← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Ba Hai hồ một giang san, Kiều Sứ quân mở trận
Thế yếu phải dụng mưu, Điền Bạc hiến kế lạ

Đây lại nói về Sứ quân Kiều Công Hãn ở đất Phong Châu, khi vừa nghe tin huyện quan ở Bồ Điền bị giết, thì cả mừng hội chúng tướng lại bàn.

Kiều Sứ quân nói:

- Một vùng Phong Châu, không lấy gì làm rộng cả. Nay, một mình ta tung hoành sợ còn chưa đủ chỗ, ấy vậy mà lại mất một Tam Đái vào tay thằng nhà quê Nguyễn Khoan, hỏi làm sao hùm thiêng có đủ rừng rậm núi cao để ngang dọc thét trăng quát gió! Nay, Bồ Điền có loạn, huyện quan bị mổ bụng cắt đầu, lòng người không phục Nguyễn Khoan nữa. Ta muốn nhân cơ hội này trước là mở rộng nhà cửa, sau là chiếm lấy nốt những nơi trọng yếu để lo việc lớn mai sau. Các ngươi nghĩ thế nào?

Kiều Công Hãn là kẻ hung bạo, ít khi chú trọng đến các tình tiết của cơ mưu trí xảo. Dưới trướng cũng có được một số dũng tướng, năm bảy mưu sĩ. Hãn ưa cưỡi ngựa, cầm cung, hơn là đàm luận để nghe đến việc chữ nghĩa, bởi thế có ý trọng bọn võ tướng hơn là các mưu sĩ áo xanh, đầu đội khăn vải. Lúc Hãn hỏi ý văn sĩ, võ tướng, mọi người còn chưa có ý kiến gì, chợt có người xô ghế đứng dậy, oang oang:

- Nguyễn Khoan dưới trướng có được vài nghìn lính không có áo mặc, gươm giáo toàn là đồ sứt mẻ, hoen gỉ, sá gì gã nhà quê ấy. Nay Tướng công muốn mở rộng nhà cửa, thu giang sơn về một mối, thì tôi dù chẳng có tài đuổi theo gió, chẳng có sức vật ngã voi, cũng xin được lãnh ấn tiên phong đi bắt bọn Nguyễn Khoan về đây để lập công!

Mọi người nhìn lại, té ra là Trung Hỏa Tướng Đặng Nhất Hùng, Hùng có sức mạnh hơn người, hai tay có thể xách nổi ngàn cân, quen sử dụng ngọn thiết tiên chín đốt gọi lầ cửu huyền thiết tiên. Lúc xung trận, Trung Hỏa Tướng Đặng Nhất Hùng múa ngọn roi sắt chín khúc nhanh như gió, phát ra tiếng kêu vù vù như bầy ong bay, dù có tạt nước cũng không lọt vào tới người Hùng được. Tính tình Đặng Nhất Hùng thật ngay thẳng, hết sức nóng nảy, cứ nghe ai nói đến chữ nghĩa văn sách hay mưu mẹo gì thì chỉ câu trước câu sau là Đặng Nhất Hùng đã ngáp dài, tỏ ra chối tai lắm rồi. Vì vậy, thiên hạ đặt cho y ngoại hiệu là Trung Hỏa Tướng, có ý nói: Ông tướng trong lòng có lửa cháy. Hùng từng lập được nhiều công với Sứ quân Kiều Công Hãn, được Hãn yêu lắm.

Nghe Trung Hỏa Tướng Đặng Nhất Hùng dứt lời, Kiều Sứ quân gật gù có phần khoái chí lắm. Lúc ấy, lại có người lên tiếng:

- Nguyễn Khoan cậy có đất đai phì nhiêu, kho tàng sung túc, ngựa ba nghìn cỗ, quân được vài nghìn, thành cao hào rộng, chiếm đất của chúa công ta một giải Tam Đái, thường huyênh hoang tự đắc, thật đáng ghét. Nay lòng người quả thật không phục gã nhà giàu quê mùa ấy, ta nên thừa cơ hội ra quân tiễu trừ, đúng là việc phải lắm!

Kẻ vừa nói, chính là Thanh Diện Ma Vương Lý Sùng Bang, Bang là người cao chín thước, hai mắt lồi ra to bằng hai nắm tay, da mặt xanh biếc như nhuộm chàm, cho nên mới có ngoại hiệu là Ma Vương Mặt Xanh. Bang tính tình cực hung ác, nhưng không phải là kẻ gan dạ, chỉ giỏi nghề dựa hơi đón gió, tâng bốc Trung Hỏa Tướng, thường xem thường chúng tướng nên không ai phục, nhưng vì sợ Trung Hỏa Tướng nên các tướng không dám nói năng gì. Được thế, Thanh Diện Ma Vương Lý Sùng Bang hay có những hành vi hung ác, có bữa đi việc quan gấp dọc đường gặp chợ đông, Bang cứ thúc ngựa chạy bừa vào chợ chứ không chịu tránh, khiến ngựa giẫm chết mất nhiều dân lành, ai cũng oán hận. Bang không giỏi võ nghệ, nhưng giỏi nghề bợ đỡ, khéo hầu hạ Trung Hỏa Tướng mà được trọng dụng cho làm việc ở dưới trướng. Lúc nghe Bang lớn tiếng phục họa với Trung Hỏa Tướng, nhiều người phát ghét, không ai nói gì.

Kiều Sứ quân càng thêm đắc chí, gật gù hoài không thôi.

Hồi lâu, Sứ quân mới nói:

- Vô tướng muốn nhân cơ hội này đẹp yên cái hóa Nguyễn Thái Bình, đấy cũng là ý của ta. Còn các vị khác, thì thế nào?

Mọi người chưa dám đáp ra sao. Sứ quân lại nói tiếp.

- Vả lại, việc xuất chinh là điều quan trọng, võ tướng chịu xông pha đã đành, còn ý các mưu sĩ thì thế nào?

Dưới trướng Sứ quân cũng có một số mưu sĩ nhưng chỉ là hạn thổi thêm gió vào lửa, dội thêm nước xuống sông, chứ không phải là bậc quáng kiến có thể trông cậy được. Kiều Sứ quân thường nói rằng: “Mưu đồ việc lớn, mà không đủ bộ văn quan võ tướng, chẳng khác nào như cọp thiêng không có rừng già núi cả để tung hoành, ruộng tốt mà không có nước để cấy cày”. Vì vậy, Sứ quân cũng bắt chước thiên hạ bày đặt ra việc chiêu tập các mưu sĩ, nhưng kì thực thì chưa lần nào Sứ quân tin cẩn và nghe được lời bàn xác đáng của đám mưu sĩ dưới trướng. Nhưng Kiều Sứ quân vẫn thường lưu ý đến một người trong đám mưu sĩ, người ấy ít nói, hai mắt lúc nào cũng như buồn ngủ, ngồi không bao giờ tay chân cục cựa, hai tai lên cao quá đuôi mắt; thỉnh thoảng mưu sĩ này có đưa lời bàn, nhưng không lấy gì làm đặc biệt cho lắm, tuy thế những lời y nói ra thường không phải là những lời về hùa với chúng tướng hay bọn mưu sĩ ăn hại, y tên gọi là Trường Miên Quân Điền Bạc, ngoại hiệu có ý nói: “Gã Ngủ Triền Miên”.

Hỏi xong, Kiều Tam Chế từ từ hướng mắt nhìn đám thuộc hạ, có ý dò hỏi từng người. Đám mưu sĩ vẫn không ai nhúc nhích. Giây lâu, mưu sĩ Điền Bạc mới chậm rãi nói:

- Tướng công ý muốn ra quân, các võ tướng cũng muốn thế, thì hà tất còn phải bàn luận gì nữa. Chúa công cứ việc hành động đi.

Trung Hỏa Tướng Đặng Nhất Hùng đứng bật dậy, nói như sấm nổ:

- Việc nước đang lúc thuận lợi, chúng tướng sẵn sàng xả thân vì chúa công, việc ra binh là nhất định rồi, còn phải hỏi đám mưu sĩ “hay ngủ” làm gì nữa để mà nghe những lời bàn bạc như vậy chứ!

Kiều Sứ quân cả cười:

- Nhà ngươi đừng nóng! Ấy là ta hỏi thế thôi! Nhưng việc quân cũng nên bàn kĩ mới được. Ta hỏi: nếu ra quân, thì ngươi tính nên hành động như thế nào?

Trung Hỏa Tướng đáp:

- Bẩm Chúa công, việc binh là nhập trận, chém tướng địch, đoạt thành địch, lấy máu địch mà rửa mặt lúc rạng đông, lấy gan địch làm cơm ăn buổi xế chiều. Binh là như vậy, có gì còn phải bàn nữa!

Trong đám mưu sĩ có tiếng cười nhạt. Ai nấy giật mình, Trung Hỏa Tướng hai mắt tròn xoe muốn rách cả khóe, Thanh Diện Ma Vương mặt càng xanh thêm, hai mắt như tóe lửa nhìn đám mưu sĩ. Kẻ cười nhạt, chính là Trường Miên Quân Điền Bạc. Bạc cười xong, vẫn ngồi lim dim như đang ngủ, thân hình cứng nhắc như tượng gỗ. Sứ quân lấy làm lạ, bật hỏi:

- Miên quân đang ngủ, mơ thấy chuyện gì mà cười nhạt thế?

Điền Bạc hai mắt mở choàng, hai tay nhấc vội vành khăn mưu sĩ khoan thai đặt ngay xuống dưới đất, ngay trước ghế ngồi, rồi khom mình vái Sứ quân một vái đáp:

- Ngu hạ ngồi nghe bàn quốc sự, đầu óc ngu tối nên ngủ mê đi. Bỗng thấy có con trâu cổ mình đen bóng, hai sừng lớn cong như hai vành nia, con trâu hùng hục đuổi theo cơn lốc đang xoắn đất cát mà lên sườn núi. Lên đến sườn núi cao, con trâu càng ráng sức đuổi theo gió, gió sườn núi bay vào trong vực, con trâu cổ sừng cong cắm đầu chạy theo bị rơi xuống vực mà chết. Ngu hạ thấy con trâu ngu quá, nên cười nhạt trong giấc mơ hóa ra xúc phạm đến Sứ quân cùng các đại tướng, các mưu sĩ. Vậy ngu hạ xin bỏ khăn để tạ tội!

Chúng tướng nét mặt giận trông thấy, các mưu sĩ khẽ liếc mắt nhìn nhau không dám nói gì. Kiều Sứ quân mỉm cười hỏi lại:

- Có phải là Điền quân muốn khuyên can ta đừng hành động như con trâu cổ đấy không?

Điền Bạc vội đứng lên đáp:

- Ngu hạ không dám ví Chúa công với con trâu cổ, thật quả giấc mơ có như vậy. Còn về việc ra quân, thì Trung Hỏa Tướng đã bảo là chỉ việc chém địch, cướp thành, như thế là phải, duy có điều lầ cần phải xét kỹ mới được.

Thanh Diện Ma Vương Lý Sùng Bang vặn lại:

- Thế ông mưu sĩ đã có kế gì hay chưa, việc binh tất ông không cầm được gươm, ngựa ông không cưỡi được, có phải “nên xét kỹ cái chỗ đó” của ông đấy chăng?

Điền Bạc đáp:

- Đã dành là sức trâu cổ lên được non, đuổi được gió, nhưng có làm được như gió sứt mẻ chút nào đâu, cuối cùng trâu cổ phải táng mạng ngu đàn đến như vậy! Nay Chúa công đã hỏi, các võ tướng cũng đã quyết, nếu có bàn thì cũng chỉ xin được nghe kế hoạch “đuổi gió, lên non” của các Tướng mà thôi.

Trung Hỏa Tướng Đặng Nhất Hùng nổi giận không thể tức thì xé xác Trường Miên Quân Điền Bạc cho hả, liên xô ghế đứng bật dậy:

- Ông nói như vậy, chẳng hóa ra rủa tôi chết như con trâu của ông đấy ư? Bọn mềm lưỡi bao giờ cũng chỉ làm rộn mà thôi, chứ có được việc gì đâu! Nếu ta được quyền, tất thế nào cũng bắt bọn mềm lưỡi giữ chân tắm ngựa trận ta mới hả được giận!

Kiều Sứ quân vỗ bàn:

- Đặng Nhất Hùng ngươi không được lỗ mãng như thế? Việc quân bàn bạc ai cũng được quyền nói ý mình ra. Đành rằng ta nhất định ra quân, nhưng cũng cần có kế hoạch rõ ràng. Vậy ra hỏi Điền quân, ông có mẹo gì hay chăng?

Điền Bạc nghiêm trang:

- Ngu hạ xin được nghe cao kiến của chư vị trước đã.

Kiều Sứ quân nói:

- Thế Đặng tướng quân định liệu ta phải tiến quân như thế nào?

Đặng Nhất Hùng đáp:

- Phàm việc quân, tướng phải rõ địch tình, hiểu rõ chiến trường, định rõ tiến thoái. Nay địch tình rối loạn, huyện quan bị giết, thế tức là lòng người biến loạn, quân sự của địch không vững. Nếu ta đưa quân xuống Nam chinh phục Sứ quân Nguyễn Khoan, tức là vào kho lúa gạo, đoạt lấy nốt giải sông hồ cửa ngõ xuống phía Nam, lại thêm tranh thủ được nhân tâm toàn cõi Phong Châu, làm thế lâu dài lập nghiệp lớn. Nếu tiến quân, phải phân lưỡng đạo Đông Tây, một tiến theo ngả Trung Mẫu, xuống Tam Lộng vào Bình Xuyên, bít kín cửa ngõ trọng yếu của kho lúa gạo; một mặt, đưa thủy quân theo đường sông, tràn xuống đánh lấy Bồ Điền; hai đạo quân giằng co giúp nhau, thì chỉ phất cờ gióng trống cũng đủ đoạt thành, cướp đất của địch được rồi.

Chúng tướng nghe bàn, thảy đều khâm phục, duy có Điền Bạc vẫn lim dim cặp mắt, chẳng lộ vẻ gì là bài bác hay tán thành cả. Kiều Sứ quân lại hỏi:

- Thế ý kiến của Điền quân như thế nào?

Lúc ấy, Điền Bạc mới mở choàng hai mắt, trịnh trọng nói:

- Đặng tướng quân nói như vậy cũng không phải là không có lý. Nhưng ra quân như vậy chẳng khác nào lội sông mà không sắm bè, vào sa mạc mà không lo để dành nước...

Trung Hỏa tướng vặn lại:

- Ông nói thế là nghĩa làm sao?

Điền Bạc ung dung:

- Tướng quân biết phải đánh nơi nào của địch, nhưng lại quên không biết sức địch thế nào, phỏng có khác gì việc “biết phải lội sông, mà không biết cách sang sông; biết phải vào sa mạc, mà chẳng biết quang cảnh sa mạc ra sao” đấy ư?

Kiều Sứ quân bảo:

- Điền quân nói đúng lắm. Vậy muốn lội sông, vào sa mạc, ta phải làm thế nào đây?

Điền Bạc hai mắt lại lim dim, đây là lần đầu tiên mưu sĩ “ngủ nhiều” được nghe Sứ quân hỏi kế một cách thành khẩn như thế. Mưu sĩ Điền Bạc trong lòng không khỏi nôn nao cảm động, ông nói:

- Bẩm Sứ quân, đành rằng ta sẽ thanh toán Nguyễn Khoan, nhưng cũng lại phải biết sức Khoan mới được. Nay, Khoan tuy giữ vững đất đai Tam Đái nhỏ bé hơn đất của ta, nhưng lại có nhiều cái lợi về địa thế lẫn sức lực. Về địa thế, phía Bắc, Khoan không phải lo cái họa Kiều Lịnh Công ở Hồi Hồ, Khoan cũng còn có thể tạm gác tay ngủ yên không lo ta xâm chiếm, đấy cũng là một điểm không lợi của ta...

Điền Bạc nói chưa hết, Sứ quân nét mặt đã tỏ ra không vui, Trung Hỏa Tướng thì hầm hầm:

- Ông nói vậy, chẳng hóa ra ta không bằng Nguyễn Khoan, nên y mới gác tay ngủ yên được, có phải không?

Điền Bạc nói:

- Phàm đã vào việc quân, cần phải hiểu rõ sức mình sức người, ta không thể tự ái không đâu mà tự dối mình, không biết người! Tại hạ không nói rằng Nguyễn Khoan hơn ta, nhưng quả quyết rằng Nguyễn Khoan không sợ ta...

Kiều Sứ quân hỏi:

- Nếu không hơn ta, sao y lại không sợ ta?

Điền Bạc đáp:

- Bẩm Sứ quân, đấy là điều ta cần biết rõ. Thực ra, sức mạnh của Đặng Tướng quân thừa để phá thành đoạt đất của Nguyễn Khoan đấy, nhưng sức ấy nhất định không hơn được những cái Nguyễn Khoan dựa vào đó để không sợ ta...

Đặng Nhất Hùng nghe Điền Bạc nói sức mình thừa sực đoạt thành cướp đất của đich, lấy làm hoan hỉ lắm, thành ra cơn giận mười phần cũng giảm được đến phân nửa, liền dịu giọng lại hỏi:

- Thế địch dựa vào đâu để không sợ sức mạnh của ta?

Điền Bạc ung dung đáp:

- Cái thế phòng thủ của Đông Ngô thời Tam Quốc như thế nào, chắc các vị còn nhớ rõ. Nguyễn Khoan cũng vậy, Tiến thì không có đà để đánh ta, ngó về phương Nam cũng chẳng dám gây sự với Ngô Nhật Khánh; nhưng Thủ thì thế vạn đại vững vàng. Đất Tam Đái phía Tây có sông rộng chạy xuống phía Nam thì lại đổi hướng về phía Đông, làm cho mảnh giang sơn Tam Đái phân nửa có sông bao bọc, nhìn ra được cả hai phía chẳng khác nào như đứng trên mỏm núi cao nhìn xuống vùng ruộng đồng phì nhiêu, thấy rõ được cả động tĩnh của địch ở hai mặt Tây Nam. Phía Bắc, Nguyễn Khoan có cái lợi cùng chia với ta vùng đất bao la nhưng trống trải, trông suốt được mọi bề, đất ấy không phải là đất dụng binh mà là đất để đoạt lòng người, thu nạp nhân lực, tích trữ lương thảo, nuôi dưỡng sức mạnh. Về phía Đông, từ Cung Thương lên đến Trung Mẫu, đường không dài cũng không ngắn, tiến thì hậu quân liên lạc được với tiền quân, lui thì ba mặt Bắc Tây Nam cùng hợp sức bảo vệ, khó lòng quân ngoài vào được giữa lòng Tam Đái. Nguyễn Khoan có cái lợi là: nhìn lên phía Đông Bắc, cả một giải núi cao sẵn sàng như dành cho Khoan nơi ẩn nấp, nếu cùng đường Khoan có thể liên kết quy hàng Cổ Loa, thế là tự nhiên biến thành mối họa tim óc ở ngay sát nách ta. Binh dụng chưa được, có khi mang họa thêm nữa là khác.

Chúng tướng im lặng, bọn mưu sĩ cũng không có ý kiến ra sao. Kiều Sứ quân trầm ngâm giây lát, rồi giọng có phần buồn buồn hỏi:

- Như vậy, ta không làm sao thu được đất Tam Đái mà lại còn phải lo cái họa Tam Đái liên kết với Cổ Loa nữa đấy? Hừ!...

Trung Hỏa Tướng cau mày hỏi:

- Nói như vậy, thì chẳng phải là Điền mưu sĩ làm cho quân chưa ra trận đã nản lòng rồi hay sao? Việc quân mà cứ bàn bạc lôi thôi mãi, thì chỉ làm rối thêm tình thế chứ chẳng được ích gì. Tôi thiết nghĩ, ta cứ đổ quân thật nhanh xuống phía Nam, theo ngả Trung Mẫu xuống tới Bình Xuyên, Cung Thương, là chặn được đường của Khoan liên lạc với Cổ Loa, chứ việc gì phải lo lắng mãi...

Điền Bạc cười nhạt, hai mắt vẫn không mở ra:

- Thế Tướng quân quên rằng Khoan lấy cớ phòng giữ Cổ Loa tiến đánh, nên lập cả một loạt các ổ tế tác suốt từ sông Cà Lồ lên đến tận Suối Bạc, ngày đêm lảng vảng khắp nơi dò la tin tức Cổ Loa là gì? Nay ta động binh liệu có trừ ngay được các ổ tế tác ấy hay không? Nếu không thì đường về Cổ Loa liệu mấy ngày thì tới? Thảng hoặc, lúc nguy cấp Nguyễn Khoan vượt sông xuống Yên Lãng, thì việc liên kết với Cổ Loa nào có xa xôi gì nữa. Lúc ấy, sức ta có chống được với Kiều Lịnh Công, địch với Nhật Khánh ở bên kia sông, chống với binh Cổ Loa, đỡ được Nguyễn Siêu, Đỗ Cảnh Thạc kéo binh Nam lên không? Tướng quân muốn lấy sức mạnh của “trâu cổ” để bắt gió, liệu có tránh được cái nạn rơi xuống vực sâu mà chết hay không?

Trung Hỏa Tướng cứng họng, mặt nhợt nhạt như gà bị cắt tiết, Thanh Diện Ma Vương nín thinh, bọn mưu sĩ kẻ sửa lại vành khăn, người xếp lại tà áo, vó vẻ hài lòng vì “phe te” hơn đám võ tướng! Kiều Sứ quân vẻ mặt trầm trọng, hỏi:

- Điền quân nói rất chí lí, nay ý ta nhất định đánh Nguyễn Khoan thì phải làm thế nào? Bản đường xin được nghe cao kiến!

Chúng tướng cũng như đám mưu sĩ thảy đều im lặng, ai cũng có vẻ nóng lòng muốn nghe xem Điền Bạc bàn thế nào. Điền Bạc từ lúc bỏ khăn bây giờ ngồi không nhúc nhích, nay hơi cục cựa có vẻ áy náy, hai mắt Điền Bạc hết lim dim lại mở rộng, ngập ngừng hồi lâu mới đứng lên trịnh trọng:

- Bẩm Sứ quân, tại hạ đã có sẵn kế trong lòng, nhưng... nhưng...

Điền Bạc lim dim cặp mắt, bộ điệu lúng túng. Kiều Sứ quân chợt tỉnh ngộ, vỗ bàn truyền:

- Phải lắm! Phải! Việc nước chỉ nên bàn, không nên lộ bí mật. Điền quân hãy khoan nói đã. Các tướng, các mưu sĩ cứ trở về, ai lo việc nấy, ta nhất định nghe lời can của Điền Quân chưa vội tiến binh. Các ngươi hãy đợi lệnh ta, đừng có trễ nải!

Mọi người vái tạ lục tục ra về, mỗi người mang một ý nghĩ trong lòng không yên. Lúc ấy, trong đại sảnh phủ đường Kiều Sứ quân, chỉ còn có mưu sĩ Điền Bạc ngồi lại, Sứ quân đợi mọi người ra hết, mới ngồi xuống ân cần hỏi Điền Bạc:

- Bây giờ thì Chế này xin được nghe cao kế đây! Điền Bạc sửa lại tà áo, trịnh trọng:

- Việc ra quân, trước sau cũng phải làm rồi. Từ ngày Sứ quân chiếm giữ Phong Châu, cưỡng lệnh của Cổ Loa, cùng với anh hùng khắp nơi mỗi người giữ một giang sơn, đến nay đã được bốn năm, sức không đủ mạnh để phá Bắc, dẹp Đông, đỡ Nam, chiếm Tây, nay muốn trút quân đánh nhau với Sứ quân Nguyễn Khoan, việc lo trước nhất là phải làm sao phá vỡ được cái thế yên ổn của Khoan, đem được cái “thịnh” của Khoan làm cái “thịnh” của mình, đẩy được Khoan vào chỗ nguy để mình được yên mà không làm cho bốn phương náo động, tức là thanh toán được Khoan mà không làm cho Sứ quân khác động binh.

Điền Bạc luận một thôi một hồi, Kiều Công Hãn như sực tỉnh, dần dần ra khỏi được giấc mê. Sứ quân cả mừng:

- Trời cho ta được Điền Quân, chẳng khác nào đại hạn gặp mưa, ta còn lo gì đại nghiệp chẳng thành nữa?

Điền Bạc vội lạy tạ:

- Bẩm Sứ quân, Điền Bạc này đâu dám thế. Anh hùng hào kiệt trong thiên hạ không phải là hiếm, nay khuông thờ Sứ quân thì quyết dốc hết sức hèn tài mọn ra báo đáp. Việc nay đến như vậy, làm sao Điền Bạc này còn dám “ngủ nhiều” nữa.

Kiều Sứ quân cả cười:

- Hay lắm! Vậy Điền Quân định kế như thế nào?

Điền Bạc luận:

- Không phải chỉ có lúa nhiều mà Nguyễn Khoan yên ổn, không phải chỉ có ba nghìn ngựa, muôn quân mà Nguyễn Khoan được yên, không phải có nhiều quân tế tác tinh khôn ở biên giới mà thông được hết việc thiên hạ, Nguyễn Khoan yên được ở bên trong, hòa được ở bên ngoài, vững được thế thủ mà không vững được thế công, ấy là nhờ cả vào một người...

Kiều Sứ quân vội hỏi:

- Nguyễn Khoan nhờ vào ai mà được như thế?

- Nguyễn Khoan nhờ vào nhà sư Không Trí Thiền Sư ở Yên Lạc nên được như ngày nay.

- Không Trí Thiền Sư là người thế nào?

- Không Trí ở Yên Lạc là một Phật gia chính phải, chủ trương bi trí giúp cho việc tổ chức nội bộ của Nguyễn Khoan được vững chắc, bày cho Nguyễn Khoan phép trị ngoại được hòa hoãn. Thiền sư dưới tay có ba trăm đệ tử, có nhiều người tài. Gần đây, tại hạ được biết: Thiền sư không bằng lòng các hành vi của huyện quan Bồ Điền, nhiều lần khuyên Nguyễn Khoan phải bãi chức huyện quan, thay bằng người có tài có đức. Nhưng huyện quan Bồ Điền vốn là tên lưu mạnh hiếu sắc, liền vận động với Nguyễn Khoan, dâng gái đẹp, đút bạc vàng, khiến Nguyễn Khoan mờ mắt. Huyện quan Bồ Điền lại còn mua chuộc được vị Sư coi về Hóa Pháp Đường chùa Yên Lạc, kéo bè kết đảng nội bộ chia rẽ với Thiền Sư Không Trí. Việc này, Thiền Sư không phải là không biết, nhưng chưa có thời giờ để chấn chỉnh nội bộ thì xảy ra vụ huyện quan Bồ Điền bị giết. Nay, tại hạ vừa được tin: Chùa Yên Lạc nghi kị lẫn nhau, Nguyễn Khoan cũng hoang mang chưa định, nhân cơ hội này, ta...

Điền Bạc đứng lên, lại bên Sứ quân, ghé sát miệng vào tai Sứ quân thì thầm hồi lâu, càng nghe vẻ mặt Sứ quân càng rạng rỡ. Cuối cùng, Điền Bạc nhắc lại:

- Sứ quân cứ thế..., cứ thế... là thành công đấy!

- Chế này xin nghe lời Điền Quân, nhất định phải thi hành diệu kế này mới được!

Sứ quân vừa dứt lời, bên ngoài phủ đường có tiếng huyên náo. Điền Bạc còn ngồi lim dim trên ghế, Sứ quân ngơ ngác không hiểu việc gì, sực có quân canh vào phi báo...

Muốn biết việc gì, xin xem rồi sau sẽ rõ.

—ooOoo—