Hồi Thứ Chín Đường ra biên ải, Thẩm Chu Bình gặp tướng Cổ Loa
Xua quân phạt Bắc, Nguyễn Khoan bỏ lỡ thế môi răng
Điền Bạc tủm tỉm cười, hỏi Thẩm Chu Bình:
- Phát tên lưu tình của Tướng quân đẹp lắm, rõ thật “anh hùng gặp anh hùng”, phải không tướng quân?
Thẩm Chu Bình không biết đáp sao, vẻ ngượng ngập.
Trung Hỏa Tướng hăm hở:
- Phát tên lưu tình gì thế?
Điền Bạc mỉm cười, thuật lại cuộc chạy trốn thật gay go. Trung Hỏa Tướng hỏi thêm:
- Tôi không hiểu tại sao Chúa công lại biết khi có lửa cháy thì Ngài về đến đây mà sai tôi đón đợi? Tôi đợi suốt đêm hôm qua, mãi đến bây giờ mới thấy lời Chúa công sai bảo là đúng.
Điền Bạc bảo:
- Trước khi đi, tôi định kế xong có trình Chúa công cả rồi, tôi có dặn Chúa công là “khi nào thấy lửa cháy, tức là kế li gián phá nát Tam Đái” đã thành, tôi phải bỏ chạy, mà chắc thế nào Tam Đái cũng đuổi theo giết tôi, vậy mong Chúa công cho quân ra khoảng cầu Tam Phong bên này lãnh thổ của ta mà cứ đợi đấy...
Trung Hỏa Tướng “À!” một tiếng, đoạn đưa mắt nhìn cây cầu gãy. Trời tối mịt, rừng cỏ xào xạc, vẳng đằng xa có tiếng vó ngựa triệt hồi của bọn Phúc Nghiệp Trình.
Điền Bạc bỗng nói:
- Này ông Thẩm, về đến trấn thành Tam Đái, thế nào Phúc Nghiệp Trình cũng uất hận bọn ta lắm. Họ Phúc là người biết suy nghĩ, nay vâng lệnh Sứ quân Nguyễn Khoan đuổi bắt bọn ta không xong, thế nào y cũng buồn bực nên bị chậm bước, không kịp đưa quân ra Đông ải xem xét việc tướng Lâm Huy Chung tuần phòng như thế nào đâu. Khoảng ngày mai, thế nào y cũng đem quân ra đi, nay phải phiền Tướng quân suốt đêm nay gấp rút ra Đông ải, gặp cho kỳ được Lâm Huy Chung mới được...
Trung Hỏa Tướng vội xem lời:
- Ông Thẩm mệt nhọc lắm rồi, để ông ấy được nghỉ một chút, tôi xin thay thế ông Thẩm ra Đông ải có được không?
Điền Bạc bảo:
- Ông nói cũng phải, nhưng từ đây Tam Đái Phong Châu kết thù, can qua xảy ra lúc nào không biết. Vắng ông thì Phong Châu làm sao mà yên lòng cho được! Vả lại, việc ra Đông ải tuy có xa xôi vất vả, nhưng thật ra không mấy khó khăn đâu. Ông nên nhường để ông Thẩm đi một chuyến nữa nhé, lo gì trong mai mốt chẳng phải cậy nhờ ông nhiều nào!
Trung Hỏa Tướng đành cho là phải. Điền Bạc mở đầy, lấy con dao bạc chuôi sừng tê giác của Sứ quân Nguyễn Khoan, lại lấy pho tượng đất nung hình con rồng phun kiếm báu quẫy lộn trên sóng nước vốn là ấn lệnh của Tướng Thủy Thượng Giao Long Cao Duy Hưng trao tặng ngày hôm nọ, đưa dao và tượng ấn cho họ Thẩm, xong trịnh trọng ghé tai họ Thẩm thì thầm hồi lâu, đoạn hỏi lại:
- Ông nhớ kĩ cả rồi chứ? Cứ vậy mà làm, đừng quên chỗ nào nhé!
Thẩm Chu Bình sắc mặt có vẻ bồi hồi cảm động, ánh đuốc rung rinh theo gió thu chiếu ánh sáng khi tỏ khi mờ lên khuôn mặt viên dùng tướng thâm trầm hành động đầy thận trọng này, trông họ Thẩm thật đẹp. Điền Bạc bảo đoàn tùy tùng hãy nghỉ giây lát, để cho họ Thẩm ăn tạm bữa và chọn mười hai dũng sĩ khác để ngay đêm nay lên đường ra Đông ải.
Trăng lên cao, cũng là lúc Thẩm Chu Bình chia tay bọn Điền Bạc, đem mười hai dũng sĩ cứ hướng Đông tiến tới, phút chốc đã mất hút trong rừng tối đen. Điền Bạc sóng đầu ngựa với ngựa Trung Hỏa Tướng, bần thần hồi lâu rồi bảo:
- Thôi, bọn ta về đi thôi!
Đây lại nói đến bọn Phúc Nghiệp Trình lặng lẽ quay ngựa trở về, ai cũng mệt và buồn lắm. Về đến thành, Nguyễn Dụng rước vào doang mở tiệc khoản đãi, thấy Phúc Nghiệp Trình lặng lẽ không nói thì cũng sợ không dám bày vẽ mời mọc gì nhiều. Tinh mơ hôm sau, Phúc Nghiệp Trình đã gọi phó Tướng dậy, bảo rằng:
- Việc đuổi bắt bọn Điền Bạc không xong rồi, Điền Bạc quả là tay gian hùng đáng sợ thật! Bây giờ, không biết y về đến Phong Châu sẽ giở những trò gì ra nữa đây? Sứ quân có dặn: Đuổi xong bọn Điền Bạc, một mặt cho giải y về Tam Đái, một mặt phải ra Đông ải giúp tướng Lâm Huy Chung sửa sang lại việc tuần phòng, e rằng Phong Châu lén lút hành động, hoặc có thể giao kết với Cổ Loa đánh úp ta chăng. Vậy phải cho lệnh quân sửa soạn lên đường ngay mới được.
Phó tướng tuân lệnh, truyền cho hai trăm thiết kỵ sửa soạn đợi lệnh xuất phát.
Phúc Nghiệp Trình lại cho quân đi mời tướng Trấn Thành đến bảo:
- Tận mắt ông đã thấy Điền Bạc ung dung mà đến, lại ung dung mà đi, bọn ta bất tài để y lừa mãi, tất có tội với Sứ quân. Nay tôi phải ra Đông ải xem xét việc quân, ông hãy giữ gìn thành quách cho cẩn mật, e rằng Phong Châu xua quân xâm phạm đất đai ta thì phiền đấy. Tôi về phục mệnh Sứ quân sẽ cố gỡ rắc rối cho ông...
Tướng Trấn Thành vừa sợ vừa mừng, hai ba phen cảm tạ mãi Phúc Nghiệp Trình, rồi truyền mở cửa Đông để quân của Phúc Nghiệp Trình kéo ra.
Sau, ra lệnh đóng chặt cửa thành, vét hào cho sâu, quân lau lại khí giới, ngày đêm canh gác không rời mắt về phía Bắc để phòng quân Phong Châu.
Thẩm Chu Bình mang mười hai dũng sĩ, suốt đêm băng rừng mà chạy, tảng sáng đã đi được vài dặm đường rừng, bây giờ hướng về phía mặt trời mọc tìm đến quan lộ mà đi. Nắng lên cao, đường ra biên ải đìu hiu, quạnh quẽ, vừa ra khỏi rừng, sực thấy xa xa bụi mờ, vội truyền cả bọn dừng ngựa, lại vòng chân núi mà chạy, sực thấy xa xa bụi mờ, vội truyền cả bọn dừng ngựa, lại vòng chân núi mà chạy, hết sức thận trọng không để lộ tung tích. Đi được một thôi nữa, bụi mờ phía trước càng rõ, lại có tiếng vó ngựa rầm rập, loáng thoáng có cờ xí. Thẩm Chu Bình truyền mười hai dũng sĩ xuống ngựa, đem ngựa giấu kín vào hốc núi, rồi đi bộ lên núi rình xem quân nào đang trẩy trên quan lộ.
Trên cao, Thẩm Chu Bình nhìn rõ cánh quân trên quan lộ động nghẹt, đi đầu là cờ soái mang hiệu thành Cổ Loa thì trong lòng cả kinh. Họ Thẩm không hiểu binh Cổ Loa tiến về phía Tây như thế này là có ý xâm phạm Phong Châu hay Tam Đái. Họ Thẩm trong lòng bối rối lắm, nghĩ rằng: “Giả sử bây giờ có Điền Bạc thì yên lòng biết mấy!”. Nhìn xuống phía dưới, quan lộ vòng vèo chạy giữa những khoảng rừng, ven núi, quân Cổ Loa đi không có vẻ gì là vội vàng cả.
Thẩm Chu Bình hoang mang, không biết nên trở lại cấp báo cho Phong Châu biết việc này, hay nên tiếp tục đường ra Đông ải. Trở lại Phong Châu, tất lỡ việc Điền Bạc ủy thác đi gặp Lâm Huy Chung, nhưng lại có lợi là kịp báo việc hệ trọng: “quân Cổ Loa Tây tiến”. Thẩm Chu Bình chưa biết quyết định ra sao, lại thấy phía dưới quân Cổ Loa đi hết khúc đường thẳng, bắt đầu vào khoảng đường cong ven chân núi, dừng bước như có vẻ muốn hạ trại. Thẩm Chu Bình nghĩ rằng: “Quân Cổ Loa mà đóng ở đây, thì nếu tướng Phúc Nghiệp Trình có ra Đông ải thanh tra việc quân đúng như lời quân sư Điền Bạc bảo, tất thế nào cũng bị nghẽn lối, như thế là họ Phúc không liên lạc được với Lâm Huy Chung, ta cứ đợi ở đây, không lo mạn Đông nữa, chỉ chờ xem động tĩnh thế nào là có thể biết chắc được phải làm sao”. Nghĩ xong Thẩm Chu Bình ra lệnh cho mười hai dũng sĩ nghỉ chân, đem lương khô ra ăn, lặng lẽ đợi xem sự thể.
Bên dưới, quả nhiên quân Cổ Loa cũng dừng ngựa nghỉ chân, nhưng không đóng trại, rõ ràng là quân triều đình không ở lại chỗ này lâu.
Tới gần giữa trưa, mặt trời sắp đứng bóng, sực phía Tây có lớp bụi vẩn ở mãi xa xa. Thẩm Chu Bình đứng trên cao xem xét trong lòng bỗng hồi hộp lắm. Đây đúng là cánh quân của tướng Tam Đái Phúc Nghiệp Trình đang rong ruổi theo quan lộ ra Đông ải. Nếu không có gì ngăn trở, thì cách quân của tướng Phúc đi chậm hơn bọn Thẩm Chu Bình quá nửa ngày trời, nhưng chắc đến khoảng đường này thế nào cũng có thịnh sự xảy ra.
Thẩm Chu Bình truyền lệnh mười hai dũng sĩ chuẩn bị đợi xem hai cánh quân giáp chiến ra sao, rồi sẽ lên đường gấp.
Bóng mặt trời bắt đầu ngả về Tây, thì toán tiền quân của Tam Đái đã nhận ra trước mặt có địch đóng quân, liền cũng dựa vào ven núi giàn thành thế trận. Phía Cổ Loa, người ngựa rục rịch, đâu đấy sẵn sàng cả. Chiến địa im lặng, đôi bên dò xét lẫn nhau. Trên cao, Thẩm Chu Bình cùng mười hai dũng sĩ hồi hộp theo dõi đôi bên, loáng thoáng thấy bóng quân tế tác của Cổ Loa lẫn Tam Đái lần theo rừng, men theo núi đi dò xét địch tình.
Thẩm Chu Bình thấy phía Tam Đái quân ít hơn Cổ Loa nhiều lắm, nếu giáp chiến tất không thể thủ thắng được, nhưng có cái may là Cổ Loa không biết địch nhiều ít ra sao, tướng nào cầm quân, nên cũng không dám sơ xuất thúc quân nhập chiến. Đôi bên cầm cự nhau đến gần xế chiều vẫn không bên nào dám tiến quân.
Thẩm Chu Bình nghĩ: “Nếu cứ ở đây đợi hai bên đánh nhau mà xem thì chẳng được ích gì. Chỉ bằng vượt đường núi ra phía sau cánh quân Cổ Loa, gấp rút ra Đông ải gặp Lâm Huy Chung là hơn. Đằng sau, đã có quân Cổ Loa chặn hộ đường tiến của tướng Phúc, phía trước mặt quân Cổ Loa lại có quân của tướng Phúc cản, thế là cả hai đạo quân đều giúp ích cho mình, phải gấp rút mà đi mới được”.
Nghĩ rồi, Thẩm Chu Bình liền bảo mười hai dũng sĩ thật thận trọng đi lấy ngựa, dắt theo đường núi đi vòng sang phía bên kia, sau mới xuống núi đi men theo quan lộ. Cả bọn chạy đến xẩm tối, lâu lâu quay đầu nhìn lại phía sau, vẫn không thấy có bụi vẩn lên cao, rõ ràng là hai đội quân Cổ Loa Tam Đái vẫn chưa giao chiến, liền phấn khởi giục ngựa đi gấp.
Nửa đêm hôm ấy tới được Đông doanh. Quân vào báo, tướng Lâm Huy Chung ngạc nhiên lắm, nghĩ rằng: “Tại sao nửa đêm lại có người lạ đến tìm ta thế này?”. Liền truyền đưa khách lạ vào Doanh.
Lâm Huy Chung là hổ tướng nơi chiến trường, nhưng lại là người nhu nhược, không có đầu óc suy nghĩ, hay để những tình cảm không đâu chi phối, vì thế có lần họ Lâm suýt mất mạng vì chuyện nơi chốn phòng the. Nay nghe quân báo có khách lạ nửa đêm xin gặp, không biết suy nghĩ gì cả, cho mời vào ngay.
Thẩm Chu Bình để mười hai dũng sĩ ở ngoài, một mình theo quân hầu vào hổ tướng. Vừa gặp Lâm Huy Chung, Thẩm Chu Bình vòng tay vái dài nói:
- Hạ tướng từ xa gấp rút tới đây, mình bận áo giáp không hành trọng lễ được, dám mong Đại tướng miễn thứ.
Lâm Huy Chung càng ngạc nhiên, tại sao lại là một tướng ở xa tới, tướng này vóc dáng hiên ngang, mặt đẹp rắn rỏi, rõ ràng không phải là tướng dưới trướng Sứ quân Nguyễn Thái Bình rồi. Lâm Huy Chung liền đáp:
- Không dám, không dám! Tướng quân từ đâu lại? Có việc gì hệ trọng nửa đêm đến chỉ báo cho tôi đây?
Thẩm Chu Bình không vội nói, thò tay vào bọc lấy ra con dao lưỡi bạc chuôi sừng tê, đưa ra hỏi Lâm Huy Chung:
- Dám bẩm Đại tướng, ngài có biết vật này là gì, của ai không?
Lâm Huy Chung đỡ lấy con dao xem xét, hiển nhiên đây là khí giới hộ thân của chủ mình, liền bảo:
- Đây là cây Hàng Yêu Đao của Sứ quân Nguyễn Thái Bình chủ tôi. Tại sao tướng quân lại có thế này?
Thẩm Chu Bình nghiêm trang chưa vội đáp, lấy thêm tượng ấn đất nung ra đưa nốt cho Lâm Huy Chung, rồi lại hỏi:
- Dám bẩm Đại tướng, Ngài có biết vật này là gì, của ai không?
Lâm Huy Chung đỡ lấy tượng ấn, miệng nói ngay:
- Đây là Soái ấn của Thủy Thượng Giao Long của Trấn Giang Tướng Cao Duy Hưng đây mà, lạ thật, lạ thật! Thế là thế nào?
Lúc ấy, Thẩm Chu Bình mới ung dung đáp:
- Tôi phái vượt đường xa, ngày đêm không nghĩ để đến được đây, cũng chỉ vì hai vật nghiêm trọng này đấy!
Lâm Huy Chung ngắt lời:
- Tướng quân nói mau đi! Có việc gì hệ trọng thế?
- Đại tướng xin khoan khoan, tiểu tướng xin thuật rõ mọi việc. Mới đây, Sứ quân Phong Châu sai Sứ giả xuống Tam Đái dự hội trên sông, lại cầu hòa để hai Sứ làm thế giằng co chống đỡ cho nhau. Sứ quân Nguyễn Thái Bình, là người đa nghi, lại bị bọn xiểm nịnh vây bọc chung quanh, đến nỗi ghét hiền tài, đố kị người thành tâm thiện chí, đòi Sứ quân Phong Châu phải giúp tay bắt giết tướng Trấn Giang vì Sứ quân Nguyễn Thái Bình nghe nhiều tin xúc xiểm bảo là tướng Trấn Giang có ý làm phản để lâu tất có biến. Sứ quân Phong Châu khuyên can thế nào Sứ quân Tam Đái cũng không nghe, bắt nổi lửa ở Ba Hạc làm hiệu rồi hai Sứ hiệp lực bắt giết tướng Trấn Giang, sau mới nói đến việc liên kết chống đỡ bên ngoài...
Lâm Huy Chung bật thốt:
- À, ra thế! Thảo nào đêm hôm nọ ta thấy lửa cháy ở phía này lớn quá không hiểu là có việc gì!
Thẩm Chu Bình kể tiếp:
- Trong hội, Sứ quân Nguyễn Thái Bình cùng các tướng, mưu sĩ, quyết định diệt nốt “Tướng Cọp Trắng”, tôi không được biết tướng Cọp Trắng là ai, nhưng trong hàng các tướng Tam Đái không ai dám lĩnh mệnh đi giết tướng Cọp Trắng, sau Sứ quân Nguyễn Thái Bình nói rằng: “Nếu Phong Châu quả thật lòng muốn cùng Tam Đái lập thế liên minh môi răng, thì phải giúp thanh toan tướng Trấn Giang, giết cho kỳ được tướng Cọp Trắng, có thế Sứ quân mới yên lòng chấn chỉnh bên trong, chống đỡ bên ngoài!”. Rồi Sứ quân Thái Bình giao cho Phong Châu việc giết tướng Cọp Trắng, Sứ quân Phong Châu phải nhận lời, nhưng tiếc người hiền tài không muốn xuống tay, đã giúp tướng Trấn Giang tạm lánh xuống phía Nam với Sứ quân Kiều Thuận, tướng Trấn Giang lúc chạy trốn có giao cho Sứ giả Phong Châu ấn để làm tin mai sau, và cũng để dịp này trình lên Đại tướng làm bằng.
Bạch Hổ Tướng Biên Trấn Lâm Huy Chung ngồi nghe Thẩm Chu Bình nói, trong lòng kinh mang xiết kể, mọi việc đều tin ngay là có thật, vả lại bằng cớ còn sờ sờ trước mặt đây, làm sao không tin cho được!
Lâm Huy Chung thẫn thờ nói thêm:
- Thế còn cây Hàng Yêu Đao này của Sứ quân Nguyễn Thái Bình, để làm gì?
Thẩm Chu Bình đáp giọng thành thật:
- Sứ quân Thái Bình buộc Sứ quân Phong Châu phải giết tướng Cọp Trắng để chứng tỏ lòng thành thật với Sứ quân Tam Đái. Sứ quân Phong Châu đành phải nhận lời. Hai Sứ chọn trong hàng tướng Phong Châu, sai tôi đi hành thích tướng Cọp Trắng, lại đưa cho Hàng Yêu Đao để làm hiệu lệnh tùy nghi sử dụng, xong việc phải mang đao về phục mệnh. Sứ quân Phong Châu đã cứu tướng Trấn Giang, không nỡ để Tướng Biên Trấn bị mang họa, sai tôi ra Đông ải tìm Tướng quân trình rõ mọi việc.
Lâm Huy Chung càng nghe trong lòng càng khiếp hãi, không ngờ chủ mình lại đến như thế. Ngồi suy nghĩ bâng khuông hồi lâu, Lâm Huy Chung vụt đứng dậy, nói lớn:
- Này tướng quân, Bạch Hổ Tướng Biên Trấn Lâm Huy Chung là ta đây, có phải tướng quân lĩnh mệnh thích khách ta thì hãy hành động đi!
Thẩm Chu Bình giả bộ giật mình kinh hãi, cũng vội đứng lên vòng tay đáp:
- Thật tội đáng chết, đáng chết! Tiểu tướng không biết Ngài là Bạch Hổ Tướng Biên Trấn, dám trực ngôn làm bận tai Ngài...
Lâm Huy Chung cười buồn.
- Tôi biết chủ tôi không phải là minh vương đáng để người đời phò tá. Nhưng từ trước đến giờ chưa bao giờ chủ tôi lại có quyết định như ngày hôm nay. Trước có một đôi lần không bằng lòng tôi về việc quân, nhưng không đến nỗi ghét bỏ. Chỉ vì sau này bị bọn nhà chùa xúi giục mới ra nông nỗi. Có lần, tướng Trấn Giang than thở với tôi, có ý muốn bỏ đi nhưng chưa nỡ, nay được Sứ quân Phong Châu giúp đường chỉ nẻo cho biết chỗ mà tạm lánh thân, lại đến lượt tôi cũng chung số phận, thật đáng buồn, đáng buồn!
Nói rồi, Lâm Huy Chung lại ngồi xuống, vẻ mặt thẫn thờ không biết suy nghĩ gì. Giây lâu ngửng lên hỏi Thẩm Chu Bình:
- Tôi thật vô tâm, chưa được biết Tướng quân ở với Phong Châu như thế nào?
Thẩm Chu Bình kính cẩn đáp:
- Tiểu tướng giữ chức nhỏ Truy Phong Tướng, cầm cờ lệnh ở tiền quân Phong Châu tên gọi Thẩm Chu Bình, vừa rồi được theo hầu Sứ giả Điền Bạc xuống Tam Đái dự hội...
- Mọi việc Tướng quân đều biết rõ cả, lại lĩnh mệnh Phong Châu tới gặp tôi cho hay mọi sự. Bâu giờ tôi thật hoang mang chưa biết phải tính sao. Lúc lên đường tới đây, Tướng quân có nghe Sứ quân Phong Châu dặn bảo thế nào không?
Thẩm Chu Bình trong lòng lấy làm lạ, nghĩ rằng: “Điền Bạc có dặn: Tướng Lâm Huy Chung là kẻ nhu nhược không có ý kiến, không lẽ y lại nhu nhược đến thế này sao?!”. Nghĩ rồi, bịa ra mà đáp:
- Dạ có, Sứ quân chủ tôi có dặn rằng: bẩm trình với Đại Tướng Biên Trấn biết rõ mọi việc, xũng xin nhắc lại lời hẹn của Tướng Trấn Giang để mong Đại Tướng nên mau mau lánh chỗ hiểm độc, bảo toàn lấy tính mạng dành giúp đời trong mai sau...
Lâm Huy Chung lại thở dài, giây lâu hỏi nữa:
- Bây giời làm sao đây! Thật ra ta chưa biết phải làm sao! Tướng quân có thể giúp ý kiến cho ta được không?
Thẩm Chu Bình bỗng nhiên trở thành mưu sĩ thuyết khách, vừa e ngại lại vừa tức cười, giả vờ cúi đầu suy nghĩ một hồi rồi ngừng lên nói rằng:
- Dọc đường ra Đông ải, tiểu tướng đã gặp hai cánh quân Tam Đái Cổ Loa kết hợp với nhau. Hai cánh quân bàn gì thì chưa biết, nhưng xem tình hình thì có lẽ Tam Đái ngầm hẹn với Cổ Loa giúp sức đánh úp Tướng Biên Trấn đấy. Sau, tôi lại thấy quân Cổ Loa rục rịch sắp lên đường, nên phải gấp rút tới đây gặp Tướng quân...
Lâm Huy Chung càng ngạc nhiên hơn nữa:
- Lạ thật! Lại có việc như vậy sao?
Thẩm Chu Bình được đà nói tiếp:
- Tôi nghĩ rằng: nếu Đại tướng có quyết định, thì phải quyết định ngay mới được. Để chậm e sinh biến. Chắc Tam Đái tin rằng thích khách của Phong Châu đã ra Đông ải, vả lại cũng biết tôi được chọn đi, nay lại có quân Cổ Loa giúp nữa, thì thế nào việc hành thích Tướng Biên Trấn cũng xong, cho nên mới kéo quân tới đây đấy.
Lâm Huy Chung quả quyết:
- Như vậy thì một là ta đương cự, hai là ta bỏ đi cho xong!
Thẩm Chu Bình bàn:
- Nếu đương cự, hiển nhiên Tướng quân mang tiếng làm phản, mà bó tay chịu giết cùng mang tiếng người đời chê cười là không dũng lược. Chỉ có cách bỏ mà đi là hơn cả, bảo toàn được tính mệnh, lại giữ được tinh thần đấy.
Lâm Huy Chung khen:
- Hay! Vậy ta quyết định bỏ đi. Tướng quân giúp ta được gì nào?
- Xin nghe lệnh Đại tướng!
- Lúc ra Biên Trấn, ta biết khó có ngày trở lại, nên đem theo vợ con. Bây giờ bỏ đi cũng tiện cả. Tướng quân từ Phong Châu tới đây, biết rõ đường đất, lại biết nơi nào có hai cánh quân mà tránh. Vậy ta nhờ tướng quân làm hướng đạo đưa ta về Phong Châu có được không?
Thẩm Chu Bình trong lòng cả mừng, sứ mạng Điền Bạc giao cho như thế là xong rồi, liền đáp:
- Tiểu tướng lúc nào cũng xin đợi lệnh Ngài sai bảo. Chỉ xin được khuyên một lời là: Ngài phải gấp rút lên đường ngay mới được, chậm trễ e mang hận về sau. Vả lại, việc ra đi này cần phải kín đáo, đừng để lộ ra ngoài e xảy ra tai biến lớn.
Lâm Huy Chung đáp:
- Phải lắm, ta nên đi ngay!
Nói xong, trao trả Thẩm Chu Bình cây Hàng Yêu Đao và soái ấn đất nung của Cao Duy Hưng, lại gọi quân hầu dâng trà đãi khách, đoạn cáo lỗi vào hậu doanh sửa soạn mọi việc.
Phương Đông vừa rạng đỏ, bọn Lâm Huy Chung, Thẩm Chu Bình cùng gia quyến họ Lâm đông khoảng ba bốn chục người, cùng với đám tùy tùng tin cẩn mở cửa hậu doanh, quay lưng lại phía mặt trời sắp lên gấp rút khởi hành. Dọc đường, Thẩm Chu Bình khéo léo đưa cả bọn tránh khoảng có thể gặp hai cánh quân, đám người trèo núi mà đi, quả nhiên đã thấy bên dưới ven núi cánh quân Cổ Loa đang hướng về Đông Nam, xem ra có vẻ muốn bao vây phía Nam doanh trấn của Tướng Lâm Huy Chung ở phía Bắc Hương Cảnh! Vượt núi đi được hồi lâu, lại thấy đạo quân của tướng Phúc Nghiệp Trình chậm chậm tiến trên quan lộ, hướng ra Đông ải, Lâm Huy Chung nghiến răng:
- Đúng là Thái Bình muốn giết ta, hận này có lúc sẽ phải trả sạch mới xong!
Đoạn quay sang vái tạ Thẩm Chu Bình về ơn lặn lội xa xôi đến cứu mạng!
Lúc ấy, trời đã xế chiều, tức là cả bọn chạy trốn được gần một ngày đường rồi...
Trưa hôm sau, cánh quân của Phúc Nghiệp Trình mới tới được Đông ải. Nhìn lên doanh trại, thấy cửa lớn đóng chặt, quân canh nghiêm mật, gọi không thấy mở cửa nhưng quân trên ải lại quát đòi lui ra xa, nếu không sẽ xạ tiễn. Phúc Nghiệp Trình lấy làm lạ, tưởng rằng tướng Biên Trấn Lâm Huy Chung làm phản chăng, liền cho quân của Tam Đái ra xem xét việc quân, và tướng Phúc Nghiệp Trình đã tự thân đến ải. Mãi sau, trên ải mới thấy xuất hiện Phó Tướng Nguyễn Đình Tường lên xem xét, khi biết đích là quân Tam Đái liền nổi hiệu ra lệnh mở cửa doanh đón vào.
Phúc Nghiệp Trình vừa vào trong doanh đã vội hỏi:
- Phó tướng, có việc gì mà ta xem ải doanh có vẻ khác thường thế?
Phó tướng Nguyễn Đình Tướng đáp:
- Thưa Đại tướng, không hiểu Đại tướng Biên Trấn cùng gia quyến bỏ đi đâu mất từ hơn một ngày nay rồi! Tiểu Tướng không biết phải làm sao đành hãy ra lệnh đóng cửa ải, rồi cấp báo về Chúa công rõ.
Phúc Nghiệp Trình giật mình:
- Tướng Lâm Huy Chung bỏ đi rồi ư? Trước khi tướng Biên Trấn đi, có người lạ nào tới đây không?
- Chiều hôm trước, có người lạ đến đây.
Phúc Nghiệp Trình càng kinh hãi, lẩm bẩm:
- Không khéo lại bị kế Điền Bạc mất!
Rồi hỏi:
- Người lạ ăn vận theo mưu sĩ phải không?
- Không phải, y là một võ tướng.
- Võ tướng! Có phải y cao lớn, dáng dấp hiên ngang, mặc áo giáp sợi bạc kết, lưng giắt kiếm dài không?
- Bẩm đúng ạ!
- Thế thì y là Thẩm Chu Bình của Phong Châu rồi! Ta lại trúng kế Điền Bạc nữa rồi!
Vào sảnh đường, Phúc Nghiệp Trình lặng ngồi suy nghĩ, nhất định đây là Điền Bạc xếp dặt cả, sao Thẩm Chu Bình ra dụ hàng Lâm Huy Chung. Chỉ hận một điều là dọc đường bị quân Cổ Loa không đâu án ngữ mất cả gần ngày trời, thành ra tới được Đông ải thì chậm quá mất rồi!
Phúc Nghiệp Trình bảo Phó tướng Nguyễn Đình Tường:
- Bây giờ việc hỏng cả mất rồi. Dọc đường từ Trấn thành tới đây, ta gặp một đạo quân Cổ Loa không biết mưu định việc gì, sau cánh quân ấy bỏ quan lộ đi về hướng Đông Nam. Có thể Phong Châu liên kết với Cổ Loa đánh úp ta. Vậy người phải cấp báo về Chúa công, còn ta phải ở lại đây để giúp Tướng quân giữ ải, đợi xem tình thế ra sao.
Nói xong, Phúc Nghiệp Trình truyền Phó tướng Trần Trung Đạo đem năm mươi thiết kỵ, ngay sáng hôm ấy gấp rút trở về Tam Đái bẩm trình mọi việc lên Sứ quân Thái Bình rõ.
Sứ quân Nguyễn Khoan được tin cấp báo đầy đủ về cả hai việc: bắt không được Điền Bạc, lại còn bị Điền Bạc sai người ra dụ hàng khiến Tướng Biên Trấn Lâm Huy Chung bỏ trốn mất rồi, thì giận lắm. Sứ quân truyền nổi cồng khai hội, bàn bạc mọi việc chuẩn bị ra quân, quyết đánh Phong Châu để rửa hận.
Thế là, Sứ quân truyền lập kho, dồn lương tích thảo, sai người mua thêm ngựa, cho gọi lao bắt lính, dựng hàng trăm bễ lò rèn ngày đêm rèn gươm, đúc mã tấu. Lại cho người đi rao khắp chợ cùng quê rằng: dân chúng phải thắt lưng buộc bụng, không được xa phí, để dành lương thực, sẵn sàng hi sinh đến cả tính mạng để Sứ quân phạt Bắc, quyết phen này lập nên nghiệp lớn, mang lại hạnh phúc trăm dân!
Thế là, cuối thu Kỷ Dậu, trời ảm đạm còn ảm đạm hơn nữa, tình cảnh trăm dân thật khốn khổ, loạn ly đã bốn năm năm nay, triều đình dường như không còn nhòm ngó đến con dân, các Sứ quân mặc sức tung hoành, giặc cướp nương theo rừng rậm núi cao hoành hành không còn kiêng nể ai nữa, nay lại phải góp lương góp sức để Sứ quân tranh hùng với thiên hạ, thì tình cảnh không còn biết kể sao hco hết được sự khổ ải nữa. Bọn xiểm nịnh cũng được thời ra tài nịnh bợ Sứ quân, lấy lòng bề trên để được mặc sức bóp cổ hút máu của dân làm cho trăm dân đã xơ xác càng cơ xác hơn nữa. Tình cảnh trăm dân Tam Đái, cũng là tình cảnh trăm dân ở khắp mọi nơi.
Lệnh xuất quân truyền ra, đinh xuất phải kê khai thật rõ ràng, bao nhiêu trai tráng trong vùng đều phải đăng lính, không còn ai lo việc cày cấy, nhà nhà chỉ còn đàn bà trẻ con ngày đêm tựa cửa lo âu, cảnh bắt lính thật bi đát.
Trời chớm vào Đông, rét căm căm thấu đến tận xương tủy. Một sáng, chuông chùa Yên Lạc rền vang khác thường, mọi người ngơ ngác không hiểu tại sao chuông chùa lại khua như thế. Từ đầu Hạ vừa rồi, chùa Yên Lạc đóng cửa không đón khách, chiều chiều chỉ nghe tiếng chuông thu không buồn vô kể, tăng chúng dường như không ai ra khỏi chùa nữa, nay có hồi chuông lạ như vậy ai cũng lấy làm kì lắm. Sực cửa chùa mở rộng, một đoàn tăng chúng lặng lẽ đi ra, đi đầu là Khuông Trí Thiền Sư bận chiếc áo cà sa rách bươm, theo sau là đám sư đủ cấp bực, ai cũng áo quần tơi tả, mặt mày hốc hác, nghiêm trang theo gót Thiền Sư mà đi.
Đoàn tăng chúng diễn qua khắp nơi, đi tới đâu là dân chúng theo ngó tới đó, lại có người quỳ xuống bên đường khóc nức nở, có kẻ thì thảm thiết kêu gào Thiền Sư mau mau ra tay cứu nạn can qua, tan nát gia đình, Thiền Sư chỉ cúi đầu nghe, tăng chúng ai cũng sầu thảm như đang đi giữa địa ngục. Đám người càng đi, dân chúng theo sau càng đông, toàn là đàn bà, ông già và trẻ con. Cuối cùng, Thiền Sư dẫn bọn tăng chúng lần bước tới cổng phủ Sứ quân, rồi cả đám đứng lại cúi đầu lâm râm đọc kinh nhà Phật.
Quân vào trình Sứ quân, Nguyễn Khoan vội vã truyền mở cổng phủ đường đích thân ra đón bọn tăng chúng vào.
Vào tới sảnh đường, tăng chúng nhất định không ngồi, Thiền Sư Không Trí chỉ nói:
- Bọn tu hành chúng tôi đứng ngoài thế sự, nhưng lại ở giữa thế sự, nay ngài động binh phạt Bắc, làm cho trăm dân đã điêu đứng phải điêu đứng thêm, nên đành phải ra khỏi chùa để ngài được tận mắt thấy tình cảnh con dân, hãy mau mau bỏ việc binh đao, tìm cách giao hảo với nơi khác, cố gắng đem lại cơm áo cho con dân, có thế mới mong còn đứng vững được. Nếu chỉ nghe phường xiểm nịnh, kẻ ngu đần, hăm hở đi đánh nhau để hả cái giận của mình, mà không biết tự xét lỗi mình, thì khác nào lửa đã cháy lại chất thêm củi, ruột đã đứt lại còn bóp nát tim. Nay Sứ quân ra binh phạt Bắc, làm xứ sở bị trống trải, thảng hoặc có giặc ngoài xâm phạm tới thì liệu có tránh được cái họa diệt vong không? Khắp nơi các Sứ quân đều rục rịch động binh cả, liệu trăm dân còn có chỗ nào yên ổn mà sống được không! Sứ quân nên nghĩ lại đừng vì nóng giận nhất thời bỏ mất cái thế yên ổn lâu dài của mình!
Thiền Sư nói xong, tăng chúng lại cất cao giọng tụng kinh, tiếng nghe như sóng biển rộng cuốn vào hang vực thật hùng hồn, thật thê lương, thật bi thiết. Sứ quân ngẩn người chưa biết nói sao, thì Thiền Sư đã trở gót, dẫn đám tăng chúng trở ra, cả bọn lại về chùa đóng chặt cửa, như chưa bao giờ biết đến việc thế gian, chiều chiều tiếng chuông thu không lại vẳng lên khoan thai buồn bã.
Đám tăng lữ ra rồi, Sứ quân bàng hoàng như người vừa sực tỉnh biết mình phạm tội lớn, chưa biết quyết định sao thì bỗng có quân vào cấp báo việc tối quan trọng...
Chưa biết sắp có việc gì xảy ra, xin xem hồi sau sẽ rõ.
—ooOoo—