng ta, không làm ruộng thì không có cơm ăn".
Nông dân nói rằng, họ chấp hành chỉ thị của Mao Chủ tịch, "làm cách mạng tức là thúc đẩy sản xuất!"
Mao Chủ tịch cười nói: "Nông dân họ rất thực tế, sản xuất nông nghiệp một ngày cũng không được ngừng."
Tôi còn nói với Mao Chủ tịch, đứng trước cuộc võ đấu giữa hai phái, thái độ của nông dân rất bất bình, họ rất lo học sinh không đến trường. Họ tập trung sản xuất, các xã viên còn phát động phong trào thi đua sản xuất, tràn đầy khí thế thi đua sôi nổi và hào hứng. Nét mặt Mao Chủ tịch thoáng vui: "800 triệu nông dân sản xuất giỏi, chúng ta sẽ có hy vọng, quốc gia sẽ không bị loạn lạc."
Mao Chủ tịch lại nói: "Nông dân rất thực tế, nhìn thấy có lợi họ mới làm, những việc không có lợi thì dứt khoát không làm!"
Những điều Mao Chủ tịch nói về nông dân toàn là những lời khen ngợi, đặc biệt là nông dân của nước Trung Hoa mới. Suốt buổi tôi báo cáo với Mao Chủ tịch chỉ có hai người, trong thời gian báo cáo cũng không có ai vào, nên buổi báo cáo và nghe báo cáo rất tập trung, thoải mái chứ không bị gò bó. Mao Chủ tịch lắng nghe báo cáo của tôi với thái độ bình đẳng, không phân biệt chức vụ cao thấp, đức tính này đã khiến tôi - một người thường ngày rất ít nói trở nên có hứng thú nói chuyện, càng nói càng hăng. Thế là những điều tôi nghe thấy, nhìn thấy, thậm chí cả thể loại ca dao, hò vè của quần chúng, v.v... tôi đều nói cho Chủ tịch nghe.
Tôi nói với Chủ tịch, từ thành thị đến nông thôn, từ ga xe lửa Bắc Kinh đến huyện Hải An của chúng tôi, khắp nơi nhan nhản dán báo chữ to. Có tờ báo chữ to còn đưa tin Đặng Tiểu Bình tự sát...
Mao Chủ tịch hỏi: "Tin này từ đâu loan ra?"
"Tin này không chỉ có ở nông thôn mà ở ngay Bắc Kinh cũng có."
"Cháu có tin không?" Mao Chủ tịch hỏi.
"Đương nhiên là không ạ. Vệ binh gác trong nhà ở của Đặng Tiểu Bình là người của đại đội cháu đảm nhận, sao cháu lại không biết."
Mao Chủ tịch bảo: "Tin vỉa hè không tin cậy." Tôi báo cáo tiếp với Chủ tịch, có tờ báo chữ to cực lớn đưa tin: "Mao Chủ tịch đã tìm thấy con trai sau bao năm thất lạc, hiện đang làm kế toán trong một đội sản xuất nào đó..." Loại báo chữ to kiểu này xuất hiện khá nhiều, từ Dương Châu đến Hải An, đâu đâu cũng có.
"Cháu đã bác bỏ tin bịa đặt đó chưa?" - Mao Chủ tịch nôn nóng hỏi - "Cháu ở bên bác gần 20 năm rồi, mọi chuyện trong nhà, có việc nào mà cháu chẳng hay biết!"
"Dạ, đương nhiên là biết rõ." Tôi đáp.
Với khẩu khí bực bội, Mao Chủ tịch nói: "Tin này tại sao lại có ở khắp nơi? Không cần phải nói Mao Chủ tịch không tìm thấy con trai hay đã tìm thấy con trai, tuyên truyền kiểu này có dụng ý gì?" Tôi vội an ủi Người: "Mọi người muốn cho Chủ tịch vui!"
Mao Chủ tịch không buồn để ý đến câu nói của tôi, Người lặp lại: "Không cần phải nói Mao Chủ tịch không tìm thấy con trai hay đã tìm thấy con trai, điều này không đáng để họ đưa tin lên mặt báo. Mục đích của họ về việc này là gì? Cháu nghĩ đến chưa?"
"Chưa ạ!" Tôi thực thà đáp và lắc đầu.
Lát sau Mao Chủ tịch đã bình tĩnh trở lại, Người ôn tồn nói: "Cháu cần phải bác bỏ tin bịa đặt đó! Trường Giang này, cháu đã bác bỏ tin bịa đặt đó chưa?" Tôi trả lời: "Mọi người không nghe đâu, loại báo chữ to đó không chỉ xuất hiện tại một khu vực, tại một địa phương, mà đã xuất hiện khắp nơi trên cả nước rồi."
Nét mặt Mao Chủ tịch lộ rõ không vui, thoáng lo lắng bất an, Người nói: "Rốt cuộc họ tuyên truyền như vậy nhằm mục đích gì? Nhà có mấy người, cháu đều biết rõ. Mao Ngạn Anh đã hy sinh ở Triều Tiên rồi; Lưu Tùng Lâm, trước đến đây luôn, gần đây không thấy đến nữa; Mao Ngạn Thanh đang ở trong bệnh viện; những người chỉ ở trong nhà là Lý Mẫn, Lý Nạp và Mao Viễn Tân; còn có Lý Vân Lộ (chị gái Giang Thanh), Vương Bác Văn và cả Giang Thanh nữa, số người chỉ có như vậy thôi. Đây đều là những người cháu thường gặp, họ làm gì, chẳng lẽ cháu không biết sao?"
"Đúng ạ! Lý Mẫn, Lý Nạp, Mao Viễn Tân, cháu rất quen. Cháu trông coi họ từ lúc đi nhà trẻ, đi học, lớn lên đi công tác."
Lúc này, nét mặt Mao Chủ tịch tươi tỉnh hẳn lên: "Đúng rồi! Đúng rồi! Lúc đó đều gọi cháu bằng chú..., điều này cháu rất rõ, cháu cần phải bác bỏ tin bịa đặt đó đi!" Tôi đáp: "Cháu nói thì có ai nghe!"
Mao Chủ tịch thấy tôi nói đi nói lại điểm này, Người thoáng chút do dự, nói: "Đúng vậy! Đúng vậy!" Niềm lạc quan và tự tin hàng ngày biến mất, ở Người hiện rõ vẻ bất lực. Trong lòng tôi dấy lên niềm thương cảm xen lẫn thấp thỏm bất an, cảm thấy không thể tiếp tục nói chuyện được nữa. Tôi nghĩ, dù làm thế nào cũng không thể giải thích rõ được. Báo chữ to là loại báo lá cải dung tục, không nghiem túc, có không ít người, không ít địa phương coi báo chữ to là vũ khí để công kích đối thủ; tin tức vỉa hè, đuổi hình bắt bóng, suy diễn chủ quan, tất thảy trở thành nội dung quan trọng, đều được đưa lên mặt báo, dán lên tường. Hai phái đua nhau viết, báo chữ to nổi lên như măng mọc mùa xuân.
Vì độ tin cậy của báo chữ to rất thấp nên lòng tin của mọi người đối với báo chữ to ngày càng giảm, do đó đã xuất hiện hiện tượng anh cứ dán tự do, còn tôi xé thoải mái.
Tại một số thành phố, thị trấn, trường học, báo chữ to bị xé vụn, giấy trắng rơi đầy đường, góc phố, đôi khi bị gió thổi cuốn lên, trông thật khó coi. Có nơi, có người gom nhặt báo chữ to bán giấy vụn.
Còn nhớ, có lần tại Đại lễ đường Nhân dân, Mao Chủ tịch hỏi Bộ trưởng Bộ Công an Tạ Phú Trị: "Trẻ con nhặt báo chữ to bán giấy vụn được bao nhiêu tiền một cân?" Bộ trưởng Tạ đáp: "Bảy xu một cân." Có nơi lại cho rằng, xé báo chữ to bị quy chụp là hành động "phản cách mạng", là "kẻ xấu". Nghe được chuyện này, Mao Chủ tịch nở nụ cười bí ẩn.
"Bảy xu một cân." Mao Chủ tịch cười, nói tiếp: "Trẻ consắp phát tài rồi!" Tôi lúc đó đang tập trung suy nghĩ, đột nhiên Chủ tịch nói sang chủ đề khác, Chủ tịch hỏi tôi:
"Trường Giang, xã cháu có bao nhiêu người đi bộ đội?"
"Hơn 30 người ạ."
"Tuổi trẻ được học tập và rèn luyện trong môi trường quân đội một thời gian về sau sẽ có nhiều ích lợi. Song chỉ cần ở trong quân ngũ hai năm thôi, dài nhất không quá ba năm. Trước đây luật nghĩa vụ quân sự quy định từ ba đến bốn năm, thời gian dài quá. Nếu sửa lại luật nghĩa vụ quân sự xuống còn từ hai đến ba năm thì càng có nhiều thanh niên có cơ hội vào quân đội. Quân giải phóng là một trường học lớn!"
Là một quân nhân, luật nghĩa vụ quân sự là quyền lợi thiết thân của mình, tôi phấn khởi nói: "Nếu thời gian phục vụ trong quân đội rút ngắn một chút, quay vòng nhanh thì sẽ càng có nhiều thanh niên nhập ngũ, sẽ bồi dưỡng được càng nhiều nhân tài trên mọi lĩnh vực cho nước nhà..., song sửa đổi luật nghĩa vụ quân sự có liên quan tới đại sự của quốc gia, nếu sửa đổi cần phải có sự thống nhất mới được!"
"Đúng rồi!" Mao Chủ tịch cười nói: "Đây là việc làm sau này." Sau đó không lâu "Luật nghĩa vụ quân sự" quả nhiên đã được sửa đổi, rút ngắn thời gian phục vụ tại ngũ còn từ hai đến ba năm.
Khi nói đến chuyện Hồng vệ binh "đại phá tứ cựu", tôi mạnh dạn nói lên suy nghĩ của mình: "Bài trừ mê tín, phá bỏ đền thờ thổ địa, không tin vào thần thánh, không sợ ma quỷ..., những điều nói trên vốn dĩ là tốt, nhưng có một số địa phương cứ làm quá lên, ngay đến decal Phượng Hoàng dán trên khung xe đạp cũng bị xé bỏ, nhìn thấy người đi đường tay đeo đồng hồ nước ngoài chế tạo, họ giằng lấy đập vỡ, đây là những việc làm mù quáng, là làm loạn. Cháu còn nghe nói, Hồng vệ binh còn đến đại sứ quán nước ngoài ở Bắc Kinh để tạo phản, những việc làm trên ngay đến nông dân ở các làng bản cũng bàn tán, tỏ rõ thái độ không bằng lòng, thế mà ở ngay thủ đô lại để xảy ra những chuyện đó."
"Điều này bác đã biết cả rồi, làm như vậy là không suy nghĩ, làm những việc dại dột, đều do phái cực tả gây ra." Mao Chủ tịch bực bội nói tiếp: "Hôm nay bác cháu ta nói chuyện nhiều rồi, đến đây tạm dừng."
Tôi đứng dậy chuẩn bị đi, Mao Chủ tịch cũng đứng dậy thân mật bắt tay tôi.
Qua hơn một giờ đồng hồ tôi báo cáo và nói chuyện với Mao Chủ tịch, đủ thấy Người rất quan tâm và tôn trọng nông dân. Có thể nói, trong cuộc nói chuyện đó tôi đã nghĩ gì nói đấy, nhớ đến đâu nói tới đó, suốt cuộc nói chuyện không có người thứ ba tham dự.
Chú thích:
[1] Tam chi lưỡng quân: ba chi viện, hai quân. Ba chi viện gồm: Chi viện phái tả, công nghiệp và nông nghiệp. Hai quân gồm: quân quản và quân huấn.