Hồi Thứ Tư Mưu định vừa xong, tin sực đến
Uốn ba tấc lưỡi tạo thời cơ
Sứ quân Kiều Công Hãn cao giọng truyền:
- Có gì ồn ào quá vậy?
Tướng Đặng Nhất Hùng ào vào như gió lốc, vòng tay thưa:
- Bẩm Sứ quân, tiểu tướng xin ra quân ngay là hợp lắm. Bây giờ, vừa có tin bên Đái gửi về, nếu ta chậm là mất thế thuận lợi hiếm có đấy.
Sứ quân ngạc nhiên:
- Tin gì vậy? Ngươi hãy nói rõ ra chứ!
Tướng Đặng Nhất Hùng với tay mở cửa, gọi ra:
- Ngươi vào trình Sứ quân rõ mọi việc đi!
Từ ngoài, một kỵ sĩ vận bộ trường hành bào màu lam bám đầy bụi, chân đi dép đăng sơn, bước vào sụp lạy Sứ quân rồi vòng tay thưa:
- Bẩm Chúa công, ngu hạ ở chặng tế tác chót về đây, tin từ biên giới gửi về trình lên Chúa công rằng: bên Tam Đái, chùa Yên Lạc bất hòa, Không Trí Thiền Sư giận Hóa Pháp Đường đại tăng xúi giục Nguyễn Khoan những việc sằng bậy, nên đóng cửa chùa không đi lại với Nguyễn Khoan nữa. Hóa Pháp Đường Đại Tăng Tịnh Nhật được thể bỏ Chùa ra ở hẳn trong phủ Nguyễn Khoan, gây ra nhiều việc ân oán, khiến cho mưu thần Khúc Đồng Kim cáo quan về ở ẩn rồi bị giết chết bí mật. Trấn Giang Đại Tướng Cao Duy Hưng bất mãn lớn, án binh không tuần phòng, chúng tướng lòng dạ hoang mang không biết nghe lệnh ai, có ý đợi lệnh Trấn Giang tướng Cao Duy Hưng là có thể nổi lên làm loạn. Vậy tin cấp trình lên Chúa công định liệu.
Sứ quân ngẩn người, hồi lâu mới phán được một câu:
- Được, ngươi lui đi!
Kỵ sĩ “dạ” một tiếng, đứng dậy vòng tay bái rồi lui ra.
Cửa mở, bên ngoài thấy lố nhố bọn mưu sĩ và chúng tướng, thì ra bọn họ vẫn chưa ra khỏi phủ, còn bàn bạc với nhau ở tiền sảnh thì có tin tế tác chạy về, nên lại kéo nhau vào cả trong phủ. Bên trong, Kiều Sứ quân đi đi lại lại, trước văn án, bộ điệu gay cấn lắm. Tướng họ Đặng vênh váo đứng đợi, chỉ có mưu sĩ Điền Bạc vẫn lim dim ngồi như đang ngủ.
Sứ quân quay lại hỏi tướng Đặng:
- Việc như thế nào? Ngươi nói rõ ta nghe.
Trung Hỏa Tướng thưa:
- Ngay khi huyện quan Bồ Điền bị sát hại, mưu thần của Nguyễn Khoan là Khúc Đồng Kim nhân dịp hết lời khuyên Khoan hãy nên tu sửa nội bộ, xa lánh phường xu nịnh, chấn chỉnh uy danh, bảo vệ lấy thế đứng của mình hòng chống đỡ với các Sứ quân khác, Nguyễn Khoan còn đang lưỡng lự, sực có tin Đại tăng Tịnh Nhật chủ tọa Hóa Pháp Đường chùa Yên Lạc tới thăm, liền mời vào. Đại tăng Tịnh Nhật khuyên Khoan phải cứng rắn hành động, ngăn chặn ngay những mầm mống phản loạn nhất là bọn tướng sĩ. Khoan cho là phải, từ đấy có ý nghi ngờ bọn tướng sĩ, bắt ngày đêm đồn trại ở xa, không lúc nào được ngừng tuần phòng, cốt ý làm cho chúng tướng sĩ mệt mỏi không còn thì giờ nghĩ việc khác, không có dịp gặp nhau để bàn bạc được việc gì nữa. Không Trí Thiền Sư biết tin, hiểu việc các tướng sĩ bất mãn, lòng mưu sĩ hoang mang, liền ra mặt trách cứ Tịnh Nhật đem lời thẳng thắn khuyên Khoan hãy xa lánh kẻ xu nịnh, vỗ về tướng sĩ, nghe lời bàn của Khúc Đồng Kim.
Đại tăng Tịnh Nhật vốn là kẻ cường đồ, từng can dự vào nhiều vụ tàn hại lương dân, sau nhân tình đại loạn bọn tăng lữ được trọng dụng, liền bỏ nghề giặc cướp khoác áo nhà tu, nhờ cửa Phật để giao du với các người quyền thế, thi hành những mưu mô lợi hại để vơ vét thao túng địa phương. Khuông Trí là một chân tu, tình thế không thể dừng được phải dung dưỡng Tịnh Nhật nhưng trong lòng vẫn lo một mai họa từ trong nhà phát khởi tất khó trành được tai biến. Nay thấy Tịnh Nhật xúi Nguyễn Khoan làm điều xằng bậy, thì quyết một lần nữa ra mặt chống lại. Tịnh Nhật có nhiều tay chân bộ hạ, chia nhau khắp nẻo vây kín Nguyễn Khoan, đem gái làm Khoan mờ mắt, lựa những lời đẩy đưa làm đẹp lòng Khoan khiến Khoan nhìn việc như người mơ ngủ. Mưu sĩ Khúc Đồng Kim vốn dòng dõi Khúc Thừa Hạo năm xưa, thấy vận nước nguy nan chẳng thể ở yên một chỗ tìm cảnh vui thú ruộng vườn, liền dâng lời ngay thẳng lên Sứ quân Nguyễn Khoan thật thống thiết, xin Khoan hãy trừ bỏ Đại tăng Tịnh Nhật trước, sau vỗ về tướng sĩ, hết sức cứu dân mới mong tránh được loạn lớn. Tịnh Nhật biết được, liền gièm pha nói xấu Kim, khiến Kim bị Nguyễn Khoan ra mặt lạnh nhạt, Khúc Đồng Kim buồn bã, bỏ ra về. Ra tới cổng phủ Sứ quân, Kim ngửa mặt lên trời khóc to ba tiếng lại cười ba tiếng, rồi rũ áo thẳng phía Nam, toan trở về quê cũ bên bờ sông để ở ẩn.
Lúc Kim đi, dân chúng thương cảm xúm nhau lại tiễn đưa, có nhiều kẻ khóc lóc như sắp mất cha ông, rồi kéo nhau đi tiễn Kim xa hàng dặm đường mới chịu trở lại. Lúc ấy, điềm lạ lại xảy ra! Số là, Sứ quân Nguyễn Khoan rất ghét chim chóc, nhất là loài quạ đen thường hay tụ tập ở các chỗ sông hồ, Khoan truyền lệnh phải đuổi hết loài chim quanh phủ đường, cấm không được để cho loài quạ lai vãng gần phủ.
Vì thế, cả một vùng rộng lớn chu vi quanh phủ, từ lâu không còn thấy bóng quạ đen. Nay, lúc Kim lên đường về ở ẩn, dưới đất trăm dân tiền đưa khóc lóc, trên cao quạ đen ở đâu xuất hiện bay rợp trời, cất tiếng kêu thật bi thiết, rồi đua nhau bay cả về Nam. Tin bay về phủ, Sứ quân Nguyễn Khoan triệu bọn mưu sĩ lại hỏi, thì Đại tăng Tịnh Nhật bàn:
- Quạ đen là tin xấu, lâu nay bị Sứ quân cấm không được lai vãng, nay Kim từ quan lấy cớ về dưỡng già mà quạ đen xuất hiện, chẳng phải Kim với quạ là một thì còn gì nữa! Kim đi về Nam, quạ cũng bay về Nam, như thế lòng dạ quân phản trắc đã rõ rệt. Biết đâu Kim chẳng tìm cách sang sông, về với Kiều Thuận hay Nhật Khánh, lúc ấy tất Kim đem hết việc nội bộ của ta kể cho hai sứ ấy biết, có khác gì ruột gan ta bị Kim móc ra cả. Sứ quân nên bí mật cho người đi giết Kim, đừng để Kim thoát được qua sông e họa lớn khó lường được đấy!
Nguyễn Khoan cho là phải, sai người hành thích Khúc Đồng Kim tại gò Thần Tiên, gần Cẩm Khê. Từ đấy, Đại tăng Tịnh Nhật ra tay thao túng, kéo bè kết đảng xúi giục Khoan đủ điều. Một mặt, Tịnh Nhật ngày đêm dựa vào Phật sự, hết sức ru ngủ trăm dân, nay trở lễ chay đàn, mai mở lễ khi Kinh liên miên không hết, cốt ý tỏ ra là bậc chân tu trọng đạo, hòng lôi kéo tín ngưỡng trăm dân. Trăm dân bề ngoài tỏ ra trọng Phật, nhưng trong lòng không khỏi chán ghét ác tăng, việc loạn chỉ còn chờ cơ hội là xảy ra.
Sứ quân Kiều Công Hãn khi nghe rõ hết mọi chuyện, lại hỏi Đặng Nhất Hùng:
- Ý tướng quân định thế nào?
Nhất Hùng hăng hái:
- Bây giờ nội bộ Nguyễn Khoan lục đục, bên ngoài trăm dân oán thán, chùa Yên Lạc đòng cửa ấy là lúc ta nên mở cửa thành ra quân. Chỉ một trận là giang sơn này thu về một mối, đừng nên chậm trễ.
Sứ quân cả mừng, truyền:
- Nay ta quyết định khai quân. Tướng quân phải chuẩn bị sẵn sàng để đợi lệnh.
Trung Hỏa Tướng “dạ” to một tiếng, vẻ vui mừng không sao che giấu được. Thầy trò Sứ quân Kiều Công Hãn xem ra hài lòng lắm. Chợt mưu sĩ Điền Bạc lại cười nhạt một tiếng làm cho Sứ quân cũng như tướng Nhất Hùng chưng hửng.
Điền Bạc đứng lên trịn trọng thưa:
- Bẩm Chúa công, Nguyễn Khoan sắp chết, vì quạ đen đưa tiễn Khúc Đồng Kim, loạn sắp dấy lên ấy cũng bởi binh tướng mạnh mà không có đầu óc, tại sao Chúa công lại còn bắt chước Khoan để tìm chỗ nguy, bỏ cái thắng của mình như thế?
Sứ quân ngạc nhiên; Trung Hỏa Tướng giận tím mặt vội thưa:
- Bẩm Chúa công, quân ta chưa ra khỏi thành, mưu sĩ đã đem những lời lẽ chẳng ra gì để rủa ta, như thế sao có thể là kẻ đáng tin cẩn được?
Điền Bạc dõng dạc:
- Tướng quân nóng lòng muốn vì Chúa công ra binh, xông pha chiến trận, khí phách ấy thật đáng khâm phục! Nhưng thử hỏi: nội bộ Khoan tuy lục đục, nhưng chưa phải là tan rã, làm sao ta có thể chỉ một trận mà thành công được? Vả lại, Nguyễn Khoan còn có Trấn giang Đại tướng Cao Duy Hưng thường được người đời gọi là Thủy Thượng Giao Long, con rồng thiêng vẫy vùng trên sóng nước, hết sức giỏi nghề thủy chiến, lại thêm có tướng Lâm Huy Chung là tay giỏi chiến trận chẳng kém các danh tướng đời xưa. Nếu ta hấp tấp ra quân, hồ đồ vào đất địch, tất các tướng ấy phải tạm quên việc nội bộ để đối phó với ta, lúc ấy có phải là tự nhiên ta bỏ cái “an” của mình mà rước lấy cái “nguy” của kẻ viễn chinh hay không. Liệu sức tướng quân làm được gì trong tình thế ấy?
Trung Hỏa Tướng hai mắt như tóe lửa, quai hàm bạnh ra, nhưng cứng họng không biết đáp ra sao. Lúc ấy, chúng tướng và bọn mưu sĩ cũng ngấp nghé ở cả ngoài cửa, ai cũng nghe rõ hết những lời bàn bạc ở trong. Sứ quân băn khoăn giây lát, rồi truyền:
- Tất cả mọi người vào đây. Ta nghị sự thêm lần nữa xem sao!
Mọi người lại lục tục kéo nhau vào hội sảnh, phân ngôi an tọa. Sứ quân nói:
- Việc bên Tam Bái, ai cũng biết. Một bên, tướng quân Nhất Hùng muốn ra quân ngay để chiếm phần lợi, dựa vào cái thế “ta gắn bó mà địch rã rời” để thủ thắng, một mặt Điền mưu sĩ lại bảo ta đừng bỏ cái “an” của mình mà chọn cái “nguy” của địch. Vậy, ai có ý kiến gì nữa?
Chợt có người đứng bật dậy thưa:
- Bẩm Chúa công, việc quân là của tướng, tướng đã chủ trì việc ra quân, tất là ý hay đã định, mưu sĩ chỉ chuyên bàn lý sự, không hiểu phép chém tướng đoạt thành, ngồi chỗ yên mà tưởng tượng ra việc ở xa, làm sao sáng suốt được? Lúc nãy khi còn ở ngoài phủ, khi được tin gửi về hết thảy các tướng đều muốn ra quân ngay, nhiều mưu sĩ cũng cho là phải, vậy Chúa công nên quyết định tiến quân, trước là để làm cho hừng trí các tướng sĩ, sau là mở ra giai đoạn “rồng thiêng vượt khỏi đầm lầy”, đừng nên trì hoãn nữa.
Mọi người nhìn ra, hóa ra kẻ vừa phát ngôn là Quân Lương tướng Trần Bảo Điền chuyên coi về việc quân lương, nhưng lại bất lương hay ăn cắp của công. Điền vóc dáng vừa phải, nhưng cằm hơi lệch, và cặp mắt hay nhìn xuống, nên tướng gian khó che đậy được. Mưu sĩ Điền Bạc nghe Trần Bảo Điền nói vậy, liền xẵng giọng:
- Tôi được nghe bên Tam Đái có thằng hay ăn cắp lẻo mép, theo hầu nhà sư Tịnh Nhật, lúc vào chùa Yên Lạc hay có thói táy máy tay chân nên Không Trí Thiền Sư phải đánh xích sắt cột các đồ cúng tế vào bàn thờ mới không bị mất trộm. Sau thằng ăn cắp ấy theo Tịnh Nhật đại tăng ra ở phủ Nguyễn Khoan, lại giở nghề cũ bị Khoan bắt gặp, nó liền nói rằng: Cất giúp Sứ quân các đồ quý, kẻo bị mất trộm. Sứ quân giận nhưng không thèm chấp, thằng ăn cắp được thể làm tới. Nhiều người thấy nó có nhiều đồ quý hơn cả Nguyễn Khoan, nó sợ quá liền đem nộp cả lại Sứ quân, Nguyễn Khoan cười mà hỏi rằng: thế ngươi không cất giúp hộ ta nữa à? Thằng ăn cắp xấu hổ quá từ đấy không dám nhìn mặt Khoan nữa...
Điền Bạc kể chuyện bên Tam Đái, khiến chúng tướng cũng như bọn mưu sĩ cười ồ lên, Trần Bảo Điền biết Điền Bạc chửi chéo mình, vừa ngượng vừa giận quá, đành câm miệng ngồi im. Sứ quân Kiều Công Hãn hỏi:
- Thôi, việc thằng ăn cắp bên Tam Đái xong rồi, thế bây giờ Điền Quân có ý kiến như thế nào?
Điền Bạc lại trịnh trọng đứng dậy:
- Lúc nãy, tại hạ có đặt mưu kế, Chúa công cho là phải, nay vừa định xong kế lại có tin bên Tam Đái gửi về, kế của ta lại thêm cơ hội để thành công lớn. Ta chỉ cần thêm ít vận dụng nữa là thế nào cũng xong, ta cũng phải nên tạm nén lòng hăng hái vội vàng, để đợi cho mưu kế của ta thành tựu, lúc ấy chỉ giơ tay ra là đoạt được Tam Đái mà không e sợ gì cả.
Trung Hỏa Tướng nóng lòng hỏi:
- Thế mưu của ông như thế nào?
Điền Bạc ung dung đáp:
- Mưu thì Chúa công đã biết, nay ta chỉ cần thêm một chút nữa vào mưu kế ấy là xong. Bên Tam Đái, Trấn Giang Đại tướng Cao Duy Hưng là người có ảnh hưởng về binh bị lớn hơn cả. Cao lại đang bị Tịnh Nhật gièm pha quân sĩ hoang mang. Ta phải nhân cơ hội đánh kế ly gián, làm cho Cao bỏ Khoan mà đi, nếu Cao bỏ đi, tất thế nào tướng Lâm Huy Chung cũng phải chạy nốt, lúc ấy Tam Đái có khác gì con hổ bị cắt hết gân, con lươn bị rão xương sống, ta làm gì mà chẳng được!
Sứ quân cả mừng khen lớn:
- Hay, kế hay lắm! Nhưng ta làm sao để thi hành kế ly gián được đây?
Điền Bạc thưa:
- Lúc nãy tại hạ đã dâng lên Chúa công kế ấy nay chỉ cần thêm phần ly gián, bởi chính mưu kế ấy ta đang mong muốn thành tựu thì tự nó đã thành tựu rồi. Chùa Yên Lạc chia rẽ, Không Trí Thiền Sư đóng cửa không giao du với Nguyễn Khoan, có khác nào lòng trời tựa ta, ta mong ước là được. Nguyễn Khoan lai nghi kỵ bọn tướng sĩ, khiến lòng người hoang mang, nay ta nương theo cơ hội ra tay để quyết một việc, là nội bộ Nguyễn Khoan phải tự tan rã...
Kiều Sứ quân lại vội hỏi:
- Nguyễn Khoan tan rã vì sao?
Điền Bạc thưa:
- Việc lớn kỵ nhất là vua nghi ngờ tướng sĩ bề tôi; nay Nguyễn Khoan nghi ngờ chúng tướng có khác nào tự chặt tay chân. Nay ta chỉ cần làm sao cho cái nghi kỵ ấy trở thành mối lo sinh tử của chúng tướng bên Tam Đái, khiến cho họ phải tự cứu bằng cách bỏ Khoan mà đi, thế là ta thành công.
Sứ quân hỏi thêm:
- Ta làm sao để hành động như vậy được đây?
Tướng sĩ ngoảnh đi ngoảnh lại nhìn nhau, mà chẳng có ai có ý kiến ra sao. Mưu sĩ Điền Bạc thì vẫn cứ lim dim cặp mắt. Hồi lâu, Sứ quân có ý nản lòng, hỏi vớt lần nữa:
- Ta làm thế nào để thi hành mưu kế được đây?
Mọi người im lặng hồi lâu, lúc ấy Điền Bạc mới cất tiếng:
- Bẩm Chúa công, nay ta phải cử người sang Tam Đái, tìm cách để liên lạc với các tướng bên ấy, rồi lựa lời mà nói:
Sứ quân vặn lại:
- Ai đi được công việc khó như vậy? Ai dám vì ta mà lên đường vào chỗ nguy hiểm được đây?
Chúng tướng và bọn mưu sĩ nín thinh, lần này Sứ quân tỏ ra chán nản ra mặt. Hồi lâu, Điền mưu sĩ mới bước ra trịnh trọng sửa lại tà áo, nghiêm trang nói:
- Bẩm Chúa công, không phải các tướng hay các mưu sĩ của ta không có đủ tài để vào nơi nguy hiểm, nhưng nơi nguy hiểm mà thận trọng trước khi bước vào là điều đáng khen. Các tướng xông pha trận mạc nguy hiểm không cùng mà chẳng sợ, đâu có phải là các tướng nhát sợ gì. Các mưu sĩ tính kế bày mưu, ra tài để dựng nước, đấy cũng là thái độ can đảm mà không cần phải xông pha trận mạc. Nay, các tướng, các mưu sĩ không ai nhận sứ mạng đi Tam Đái, ấy cũng vì mỗi người hiểu rõ công việc của mình, mọi hành động nhất nhất đều có ảnh hưởng đến sự nguy vong hay an toàn của ta, nên mới có sự im lặng như vậy...
Lời nói của Điền Bạc êm mà vững như bàn thạch. Cả hội sảnh im lặng đến con ruồi bay cũng nghe rõ tiếng cánh đập. Điền Bạc nói chưa hết, đám các tướng và bọn mưu sĩ bỗng có nhiều người thở dài nhẹ nhõm. Thì ra các tưởng chỉ chuyên việc cưỡi ngựa cầm gươm, lấy cái khỏe của kẻ ngu phu ra tung hoành. Còn bọn mưu sĩ vốn là bọn thích về hùa a-dua, hay lựa lời tâng bốc chủ nhân hơn là hết lòng giúp chủ, nay vào dịp lớn làm sao dám ngửa tay nhận việc. Mọi người ngượng nghịu thì nghe Điền Bạc lên lời, mới đầu đã tưởng là Điền Bạc lại sắp xỏ xiên kể nọ móc họng kẻ kia, ai cũng có ý lo, nhưng nào ngờ Điền Bạc lại hết lời biện luận bệnh vực cho, chẳng khác nào như kẻ đi đêm sợ ma bỗng gặp được quán trọ đông người có đèn sáng. Mọi người mừng ra mặt. Sứ quân cũng hởi dạ hỏi:
- Vậy Điền quân định liệu thế nào?
Điền Bạc vẫn ung dung:
- Tại hạ dâng kế, thì xin Chúa công cho tại hạ được thi hành kế. Nếu Chúa công không nghĩ rằng tại hạ kém cỏi, thì tại hạ xin vượt đường xuống Tam Đái một phen.
Kiều Sứ quân cả mừng:
- Hay lắm, ta có Điền quân đích thân lo việc ấy, thì còn sợ gì nữa!
Sứ quân vừa dứt tiếng, có kẻ sực nói:
- Mạt tướng chữa vững gươm, cưỡi ngựa vạn dặm chưa nổi, cũng xin đem thanh gươm gỉ con ngựa ốm theo hầu Điền mưu sĩ xuống Tam Đái, xin Chúa công đừng từ chối!
Tiếng nói nghe như sóng vỗ bờ đá, vang mà hùng vô kể khiến mọi người đều giật mình nhìn ra, thì đó là tướng có nhiệm vụ canh phòng ngoại vi phủ đường Sứ quân, tên gọi Thẩm Chu Bình, chức Truy Phong tướng.
Thẩm thường ít nói, nhưng có thực tài, rất được mọi người yêu mến. Tài của Thẩm thật ra chưa có cơ hội để biểu dương đến tuyệt mức, nay nghe Thẩm xin theo hầu Điền Bạc, Sứ quân bằng lòng ngay, nhưng còn hỏi lại Điền Bạc:
- Ý túc hạ thế nào?
Điền Bạc khẽ liếc Thẩm Chu Bình một cái, Bình hồi hộp chờ đợi, Điền Bạc nói:
- Nếu được ông Thẩm đi cùng, thì tại hạ mừng lắm, còn phải nói gì nữa?
Lúc ấy, Trung Hỏa Tướng Đặng Nhất Hùng lại nói:
- Bẩm Chúa công, việc Điền mưu sĩ xuống Tam Đái, chẳng khác nào vào chốn hang hùm hầm rắn, tại hạ nghĩ mình nên được đi theo bảo hộ cho Điền mưu sĩ mới đúng.
Sứ quân cả cười:
- Hay lắm, ai cũng muốn vào hang hổ hầm rắn, thế mảnh giang san này lấy ai gìn giữ đây?
Điền Bạc nói tiếp theo:
- Đặng tướng quân chẳng khác nào cây trụ của đất Phong Châu này, nay bỏ mà đi sao được! Tại hạ nghĩ rằng tướng quân nên ở lại phò trợ Sứ quân, lo liệu không cho rắn lọt vào, hổ tới quấy, có phải hơn không. Vả lại, chuyến đi Tam Đái tuy lành dữ thế nào chưa biết, nhưng tại hạ quyết chắc là sẽ không đến nỗi nào. Xin tướng quân cứ yên lòng...
Sứ quân mừng lắm hỏi thêm:
- Thế bao giờ thì Điền quân định sẽ lên đường đây?
Điền Bạc lẩm nhẩm tính toán:
- Bây giờ là bắt đầu vào Hạ, giữa Thu đất Tam Đái có lệ mở hội mừng trăng. Cũng trong hội này, Trấn Giang Đại tướng Cao Duy Hưng năm nào cũng vâng lệnh Nguyễn Khoan mở cuộc thao diễn thủy quân, biểu dương lực lượng, phô trương thanh thế để đe dọa các Sứ quân khác; mười ba ngày của tiết Thu phân là hội tết của Tam Đái, Nguyễn Khoan hay mở cửa Phủ tiếp khách. Nhân dịp này, tôi xin vào gặp Nguyễn Khoan, dâng đồ lễ của Chúa công, nói là Chúa công sai xuống Tam Đái giao hảo. Rồi tôi sẽ lựa dịp gặp gỡ Tướng Trấn Giang, tìm cách li gián hắn với Khoan là được.
Sứ quân càng nghe Điền Bạc nói, mặt mày càng khởi sắc vui tươi, rồi truyền dọn tiệc để Chúa tôi thù tạc, mừng việc lớn sắp đặt được đâu vào đó, đợi ngày Điền Bạc lên đường xuống Tam Đái.
Việc thế nào, xin xem hồi sau sẽ rõ.
—ooOoo—