Hồi Thứ Tám Lửa cháy trên sông, rồng thiêng xuôi Nam tìm lánh nạn
Đường về quê cũ, Điền Bạc rong ruổi giữa rừng gươm
Phòng Đường tướng rạp mình bẩm:
- Bẩm Sứ quân, lửa đã cháy rực trên ngã Ba Hạc, lệnh của Chúa công tới không kịp rồi. Tiểu tướng xin đợi lệnh!
Sứ quân truyền Phòng Đường tướng lui ra, đoạn tự tay đánh cồng triệu tập hội nghị.
Sứ quân nhìn chúng tướng, mưu sĩ một lượt, mắt như tóe lửa nói:
- Ta trúng kế của Điền Bạc mất rồi! Lúc này tướng Trấn Giang của ta đã bỏ trốn, không biết y đi về đâu. Còn tên Điền Bạc tất chưa thể ra khỏi được lãnh thổ của ta, ta chỉ còn hi vọng vào quân của tướng Phúc Nghiệp Trình đuổi kịp y, cũng may là ta còn tướng Lâm Huy Chung đang đi tuần canh ở phương Bắc, Điền Bạc chắc không thể đi bằng đường sông được, y phải đi bằng đường bộ, thế tất gặp phải Tướng của ta, y sẽ không thoát được!
Hàn Đồng góp lời:
- Đối với Phong Châu, Chúa công định liệu thế nào?
Sứ quân nói như truyền lệnh cuối cùng:
- Ta quyết điều binh trừng trị Phong Châu tức thì, nếu để chậm tất Phong Châu phòng bị trước, binh ra phải như gió lốc mới kịp...
Rồi chúa tôi bàn bạc thật gay go, quyết ra binh tiến đánh hỏi tội Phong Châu.
Đây lại nói về Trấn Giang tướng Cao Duy Hưng. Tướng Cao cùng vợ con ngồi trên chiếc thuyền nhẹ, đem theo mười hai người tâm phúc ráo riết đẩy chèo đội ánh trăng xuôi dòng xuống Nam, tâm sự mang mang buồn vô hạn. Thuyền đi chưa được bao lâu, trăng càng về khuya càng lạnh, Cao Duy Hưng ngồi trong khoang thuyền thẫn thờ chưa biết ngày mai sẽ ra sao, sực có người vào bẩm:
- Trên mạn ngược, lửa cháy lớn quá, không biết có chuyện gì xảy ra!
Cao Duy Hưng nghe bẩm giật mình kinh hãi, mồ hôi tháo ướt cả lưng, liền truyền lệnh cho các tay chèo ra sức bơi nhanh về Nam. Cao Duy Hưng nghĩ thầm: “Quả nhiên Điền Bạc nói thật. Chậm một chút thì ta bị bắt mất!” Cao Duy Hưng bước ra ngoài khoang, nhìn về phương Bắc thấy ngọn lửa ở xa cháy ngùn ngụt, đỏ cả một vùng sông nước trời mây, trong lòng cảm khái vô hạn chen lẫn thê lương, họ Cao đứng thừ người nhìn ánh lửa, trong lòng nao nao nỗi buồn của một đại tướng phải đào tẩu. Bỗng lại nhớ lời Điền Bạc dặn: “... cuối Đông năm nay, khi nào nghe thấy trên sông có tiếng trống dậy, thì lập tức tìm đến sẽ thoát nạn...”, Cao Duy Hưng không khỏi bồn chồn trong lòng tự biết: “Phong Châu có người tài như Điền Bạc, định kế như thần, tất ta sẽ thoát nạn, nhưng thân một đại tướng về hàng, biết nước chảy mây trôi như thế nào đây!”. Nghĩ ngợi hồi lâu, lại ngước nhìn lửa vẫn cháy rực, Cao Duy Hưng hoang mang không biết quyết định thế nào, hồi lâu có tiếng phu nhân nói vọng ra khuyên nên vào nghỉ. Cao Duy Hưng thẫn thờ bước vào trong khoang, nghe tiếng mái chèo khua nước trên đường đào tẩu không ngăn nổi cảm xúc, ứa lệ mặc cho số phận nổi trôi, trong lòng tuyệt không chút gì oán hận Sứ quân Nguyễn Khoan, nhưng giận bọn nhà chùa Tịnh Nhật vô cùng. Thuyền càng đi về Nam, lau lách hai bên bờ sông càng rậm rì, cảnh trí thật hoang vắng thê lương, sông rộng mông mênh như dòng bạc dát mỏng đưa kẻ anh hùng lên đường phiêu bạt.
Từ đấy, không còn nghe tiếng Cao Duy Hưng thế nào nữa...
Đây lại kể về việc Điền Bạc và Thẩm Chu Bình mang mười hai dũng sĩ trở lại Phong Châu. Ngay sau khi vào bái biệt Sứ quân Nguyễn Khoan, cả bọn không nấn ná đợi xem hội trên sông Tam Đái, mà gấp rút đi ngay.
Điền Bạc bảo Thẩm Chu Bình:
- Đường từ Tam Đái về Phong Châu không xa, nhưng lại không phải là quá gần để ngày một ngày hai ta có thể thoát về ngay được. Ngay gần nửa đêm nay, lửa sẽ cháy ở Bạc Hạc, như thế là đường sông gần nhất ta không đi qua kịp rồi. Còn đường bộ thì phải đi vòng, xa lắm. Dọc đường tất thế nào cũng gặp nhiều khó khăn đây!
Thẩm Chu Bình nói:
- Sau khi lửa cháy, sáng mai thế nào Sứ quân Nguyễn Khoan cũng biết là bị Ngài lừa. Tất thế nào chuyến trở về Phong Châu của ta cũng vất vả. Lại thêm từ nay Phong Châu Tam Đái kết thù rồi, thế nào cũng có đánh nhau.
Điền Bạc ngắt lời:
- Cần gì phải đợi đến mai Sứ quân Nguyễn Khoan mới biết là bị ta lừa. Ngay chiều hôm nay thế nào y cũng biết rồi. Nếu lửa cháy trên sông, là kế của ta thành tựu. Chỉ sợ một điều là tướng Cao Duy Hưng không khéo léo thì có thể bị mất mạng. Còn việc Tam Đái Phong Châu kết thù thì việc động binh là chắc rồi. Ta cần phải về cho kịp lúc, đừng để Nguyễn Khoan động binh mà còn bị vướng ở Tam Đái mới được. Tuy thế, trước khi đi ta đã dặn dò kỹ càng ở nhà cả rồi...
Ngừng một lát, Điền Bạc nói tiếp:
- Bọn ta tới Tam Đái thật yên lặng. Ta rời Tam Đái thì thế nào cũng náo nhiệt lắm đây! Trước ta dềnh dàng mà đi, nay ta phải nương theo gió mà chạy mới kịp. Tướng quân bảo nên đi đường nào thì có lợi?
Thẩm Chu Bình ngẫm nghĩ giây lát, rồi đáp:
- Phải chi đường sông không bị vướng, thì chỉ một ngày là ta về đến Phong Châu. Nay, phải đi đường vòng, tránh xa quan lộ mới xong.
- Tránh như thế nào?
- Tiểu tướng nghĩ là có khi phải đi vòng lên đến tận Cung Thương, Bình Xuyên cũng không biết chừng...
Điền Bạc cười:
- Tướng quân quả thật là người cẩn thận! Nhưng, việc binh như lửa đốt, làm gì còn có thì giờ đi chơi xa như vậy được chứ! Tướng quân quyên mất binh thư có dạy rằng: “Phải vào chỗ chết để tìm cái sống” hay sao? Nếu như vậy, thì ý tướng quân cho đâu là đất chết nào?
Thẩm Chu Bình đáp ngay:
- Là quan lộ ngả trấn thành của Tam Đái.
Điền Bạc cả cười:
- Đúng là đường sống đấy! Chúng ta sẽ đi con đường ấy mà về!
Thẩm Chu Bình cả kinh mà rằng:
- Tiên sinh nói sao?
- Chúng ta sẽ theo quan lộ mà về chứ sao!
- Như thế thì làm sao thoát khỏi tay Tam Đái được?
Điền Bạc nghiêm nghị:
- Tướng quân cứ yên lòng. Nếu đi đường vòng, ta phải mất ít ra cũng hơn nửa tháng trời. Còn đi đường quan lộ, thì chỉ trong vòng đôi ba ngày là thoát hiểm. Nhưng chuyến đi này không dễ dàng đâu, phải nhờ đến sức của tướng quân nhiều lắm đấy. Liệu tướng quân có dám xông pha một phen xem sao không?
Thẩm Chu Bình hứng chí:
- Bẩm tiên sinh, thật ra đi đường quan lộ tôi e ngại lắm. Nhưng phải xông pha một phen để được an toàn trở về, thì tôi rất sẵn sàng đợi lệnh của tiên sinh.
Điền Bạc mỉm cười:
- Vậy ta lên đường ngay. Chắc lúc này quân Tam Đái cũng sắp theo kịp ta rồi đấy.
Nói xong, Điền Bạc ra lệnh cho cả bọn theo hướng Tây Bắc ra roi cho ngựa chạy miết. Lúc ấy, trăng mười sáu vằng vặc, mạn xuôi im lìm, cảnh vật thanh bình lạ lùng. Càng về khuya, bọn Điền Bạc càng nhân đêm tối cướp thời giờ mà chạy. Gần đến nửa đêm, phía Bắc phụt lửa sáng rực.
Điền Bạc ngẩn người, mười hai dũng sĩ cùng với tướng Thẩm Chu Bình không nén được xúc động cùng reo lên:
- Lửa cháy rồi!
Nhìn lại, thấy Điền Bạc dừng ngựa giữa quan lộ, đăm đăm nhìn vùng trời đỏ lửa; lâu lâu, Điền Bạc quay đầu nhìn lại phương Nam mù mịt tối, lặng lẽ không nói một lời. Giây lâu Điền Bạc mới thở dài, ra lệnh tiếp tục cuộc hành trình.
Bọn Điền Bạc đêm hôm ấy không ngủ, chỉ dừng lại để cho ngựa đủ hết mệt là lại lên đường ngay. Dọc đường, Điền Bạc bảo Thẩm Chu Bình:
- Cứ đà này mà chạy, thì cũng khoảng tàn Sửu sang đầu giờ Dần bọn ta sẽ tới Hương Lai. Tới lúc ấy thì quân Tam Đái chắc đã đuổi gần kịp rồi.
Bọn người chạy miết, trăng trên cao trôi dần sang hướng khác, hết giờ Tí, vào giữa giờ Sửu có tiếng gà eo óc gáy trong thôn xóm, trăng nhạt màu trên trời. Cuối Sửu, bọn Điền Bạc chạy sạt bên ngoài Hương Lai, vượt ngựa thêm vài dặm nữa rồi cả bọn dừng lại ở gần ngã ba đường.
Cả bọn nhìn con lộ chia ra hai ngả, mất hút trong màu tối mờ của một đêm trăng sắp tàn. Điền Bạc nghe trong tiếng ngựa thở phì phò dường như có cả tiếng mọi người cùng thở hổn hển mệt nhọc lẫn hồi hộp. Giây lát, Điền Bạc hỏi Thẩm Chu Bình:
- Tướng quân bảo ta nên đi theo ngả đường nào?
Thẩm Chu Bình chỉ con đường nói:
- Ngả này chạy về hướng Tây, thế nào cũng phải qua trấn thành Tam Đái, chẳng khác nào đường vào trong rọ. Còn con đường này đi lên hướng Bắc, chạy vào rừng núi lên mãi tận Trung Mẫu, rồi có thể theo đường rừng đi vào Phong Châu được. Ta nên đi theo đường phía Bắc.
Điền Bạc lắc đầu:
- Đi đường ấy mới chính là vào rọ chờ chết đấy!
Thẩm Chu Bình ngẩn người, hết nhìn con đường lại nhìn Điền Bạc, tay kiệt tướng hoang mang không biết ra sao cả. Điền Bạc chậm rãi nói:
- Đường phía Tây, cái khó của nó là qua một cửa thành, nhưng nếu qua được rồi thì đủ thì giờ chạy kịp. Còn đường lên mạn Bắc tuy trống trải thật đấy, nhưng dài như thế liệu sức ta có đủ chạy được vài chục dặm nữa mà không bị quân Tam Đái truy bắt kịp hay không?
Thẩm Chu Bình vẫn còn hoang mang, Điền Bạc giảng tiếp:
- Cũng phải sáng rõ mặt người, quân thiết kỵ Tam Đái mới tới được chỗ này, lúc ấy chắc ta có thể qua được cửa trấn thành Tam Đái rồi. Mà đã qua cửa thành, là ta thoát chết, hẳn tướng quân cũng nhận rõ như thế chứ?
Thẩm Chu Bình gật đầu:
- Vâng, nếu qua được cửa thành là thoát chết, đường rút ngắn lại rồi, ta có thể chỉ vất vả một thôi đường ngắn nữa là vào đến đất Phong Châu. Nhưng... nhưng...
Điền Bạc hỏi vội:
- Nhưng làm sao?
- Ta làm sao qua cửa trấn thành cho được? Lấy đâu ra lệnh bài bây giờ mà đi? Nhất là trong lúc trời còn chưa sáng rõ như thế này.
Điền Bạc bảo:
- Ta sẽ có kế. Nhưng tướng quân có biết phải làm cách nào để cho quân thiết kỵ Tam Đái chậm mất một bước đợi ta qua thành rồi chúng mới đến được hay không?
Thẩm Chu Bình hồi hộp, tưởng rằng Điền Bạc sẽ nhờ sức mình ngăn cản quân Tam Đái, tướng Thẩm hoang mang, nhẹ lắc đầu.
Điền Bạc cười mà rằng:
- Tam Đái hẳn biết Điền Bạc là tay mưu mô, tất thế nào cũng cử thượng tướng Phúc Nghiệp Trình thúc quân đuổi theo. Tướng Phúc là người có tài, giỏi võ nghệ, tài xông pha trận mạc, y lại không phải là không có kiến thức văn học, y là người biết suy nghĩ. Thế nào khi đuổi theo ta đến đây, y cũng phân vân không biết ta đi ngả nào. Đi về hướng Tây là vào đất chết, đi về hướng Bắc đướng trống trải quang đãng không có gì ngăn cản thế nào y cũng cho là ta theo đường phía Bắc mà chạy. Y sẽ đuổi theo đường phía Bắc. Đây là cái kế “khuấy nước ở bên phải, để chộp con cá ở bên trái đây!”. Ta phải vào đường phía Tây, nhưng qua ngả đường phía Bắc.
Nghe Điền Bạc giảng kế, sắc mặt Thẩm Chu Bình và mười hai dũng sĩ tươi rói. Chợt Thẩm Chu Bình sầm mặt lại hỏi:
- Nếu Phúc Nghiệp Trình là người biết suy nghĩ, thì khi y đuổi theo đường phía Bắc không thấy dấu vết của ta, tất thế nào y cũng nghi ngờ không đuổi theo nữa, thì lúc ấy làm sao?
Điền Bạc cả cười, vỗ mạnh vai Thẩm Chu Bình:
- Giỏi! Đấy là chỗ ta làm cho Phúc Nghiệp Trình bị chậm chơn ta một bước đấy!...
Nói xong, Điền Bạc ra lệnh cho cả bọn thúc ngựa chạy nhanh vào con đường dẫn lên mạn Bắc. Đoàn ngựa lao đi hất tung bụi đường buổi ban mai chưa sáng rõ mặt người. Chạy như vậy được chừng hai chục dặm đường, vừa chạy Điền Bạc vừa bảo cả bọn thỉnh thoảng hãy bỏ lại trên đường một vài thứ, để làm bằng là đám Sứ giả Phong Châu có chạy theo đường này mà về.
Chạy thêm một đỗi nữa. Điền Bạc bảo rẽ vào đám rừng rậm bên trái con đường, len lỏi giữa rừng, gấp rút quay trở lại con đường phía Tây. Tới giữa giờ Thìn, thì cả bọn tới được con đường phía Tây. Nhìn lại, rừng trùng điệp che khuất, lắng nghe không thấy một tiếng người chỉ có tiếng chim rừng quang quác, vượn hú đứt đoạn từ trong rừng sâu vọng ra. Điền Bạc quay lại bảo:
-Thế là thoát. Có lẽ bọn ta chỉ đi khoảng mươi dặm nữa là tới trấn thành, tức là đi đường tắt ta đã vượt qua được hơn sáu mươi dặm đường? Ta còn đủ thì giờ nghỉ ngơi, cứ thư thả mà đi cũng kịp!...
Đây lại kể về đạo thiết kỵ của tướng Phúc Nghiệp Trình cướp đường đuổi theo bọn Điền Bạc. Cờ “Soái” của Sứ quân dựng đứng trên đầu tuấn mã mở đường. Tướng Phúc bận giáp trụ bằng sợi kim khí kết, ngang lưng đeo cây hổ đầu đao bản thật lớn, trên vai khoác cây cung lớn, ống tên nạp ở hai bên võ hài. Họ Phúc cưỡi con Ô Truy, trông đẹp như một vị thiên thần. Tướng Phúc rạp mình trên lưng ngựa, hay theo Soái kỳ, thúc đạo quân ra biên ải không chậm trễ chút nào. Đạo quân cứ thế mà đi, đêm hôm ấy cũng không nghỉ, đám chiến mã dường như đã có vẻ mệt mỏi, con Ô Truy của tướng Phúc mình đãm mồ hôi bỏ lại đằng sau đám thiết kỵ không đuổi kịp. Tảng sáng hôm sau, cả đạo quân tới chỗ ngã ba Hương Lai, lúc ấy bọn Điền Bạc đang trong rừng tiến vào con đường phía Tây.
Phúc Nghiệp Trình cho lệnh dừng ngựa, đám chiến mã được nghỉ chân vươn cổ hí vang cả một vùng, vó ngựa dừng lại hất tung bụi, mờ mịt cả một khoảng đất rộng, khí thế thật hùng dũng.
Phúc Nghiệp Trình cho gọi phó tướng Trần Trung Đạo tới bảo:
- Tới đây là ngã ba đường, vẫn còn vết vó ngựa bọn Điền Bạc, nay ta phải đuổi theo ngả nào?
Phó tướng Trần Trung Đạo lưỡng lự:
- Thuộc tướng cũng chưa biết phải đuổi theo đường nào.
- Theo ý ta, thì Điền Bạc là tay mưu kế, biết suy nghĩ, biết hành động tất thế nào cũng phải biết rằng đi về phía tây thì gặp phải trấn thành của ta không thể nào đi qua được. Vả lại, đường từ đây tới trấn thành không mấy xa, nếu ta đuổi thế nào cũng bắt kịp. Còn đường lên mạn Bắc thênh thang không vướng bận gì, nhưng dài lắm, chạy không thoát được vó ngựa truy kích của ta. Để xem Điền Bạc đi đường nào?
Nói xong, Phúc Nghiệp Trình ra lệnh phó tướng mang mười tên thiết kỵ binh đi xem dấu vết của bọn Điền Bạc, xem đi vào ngả nào. Phó tướng Trần Trung Đạo vâng lệnh đi ngay. Khoảng tàn miếng trầu, hết tuần trà, Phó tướng Trần Trung Đạo quay trở lại, mặt hớn hở tay trình ra vài đồ vật, trong số đó có cả mấy chiếc lông công trên cây quạt của “mưu sĩ Điền Bạc”. Phó tướng bẩm:
- Bẩm, thuộc tướng thấy vết chân ngựa của bọn Điền Bạc chạy vào con đường lên phía Bắc, dọc đường thuộc tướng còn nhặt được vài vật của bọn chúng, trong đó có cả mấy chiếc lông công trên cái quạt của Điền Bạc, thu thập về đây để trình Thượng tướng. Còn quan lộ phía Tây, tuyệt nhiên không có vó ngựa, thuộc tướng đã đi đến khoảng năm dặm đường cũng vẫn không phát giác được gì.
Phúc Nghiệp Trình gật đầu, vẻ suy nghĩ. Lát sau họ Phúc bảo:
- Lạ thật, không lẽ Điền Bạc không biết con đương này dài lắm, chạy tất không thoát! Phó tướng có ý kiến gì không?
Trần Trung Đạo bẩm:
- Theo thiển kiến, thì rõ ràng là bọn Điền Bạc chạy vào con đường này. Dấu vó ngựa còn mới lắm, chưa có sương phủ, rõ ràng là bọn Điền Bạc mãi vừa rồi mới chạy tới đây. Nay ta đuổi theo ngay, thế nào cũng bắt được.
Phúc Nghiệp Trình lắc đầu:
- Ta không tin như thế, Điền Bạc là tay mưu mô ghê lắm. Không khéo ta lại mắc kế y nữa thì hỏng to. Ta phải để ý đến việc Điền Bạc giở cái trò “đốt lửa một đường, chạy một đường” đấy.
- Nhưng con đường phía Tây không có dấu vết nào...
- Thế mới khó! Ta biết Điền Bạc lúc tới đây không phải là không suy nghĩ, thế nào y cũng có mưu gì cho mà xem...
Ngừng giây lát, Phúc Nghiệp Trình ra lệnh:
- Bây giờ ta chia làm hai ngả mà đuổi theo, là chắc nhất. Đường lên phía Bắc có dấu vết bọn chúng thì để ta đi, còn đường vào trấn thành thì nhà người nên đi. Mỗi người chúng ta đem theo một trăm quân, có thể mới chắc được.
Phó tướng Trần Trung Đạo không phải là tay không giỏi, nhưng nghĩ tới uy vũ của Truy Phong tướng Thẩm Chu Bình lại không khỏi thấy ớn ở xương sống. Nay soái tướng Phúc Nghiệp Trình chia cho một nửa quân một mình đuổi theo một ngả, lỡ gặp phải bọn Điền Bạc thì làm sao địch cho được Thẩm Chu Bình! Trong lòng liền nảy ý nghĩ, bèn thưa:
- Thượng tướng ra lệnh như vậy là hay lắm, nhưng tôi e rằng Điền Bạc không vào đường trấn thành. Vì lẽ, tới lúc này thế nào lệnh không đốt lửa cũng tới được trấn thành rồi, như vậy thì cửa ải tất đóng kín, bọn Điền Bạc mà tới có khác nào đến nộp mạng không? Điền Bạc là kẻ biết suy nghĩ, không thể không biết như vậy. Thế thì, nhất định y chạy lên mạn Bắc thật đấy, ta phải đuổi riết mới kịp!
Phúc Nghiệp Trình phân vân, lấy lý lẽ nào cũng đúng mà cũng có chỗ khôn ổn! Cuối cùng, Phúc Nghiệp Trình ra lệnh cứ theo đường lên mạn Bắc mà đuổi. Cờ Soái lại dẫn đầu, cả bọn ra roi cho ngựa gấp rút tiến bước. Càng đi, càng thấy rõ ràng dấu vết bọn Điền Bạc quả thật có qua đường này, ai nấy trong lòng phấn khởi, rạp mình trên lưng ngựa đua cùng mặt trời mà chạy. Tới gần giữa giờ Tỵ, thì nẻo lên mạn Bắc càng ngày càng hoang vu, dấu vết bọn Điền Bạc bỗng mất hút, nắng Thu man mác, phong cảnh thật tịch liêu. Chạy thêm một đỗi nữa, tuyệt nhiên không còn tí gì gọi được là có bọn Điền Bạc chạy tới đoạn đường này. Phúc Nghiệp Trình trong lòng kinh mang lắm, bèn ra lệnh dừng ngựa. Quan sát quang cảnh, Phúc Nghiệp Trình vã mồ hôi hột, vụt kêu lớn:
- Ta lại trúng kế Điền Bạc mất rồi! Y không qua đường này! Trở lại đường lên trấn thành mau! Ta chậm mất một bước rồi!
Dứt lời, Phúc Nghiệp Trình quay ngựa, ra roi như người mê hoảng, quay trở lại đường cũ hướng về ngã ba Hương Lai. Phó tướng Trần Trung Đạo đang cơn oi bức vì cuộc hành trình gấp rút, thế mà thấy xương sống lạnh toát, mặt tái nhợt như đang giữa mùa đông rét mướt. Cả bọn không ai nói một lời, thúc ngựa chạy gấp trở lại...
Lại kể đến bọn Điền Bạc, lúc ấy đã tới gần trấn thành rồi. Xa xa, trấn thành lặng lẽ trong nắng thu ban mai. Điền Bạc bảo:
- Sắp vào chốn nguy hiểm rồi, mọi người hãy sửa sang lại quần áo cho chỉnh tề, ta phải làm sao để họ không biết là mình chạy trốn mới được.
Mọi người hồi hộp, nhìn lên thành ải thấy vắng lặng, ngoài thành không có lấy một bóng người. Thẩm Chu Bình vụt nói:
- Lạ thật! Tại sao lại vắng vẻ thế này?
Điền Bạc đáp:
- Tất là họ đã nhận được lệnh không đốt lửa rồi. Nhưng ta chắc không có lệnh truy bắt bọn Điền Bạc! Tướng quân cứ chờ xem!
Dứt lời, Điền Bạc ra lệnh thúc ngựa thẳng đến cửa trấn thành. Ngựa Điền Bạc sóng đôi đầu với ngựa của tướng Thẩm Chu Bình. Tới sát thành, cầu treo đã thấy kéo lên, khoảng hào rộng ngăn cách không làm sao tới sát chân thành được. Trên thành, quân canh từ vọng lâu quát hỏi:
- Ai? Đi đâu?
Điền Bạc bảo Thẩm Chu Bình gọi to lên:
- Hỏa lệnh từ Tam Đái gửi lên, có lệnh ra quân gấp! Mau hạ cầu xuống!
Quân trấn thành còn hoang mang chưa biết việc gì, thì Điền Bạc khẽ bảo Thẩm Chu Bình hãy bắn đứt dây treo cầu. Thẩm Chu Bình không dám chậm trễ, vội lắp tên giương cung, tận lực phóng mũi tên đi, mũi tên như một lưỡi đao bén chặt đứt dây cầu, cả cây cầu treo nặng ngàn cân sập xuống long trời lở đất. Thẩm Chu Bình lại quát to lên:
- Mau mở cửa thành! Chậm việc quân trọng đại là mất đầu cả bọn!
Quá xong, giục ngựa lướt tới. Quân canh trên vọng lầu kinh hoàng khiếp sợ tài xạ tiễn của tướng lạ, lại nghe tiếng quát như sấm nổ, thì rụng rời cả tay chân, chẳng kịp bẩm trình lên quan thủ thành, vội giục nhau mở cửa thành. Thẩm Chu Bình giục ngựa chạy vào, theo sau là Điền Bạc, mười hai dũng sĩ bám sát phía sau. Thẩm Chu Bình quả không hổ là một tướng quen chiến trận nhập thành, vừa qua cửa thành đã đưa mắt kín đáo tìm xem đâu là bản doanh của tướng trấn thành, liền thúc ngựa chạy thẳng về phía ấy.
Vừa lúc đó, trống báo trên vọng lầu vang dội, tướng trấn thành nghe tiếng trống vội mặc giáp lên ngựa. Ngựa vừa ra khỏi cửa bản doanh, tướng trấn thành đụng đầu ngay với Thẩm Chu Bình. Họ Thẩm dạt ngựa sang một bên nhường đường lối cho ngựa của Điền Bạc xốc tới. Điền Bạc ung dung cất tiếng:
- Tại hạ là sứ giả của Phong Châu, vừa từ Tam Đái vâng lệnh Sứ quân Thái Bình gấp lên ải quan gặp tướng quân. Tướng quân đã được lệnh gì chưa?
Tướng trấn thành tên gọi Nguyễn Dụng, dững lực có thừa, nhưng cơ trí thì lại nông cạn, nay nghe Điền Bạc xưng là Sứ giả Phong Châu lại nhiệm mệnh Sứ quân Tam Đái gấp rút mang lệnh lên quan ải, thì vừa lạ lùng, vừa hoang mang chẳng hiểu gì cả, liền vội vàng vòng tay bái rồi kính cẩn đáp:
- Tại hạ trấn ở nơi xa xôi này, chỉ mới nhận được lệnh không đốt lửa. Nhưng đêm qua lửa đã đốt rồi. Nay có lệnh mới, tại hạ chưa được biết!
Tướng trấn thành hết lời mời bọn Điền Bạc vào bản doanh, nài nỉ để được đãi đằng. Nguyễn Dụng nghĩ rằng: “Sứ giả Phong Châu, tất không phải là hạng vô danh tiểu tốt, nay lại nhiệm mệnh Sứ quân Tam Đái ra biên ải gấp, thì phải tiếp đón cho nồng hậu, đừng để có gì sơ xuất hối hận về sau!”. Nghĩ thế, liền cố sức mời cả bọn vào bản doanh để được “tạ cái lỗi không biết đại nhân tới, để mở rộng cửa thành đón rước cho đúng phép!”. Điền Bạc được thể, lại cứ xin lỗi mãi về hành vi đường đột, bắn đứt dây treo cầu, nhập thành cấp bách quá không kịp đợi lệnh của tướng trấn thành!
Nguyễn Dụng thét quân mở tiệc đãi sứ giả, Điền Bạc trong bụng như có lửa đốt, mấy phen từ chối không được, vì Nguyễn Dụng khẩn khoản quá, đành phải nhận lời nhưng nói rằng:
- Nay tôi mang lệnh của Sứ quân lên quan ải cho tướng quân, xong lại phải đi gấp mới kịp, nếu yến tiệc nhiều quá e trễ nải, làm hỏng việc lớn thì đầu bọn ta chắc chẳng còn vững được!...
Nguyễn Dụng thưa:
- Dạ phải, tại hạ chẳng dám mở đại tiệc để được hầu tiếp ngài, chỉ dám xin được một lần hầu ngài chén rượu nhạt để lưu tình mà thôi.
Điền Bạc bảo:
- Tôi vâng lệnh Sứ quân Thái Bình, gấp rút lên cho tướng quân hay là phải chuẩn bị đầy đủ, thành trì phải canh gác nghiêm ngặt, đợi quân của Tam Đái đến tiếp viện phòng giữ...
Vừa nói, Điền Bạc vừa cởi bọc lấy ra lưỡi dao bạc, cán sừng tê giác, vốn là vật hộ thân của Sứ quân Nguyễn Khoan ai cũng biết. Nguyễn Khoan đem con dao bạc chuôi sừng tê giác ấy để tạ lòng tri kỷ của sứ quân Phong Châu. Nay Điền Bạc đem con dao ấy ra cho Nguyễn Dụng xem, rồi bảo:
- Tôi mang lệnh Sứ quân, ngài giao cho cây bảo đao này làm lệnh phát lạc, bảo phải gấp rút lên quan ải...
Nguyễn Dụng thấy con dao, quả nhiên là vật hộ thân của Sứ quân Nguyễn Khoan, trong lòng tin chắc là Điền Bạc mang lệnh của Sứ quân thật, liền trịnh trọng đứng dậy vái một vái mà nói:
- Tiểu tướng xin được nghe lệnh của Sứ quân!
Điền Bạc ung dung cất con dao vào đẫy, khoan thai nói:
- Sứ quân bảo tôi mang lệnh tới đây, truyền cho tướng quân phải gìn giữ thành cho cẩn mật, đợi quân tiếp viện cũng sắp tới nơi rồi. Sau đấy, phải đóng chặt cửa thành, xét hỏi người qua lại cho nghiêm ngặt, đợi lệnh của Sứ quân sẽ gửi lên sau. Còn tôi, sau khi truyền lệnh của Sứ quân cho tướng quân rồi, lại phải gấp rút trở về Phong Châu đưa lời ngài lên Sứ quân Phong Châu, hẹn tập binh ứng chiến, Phong Châu Tam Đái liên minh xuất trận chống Cổ Loa. Nếu tôi đi chậm, e rằng việc liên minh Phong Châu Tam Đái bị sai lạc, giả sử Cổ Loa ra quân mà ta không trở tay kịp, có phải là làm hỏng cả việc lớn hay không!
Nguyễn Dụng vẫn kính cẩn đứng nghe, mồ hôi lấm tấm trên trán, biết rằng việc này quả thật quan trọng. Vừa lúc ấy, tiệc cũng dọn xong, quân vào bẩm trình cho Nguyễn Dụng biết. Nguyễn Dụng cố cười tươi:
- Thưa ngài, tôi xin vâng lệnh chúa tôi mà hành động... Thật chẳng dám làm chậm trễ việc lớn, giữ chân ngài ở lại đây lâu. Thật là tiếc quá! Vậy xin mời ngài cùng các vị dùng chén rượu nhạt rồi lại lên đường, tiểu tướng không dám nài nỉ nữa!
Bọn Điền Bạc vào tiệc, uống vội vài hớp, ăn vội vài miếng; chuyện trò dăm câu, rồi cáo từ để lại lên đường. Tướng trấn thành Nguyễn Dụng không dám mời mọc thêm vội sai quân mở rộng cửa thành phía Bắc, rồi đích thân lên ngựa đưa quân tiễn bọn Điền Bạc ra khỏi thành, lúc ấy bắt đầu bước vào tàn Ngọ.
Trước khi chia tay, Điền Bạc còn ân cần dặn Nguyễn Dụng:
- Tướng quân khá quan tâm việc lớn trong lúc này, đừng bê trễ việc tuần canh, đợi quân tiếp viện đến rồi cùng trấn giữ. Tướng quân nên dọn sẵn đại tiệc, đợi thiết đại tướng Phúc Nghiệp Trình chắc chiều hôm nay cũng tới được đây rồi đấy. Quân của Thượng tướng Phúc Nghiệp Trình đi gấp rút lắm! Chắc mỏi mệt đấy, tướng quân liệu mà đãi đằng nhé!
Nguyễn Dụng hai ba lần cảm ơn Điền Bạc chỉ vẽ cho, rồi chia tay nhau.
Điền Bạc ra lệnh cho cả bọn mau mau nhắm hướng Bắc tiến bước. Nguyễn Dụng thu quân vào thành, truyền mở đại tiệc đợi đón bọn Thượng tướng Phúc Nghiệp Trình. Nguyễn Dụng lại sai gấp rút sửa lại dây cầu, đóng chặt cửa thành, cắt quân canh gác thật cẩn mật, để lát nữa thượng tướng tới tất không có chỗ sơ hở để bị khiển trách. Nguyễn Dụng bồn chồn, đợi chờ đón rước Thượng tướng kề cận Sứ quân sắp tới thành biên trấn này!
Đây lại nói đến bọn Phúc Nghiệp Trình, khi biết mắc mưu Điền Bạc, vội quay ngựa trở lại, ngựa phi không còn kể thời gian, gấp rút không nghỉ. May mà bầy ngựa toàn là chiến mã thượng thặng, nên mới đủ sức theo đuổi cuộc hành trình dài vất vả như vậy. Mãi đến cuối giờ Mùi, sang đầu giờ Thân, quân của tướng Phúc Nghiệp Trình mới tới được trấn thành. Bên ngoài, cầu treo rút cao, trên thành quân canh cẩn mật. Tướng Phúc Nghiệp Trình dừng ngựa lớn tiếng gọi:
- Mau mau mở cửa thành!
Trên thành nổi trống hiệu, tướng trấn thành Nguyễn Dụng nhung phục đầy đủ xuất hiện, hỏi xem quân nào tới. Nguyễn Dụng làm ra vẻ canh gác đúng phép, giữ thành có quy củ lắm. Dưới thành, Phúc Nghiệp Trình ruột nóng như lửa đốt, một hai chỉ quát hỏi mở cửa thành gấp!
Vừa vào thành, Phúc Nghiệp Trình đã vội hỏi Nguyễn Dụng:
- Bọn Điền Bạc đã qua đây chưa?
Nguyễn Dụng cười thật tươi:
- Sứ giả Phong Châu qua đây rồi. Tiểu tướng đã nhận lệnh của Sứ quân, cũng đã dọn xong tiệc để đón mừng Thượng tướng...
Phúc Nghiệp Trình giật bắn mình:
- Lệnh nào của Sứ quân? Bọn Điền Bạc đi đã lâu chưa?
Nguyễn Dụng thấy khí sắc của Phúc Nghiệp Trình, bỗng chột dạ, liền nghiêm trang:
- Bẩm, bọn Điền Bạc xuất thành khoảng tàn Ngọ, tiểu tướng đã thay ngài đãi đằng Sứ giả Phong Châu đầy đủ cả...
Mới nghe tới đây, Phúc Nghiệp Trình vụt kêu lên:
- Ta lại mắc mưu Điền Bạc nữa rồi! Giận quá! Giận quá!
Nguyễn Dụng cả kinh không dám hó hé một lời. Phúc Nghiệp Trình bần thần cầm cương Ô Truy, không biết phải làm sao bây giờ?
Nguyễn Dụng sau khi biết chuyện, không khỏi kinh hãi, năm lần bảy lượt nhận lỗi về mình. Phúc Nghiệp Trình phải an ủi rằng:
- Không phải đâu, Điền Bạc là kẻ mưu mẹo ghê lắm, nhà ngươi không phải là người đối địch với y được. Ta cũng bị lừa y lừa cho chạy suýt nữa thì long cả gân chiến mã đây này!
Rồi truyền cho đạo quân mau mau cho ngựa ăn, rồi mọi người ăn uống qua loa cho lại sức, đoạn lại tiếp tục truy nã Điền Bạc. Phúc Nghiệp Trình bảo:
- Bọn Điền Bạc đi trước ta cũng khá lâu, nhưng chiễn mã của ta thừa sức đuổi theo mấy con ngựa của gã, phải nhanh lên ta mới kịp đấy!
Rồi cửa thành lại mở rộng, quân Thiết kỵ của tướng Phúc Nghiệp Trình lại ào ào nhằm hướng Bắc đuổi gấp. Tới xế chiều lúc trời sẫm tối, quân thiết kỵ của tướng Phúc đã bắt gần kịp bọn Điền Bạc.
Lúc ấy, bọn Điền Bạc ra sức quất roi, giục ngựa mau mau chạy trốn. Nhìn lên phía trước, rừng rậm im lìm như đợi đón, phía sau lưng bụi vẩn mờ rừng, rõ ràng là quân thiết kỵ của Tam Đái đuổi bắt kịp đến nơi rồi! Mười hai dũng sĩ Phong Châu kinh hãi, tướng Thẩm Chu Bình cũng không khỏi rụng rời, duy có Điền Bạc là vẫn ung dung giục ngựa.
Chạy được một thôi nữa, quân của tướng Phúc đuổi nom đã rõ hình người, tiếng vó ngựa khua nghe ào ào như thác chảy mạnh. Điền Bạc lúc ấy mới lên tiếng:
- Các dũng sĩ cứ bình tĩnh mà chạy. Tướng Thẩm hãy đi ở đoạn cuối, đợi đến lúc vừa tầm tay thì bắn chặn không cho địch vượt lên. Ta chỉ cần vượt rừng Đại Lữ là đến lạch Tam Phong, qua cầu là có quân cứu viện đón ta rồi.
Bọn Điền Bạc gấp rút tiến vào khu rừng, bóng chiều tối mờ giúp cho cuộc chạy trốn thật quý hóa. Phía sau lưng, quân Tam Đái dàn thành hàng ngang ra sức đuổi theo, tiếng vó ngựa nghe rõ mồn một. Được một thôi nữa, nghe có tiếng tướng Phúc Nghiệp Trình gọi to lên, bảo bọn Điền Bạc “Đừng chạy nữa!”. Tiếng gọi của tướng Phúc Nghiệp Trình nghe như trống đồng rộn rã, Điền Bạc không khỏi kinh hãi cái sức mạnh của viên tướng dũng mãnh này.
Ngựa Thẩm Chu Bình lơi vó, chạy chậm lại ngăn phía sau bọn Điền Bạc.
Xa xa, Thẩm Chu Bình đã nhìn rõ chỏm mũ của tướng Phúc, liền kín đáo rút tên giương cung, mình vẫn rạp trên lưng ngựa không quay lại, đợi chờ thêm lát nữa đúng lúc ngựa Ô Truy của tướng Phúc vừa tới ven rừng, liền bất thần ngồi nhỏm dậy, quay mình trở lại vươn tay kéo thẳng dây cung phóng mũi tên đi. Mũi tên xé gió, như một vệt khói đen mờ, ghim đúng chỏm mũ của tướng Phúc Nghiệp Trình. Ngựa tướng Phúc đang ngon trớn, bất thần bị ghìm kinh hồn, vừa thấy đằng xa Thẩm Chu Bình vặn mình quay lại tay giương cung, chưa kịp tránh thì mũi tên đã ghim đứng chỏm mũ. Phúc Nghiệp Trình sợ tài cung tiễn của Thẩm Chu Bình, mồ hôi toát ướt cả áo giáp. Phát thần tiễn ấy, Thẩm Chu Bình nếu muốn lấy tính mệnh Phúc Nghiệp Trình thì chắc đã xong rồi.
Phúc Nghiệp Trình thẫn thờ, liền truyền cho mọi người phải thận trọng mà đuổi theo, kẻo lại bị chết về tên của tướng Phong Châu. Thế là vó ngựa truy kích của Tam Đái chậm lại, bọn Điền Bạc phấn khởi giục ngựa băng rừng chạy gấp.
Rừng Đại Lữ không rộng, chỉ chạy khoảng giập miếng trầu là đã ra khỏi rừng, quay lại phía sau vẫn thấy quân Tam Đái bám riết theo, tình thế mười phần nguy kịch. Tướng Thẩm Chu Bình lại chậm ngựa chặn hậu. Mười hai dũng sĩ chia ngựa bao quanh Điền Bạc để che chở. Bây giờ, là khoảng rừng cỏ hoang cao chạm bụng ngựa, tuyệt không có một cây to nào. Xa xa, mới lại thấy có bóng rừng sậm màu trên nền trời chiều bắt đầu tối.
Bọn Điền Bạc rẽ cỏ mà chạy, phía sau quân Tam Đái đuổi theo càng gần. Tướng Phúc Nghiệp Trình liền ra lệnh cho hai trăm thiết kỵ gấp rút đuổi theo, dàn thành hàng ngang rồi hai đầu vượt lên thành vòng cung bao vây lấy bọn Điền Bạc. Thẩm Chu Bình lại phải ra tay thần tiễn, tên bắn đi như xé gió, cũng có phần nào cản bước quân Tam Đái được đôi chút. Phúc Nghiệp Trình một mặt truyền hai trăm quân cùng nhau gọi to lên, bảo bọn Điền Bạc hãy mau mau xuống ngựa đầu hàng đừng chạy nữa, một mặt cũng dùng cung tên bắn theo rào rào. Tiếng gọi nghe như đã sát bên tai, tên của hai trăm quân Tam Đái bắn tới rơi lủa tủa, có mũi đụng cả vào vai áo Điền Bạc nhưng vừa hết đà nên Điền Bạc không bị trúng thương.
Giữa cơn cấp bách, Điền Bạc chợt hô lên:
- Mau lên cả cầu Tam Phong, ông Thẩm đi sau cùng, rồi phá cầu đi nhé!
Trước mặt, là lạch Tam Phong rộng ước khoảng vài trượng, đang mùa nước lớn gặp lúc triều lên dòng nước bạc rõ ràng giữa vùng rừng cỏ hoang, xa xa là cả khu rừng đen sẫm. Cầu Tam Phong dâng cao trên con lạch, trông rõ mồn một. Cả bọn thục ngựa chạy lên cầu. Cây cầu tre ghép ván gỗ rung rinh dưới vó ngựa chạy trốn.
Phía sau, quân Tam Đái cũng vừa tới sát cầu, Thẩm Chu Bình xạ tiễn không ngừng tay khiến cho không một ai có thể thúc ngựa lên cầu đuổi theo được. Tướng Phúc Nghiệp Trình tức lồng lộn, phát quân một nửa băng theo lạch nước đuổi theo, một nửa rút khí giới để cản tên nhất định xông lên cầu đuổi theo bọn Điền Bạc.
Bọn Điền Bạc đã chạy được quá nửa đầu, sau lưng chưa một tên quân nào của Tam Đái lên được cầu, dưới nước, ngựa thiết kỵ đang lõm bõm dò đường.
Vừa lúc ấy, ở mé rừng xa xa, ánh hồng phựt cháy, rồi có tiếng quân reo ngựa hí rầm rầm chạy lại. Điền Bạc hô lên:
- Quân Phong Châu tiếp viện đã tới rồi!
Đoạn cả bọn rạp mình thúc ngựa băng qua cầu. Đằng sau, tướng Phúc Nghiệp Trình vừa thấy lửa cháy, lại có tiếng quân reo ngựa hí, biết là có viện binh của Phong Châu tới, chưa biết ít ra sao, nhưng thấy tình thế không lợi bèn hô quân dừng bước, chấn chỉnh hàng ngũ đợi ứng chiến.
Lúc ấy, Điền Bạc cũng vừa qua cầu, quân Phong Châu cũng vừa ập tới, đi đầu lại Đại tướng Đặng Nhất Hùng oai dũng vô cùng, theo sau là quân thiết kỵ kéo ra đen nghịt. Cũng vừa lúc ấy, Thẩm Chu Bình còn ở quá giữa cây cầu, liền rút gươm xuống ngựa, ra tay chặt chân cầu, phá hủy từng đoạn một. Cầu gãy chân, nước lạch cuốn băng đi, thế là cây cầu yếu ớt sắp đổ vì vó ngựa bọn Điền Bạc chạy trống giày xéo, nay được dịp sụm xuống, nửa cầu phía bên Tam Đái theo dòng nước trôi đi. Thẩm Chu Bình chạy bộ theo ngựa mà qua cầu.
Đứng bên này, tướng Phúc Nghiệp Trình giận điên lên, nhưng không còn cách nào đuổi theo được nữa, vả lại quân cứu viện của Phong Châu đông quá dù có sang được chắc cũng bại vong mà về mất. Bên kia lạch, Điền Bạc lại bảo ba quân cùng hợp sức hô to lên:
- Cám ơn Sứ quân Tam Đái cho tướng Phúc Nghiệp Trình đưa tiễn trọng hậu!
Tiếng quân Phong Châu hô vang dội cả rừng chiều khiến Phúc Nghiệp Trình uất hận suýt nghẹn thở! Tướng Phúc bần thần, nghĩ đến tình cảnh tiến không xong, mà lui thì phục mệnh Sứ quân thế nào đây? Lại nhớ đến phát tên thần diệu, nếu Thẩm Chu Bình không có ý lưu tình, thì chắc mũi tên ấy không ghim vào chỏm mũ mà đã ghim vào đúng yết hầu mình rồi cũng nên! Phúc Nghiệp Trình cảm khái vô hạn, trong lòng không khỏi bồi hồi cảm mến tướng họ Thẩm. Lát sau, Phúc Nghiệp Trình đành ra lệnh trở lại trấn thành. Bên kia lạch, Điền Bạc vui mừng hội kiến Đại tướng Đặng Nhất Hùng. Tướng Đặng xuống ngựa vòng tay:
- Tại hạ được lệnh Chúa công, bảo đem quân phục sẵn, đợi khi thấy lửa cháy ở Ba Hạc thì phải sẵn sàng tiếp cứu Đại nhân. Đợi mãi đến bây giờ mới thấy Ngài về!
Điền Bạc hân hoan đáp lễ Trung Hỏa Tướng, rồi quay sang Thẩm Chu Bình bảo rằng:
- May nhờ có Tướng quân cả bọn mới thoát chết giữa rừng gươm giáo của Tam Đái mà về được đây đấy! Rồi nếu Đại tướng Đặng đây không đem quân cứu kịp, thì bọn ta có thể khổ với Tam Đái! Bây giờ lại phải phiền Tướng quân một việc nữa mới xong... Thẩm Chu Bình vội đáp:
- Tiểu tướng không dám nhận lời khen của Ngài, chỉ xin nghe lệnh mới!
Điền Bạc cười vui vẻ; Trung Hỏa Tướng Đặng Nhất Hùng cũng không kém phần cao hứng. Điền Bạc đưa mắt nhìn cây cầu Tam Phong gãy già nửa, con lạch chảy mất hút vào rừng cỏ hoang bây giờ đã tối mịt, bất giác thở dài một tiếng. Giây lâu, quay sang Thẩm Chu Bình, hai mắt Điền Bạc lim dim dưới ánh đuốc rực trời, nhìn viên dũng tướng giáp trụ còn bám đầy bụi đất nhưng gương mặt thật dũng mãnh đẹp như thiên thần, rồi gật gù...
Muốn biết Điền Bạc sẽ lại thành công những gì, xin xem hồi sau sẽ rõ.
—ooOoo—