Hồi Thứ Mười Nguyễn Khoan nhận tin dữ,
xuất quân phạt Bắc cuối mùa Đông
Điền Bạc ra kế lạ,
sai người tay cứng xuống phương Nam
Quân vào bẩm:
- Bẩm Chúa công, Trấn trưởng quân Tế Tác sứ xin vào khẩn trình việc cơ mật.
Nguyễn Khoan truyền cho vào ngay. Sứ quân Nguyễn Khoan có đặt ra chức quan coi việc tế tác, đặt do thám ở khắp biên lãnh thổ, ngày đêm thâu lượm tin tức các vùng lân cận.
Tế Tác Sứ vào bẩm:
- Bẩm Chúa công, quân tế tác của ta từ phương Đông về cho hay: Cổ Loa động binh, chưa biết sẽ tiến đánh nơi nào. Nhưng quân Cổ Loa đã có lần xâm phạm vùng dọc biên giới Tam Đái Phong Châu, đã gặp quân thiết kỵ của Đại tướng Phúc Nghiệp Trình, sau quân Cổ Loa theo ngả Đông Nam kéo đi, chưa biết Cổ Loa với Phong Châu có liên lạc gì với nhau hay không? Quân tế tác của ta ở mặt Nam cũng cấp báo: Trấn Giang Tướng quả thật về với Sứ quân Ngô Nhật Khánh ở Đường Lâm, hiện giờ Đường Lâm có nhiều động thái xem ra đáng ngờ lắm. Ở mặt Bắc, thì xem ra chểnh mảng, từ khi Điền Bạc được Tướng Đặng Nhất Hùng đón thì về thẳng Phong Châu, biên giới canh phòng không có gì cẩn trọng, cũng không thấy có rục rịch động binh gì hết. Còn phía Tây Nam, hai Sứ Đỗ Cảnh Thạc với Nguyễn Siêu cũng không động tĩnh gì. Tình hình như vậy phải bẩm lên Chúa công đinh liệu.
Nguyễn Khoan ngồi suy nghĩ giây lát, đoạn truyền cho Tế Tác sứ lui ra, rồi truyền lệnh gióng cồng triệu tập các mưu sĩ, võ tướng.
Nguyễn Khoan bảo:
- Kể từ khi Điền Bạc xuống Tam Đái, dùng kế ly gián nội bộ ta, lại làm hại của ta mất hai đại tướng, rồi lại có những hành động như liên kết với Cổ Loa, xúi giục phương Nam động binh nghênh ngang không cần phòng bị mặt Tây, chẳng đón đỡ mặt Bắc, rõ ràng là Phong Châu mưu đồ việc binh. Tế Tác Sứ vừa về trình báo mọi việc, các người có ý kiến gì không?
Hàn Đồng đứng lên bẩm:
- Bẩm Chúa công, quả thật mới đây ta bị những bất lợi to quá, nay lại có việc khắp bốn chung quanh muốn rục rịch động binh. Tướng sĩ của ta, đủ để bảo vệ bờ cõi, mưu sĩ của ta cũng đủ tài cung ứng cho việc cần. Chỉ lo một điều là phải làm sao để yên được lòng dân, đoan chắc được là “việc quân không làm cho dân đói khổ”, có như thế khi ra quân ta mới không lo họa xảy ra trong nhà mình được. Nguyễn Khoan hỏi lại:
- Như vậy, thì các vị bảo ta phải làm sao?
Hàn Đồng lại đáp:
- Chúa công thử cho mời Tịnh Nhật Đại Tăng hỏi ý kiến xem sao. Các vị tu hành thường “tâm định, thần an”, chắc là có nhiều ý kiến tốt!
Nguyễn Khoan cho là phải, liền cho mời Tịnh Nhật Đại Tăng ngay.
Vào hội, Tịnh Nhật Đại Tăng bàn:
- Nếu Chúa công không lo việc binh, thì chẳng khác gì tự mở cửa để cho các Sứ chung quanh vào nhà mà chém giết mình. Ở phía Bắc, Phong Châu chắc đã liên kết với Cổ Loa, phía Tây không động tĩnh, tức là đã mua chuộc được Kiều Thuận, phía Nam có cái họa Cao Duy Hưng về hàng Ngô Nhật Khánh, phía Đông ta còn lại tất cả các Sứ quân khác lăm le muốn chiếm đất. Tất cả, chỉ vì Phong Châu mà có chuyện, tội này là về cả phía Phong Châu. Đề binh Bắc phạt là điều phải làm, để bên ngoài vững được thế với các Sứ khác, trong chấn chỉnh được nhân tâm, bảo vệ được thế lâu dài của mình...
Nguyễn Khoan ngắt lời:
- Thế còn việc chúng tăng vừa mới kéo nhau lũ lượt đến đây, bảo ta phải bỏ chiến tranh, là thế nào?
Tịnh Nhật Đại Tăng cười nhạt:
- Bọn chủ bại ấy, có bao giờ chịu thực sự đứng vào cuộc chiến đấu chưa? Giả sử, ta có nén làm lành với chung quanh, nhưng chung quanh vẫn không để cho ta yên, thì phải làm thế nào? Vừa rồi ta với Phong Châu có thù oán gì, mà Điền Bạc tới đây phá hoại nội bộ ta, Phong Châu liên kết với các nơi chực cướp đất của ta, như vậy hỏi phải bỏ binh vụ để cầu an thế nào được? Nếu như chùa Yên Lạc có thể tụng kinh mà đem lại an bình no ấm cho mọi người, tại sao không tụng thêm kinh, mở thêm lễ để bình an càng vững, no ấm càng hơn nữa xem sao, mà lại kéo nhau đi làm cho nhân tâm xao xuyến, xúi bẩy người thành tâm thiện chí chịu bó tay chờ chết như vậy?!
Các Tướng nghe Tịnh Nhật Đại Tăng bàn một hồi thấy đều vừa lòng đẹp ý, xúm nhau lại khuyên Nguyễn Khoan hãy động binh Bắc phạt. Nguyễn Khoan trong lòng như có lò lửa, mối thù Phong Châu xem ra không còn cách gì có thể trì kéo được nữa, liền quyết định ra quân.
Sứ quân Nguyễn Khoan hỏi Hàn Đồng:
- Mưu sĩ của ta, định kế tiến binh như thế nào?
Hàn Đồng thưa.
- Việc xuất trận, phải nhờ các Tướng, còn việc lớn chung, trước cần phải định xong mọi danh vị, sau mới có thể hành động được!
Nguyễn Khoan đẹp lòng, bảo:
- Phải lắm, trước hãy xếp đặt nhân sự, sau mới hoạch định kế hoạch cho đúng với phận sự mỗi người, thế là phải!
Nguyễn Khoan cử tướng Phúc Nghiệp Trình làm Tiền quân Đại tướng, thống lĩnh ba nghìn thiết kỵ phạt Bắc. Lại cử Nguyễn Thành Ý giữ chức Tả tướng, Phạm Hồng Dương giữ Hữu Tướng, Đinh Cao Lãm lo quân lương, Phạm Cự Sơn hậu quân tiếp ứng, trung quân thì do Nguyễn Khoan đích thân ngồi ở Soái tướng, bên cạnh có đãm mưu sĩ Hàn Đồng, Tịnh Nhật. Lại truyền cho quân mang lệnh hỏa tốc ra Đông ải triệu hồi tướng Phúc Nghiệp Trình, đồng thời cử Phó tướng Nguyễn Đình Tường được lên thay cho tướng Lâm Huy Chung trấn Đông ải.
Nguyễn Khoan nghe lời các quân sư mưu sĩ, truyền cho quân lương Đinh Cao Lãm gấp rút định lại kế hoạch thu lương tích trữ, lập kho ở hậu cứ, làm kế lâu dài cho chuyến xuất chinh phạt Bắc.
Hàn Đồng lại xui lập số lão đinh, bắt những người từ bốn mươi đến năm mươi lăm tuổi tuy không phải xung quân ngũ ra trận, nhưng phải giữ việc canh tác cấy cày, cung ứng quân vụ, hoặc theo quân ra trận nhưng giúp việc bắc cầu, đắp đường để giữ sức quân khỏi mệt. Tình cảnh Tam Đái thật bi đát, nhà nhà bây giờ chỉ còn trẻ thơ với phụ nữ, lương thực sạch trơn, áo mặc không đủ che kín thân làm sao chống được cái lạnh xẻ da nứt thịt! Việc quân như thế là đã thấy bất lợi, thế mà Nguyễn Khoan vẫn chẳng thấy; chỉ thấy, chiều chiều chuông chùa Yên Lạc buồn thê thiết, như gõ nhịp cho những lời than thở u uất của những người còn được ở lại nhà!
Quân lên đường cộng được bốn nghìn, thêm hai trăm thuyền chiến do Phó tướng cũ của Cao Duy Hưng là Đoàn Bích Dụng lên thay chỉ huy, thủy bộ từ từ tiến lên, rồi thủy quân đóng lại ven sông lên đến Bạch Hạc làm thế yểm trợ phòng vệ phía Tây Nam.
Nguyễn Khoan kéo đại quân đi, chỉ để lại nhà gần một nghìn lính tân tuyển, tất cả trao vào tay Phòng Đường Tướng cai quản, thêm mưu sĩ Từ Duyên phụ tá. Cứ xem tình cảnh này thì quả thật Nguyễn Khoan bỏ trống nhà mình không canh gác kéo quân đi đánh phương xa, thoảng hoặc có giặc từ ngoài đánh vào ắt khó mà trở tay kịp được.
Quân lên gần biên ải, thì Phong Châu được tế tác gấp rút báo về. Lập tức, Sứ quân Kiều Công Hãn thăng đường hội chúng tướng mưu sĩ nghị sự.
Sứ quân Tam Chế nói:
- Từ khi Sứ giả Điền Bạc của ta xuống Tam Đái, dùng ba tấc lưỡi phá được cái thế an bền của Tam Đái, thu được tướng Lâm Huy Chung, xua được tướng Cao Duy Hưng bỏ chạy, làm nội bộ Tam Đái tan nát, ta biết có ngày Tam Đái sẽ hưng binh đánh ta. Nay việc ấy đã tới, các mưu sĩ, các tướng, có ý kiến thế nào?
Trung Hoa Tướng Đặng Nhất Hùng đứng lên trước nhất bàn:
- Từ khi Điền Bạc đại nhân về đến cầu Tam Phong, tôi mới được biết mọi việc to tát, vẫn biết là thế nào cũng có ngày động binh, tôi vẫn đợi chờ, nay mới thấy có thật. Trước mặt Chúa công, ứng theo mưu kế thần diệu của Điền đại nhân, quả nhiên Tam Đái đem quân tới khiêu chiến ta, tôi đã có bàn với các Tướng, ai cũng nức lòng xuất trận, đây đúng là lúc tranh hùng dựng đại nghiệp hoàn tất kế hay của Điền đại nhân đấy!
Chúng tướng lao xao, ai nấy đều hăm hở, tưởng như sắp sửa lên ngựa cầm gươm xung trận ngay được rồi. Sứ quân Tam Chế bảo:
- Hay lắm, các Tướng đều nức lòng đánh giặc, ta vui lòng lắm. Thế còn các mưu sĩ thì sao? Điền Bạc nghĩ thế nào? Ông ra kế phá Tam Đái, bây giờ việc lớn đến rồi ông có kế gì hay hơn trước nữa không?
Cả hội phì cười, hả hê. Điền Bạc cũng tủm tỉm cười, trịnh trọng đáp:
- Độ nọ hiến kế dâng Chúa công, bây giờ tôi cạn mất cả kế rồi, vậy việc ra quân xin đề các Tướng bàn với Chúa công!
Sứ quân Tam Chế cười ngất:
- Nếu ta bàn việc ra quân, ta chỉ bàn với Điền quân! Còn bàn việc đầu hàng, ta mới bàn với các Tướng!
Nghe Sứ quân nói, ai cũng ngơ ngác, lạ lùng, không hiểu ra sao cả!
Điền Bạc thưa:
- Tại hạ không dám nhận cái vinh dự ấy, chỉ xin được có cơ hội góp ý giúp Chúa công, cùng các Tướng hết lòng lo mọi việc là đủ.
Sứ quân nghe nói rất hài lòng, các Tướng vẫn ngơ ngơ không hiểu ra sao cả. Sứ quân hiểu ý, liền giảng:
- Việc ra quân là hệ trọng, nhiều việc lớn dễ làm ta e ngại, nhưng võ tướng thì bao giờ cũng nóng lòng ra trận, tung hoành cho thỏa chí. Nay bàn việc xuất quân với võ tướng, có khác nào lửa đã đốt lại ném thêm củi vào, làm sao còn thấy được những việc bí ẩn của lợi với hại được nữa! Như vậy, phải bàn với mưu sĩ, mới nghe được hết những thâm trầm của phép dẫn hành thời thế chứ! Còn lúc ngã lòng, thua trận, lòng chỉ muốn hàng cho yên thân, thì phải bàn với dũng tướng để được khích lệ, lấy lại dũng cảm mà ra quân chống giặc, các tướng hiểu chưa?
Các tướng thở phào, ai cũng lấy làm hả dạ, kính phục Sứ quân lắm. Trung Hỏa Tướng lại đứng lên thưa:
- Như vậy, bọn vô tướng chúng tôi xin được nghe cao kiến của Điền đại nhân, và đợi lệnh của Chúa công vậy!
Sứ quân cả cười:
- Hay lắm, vậy ta định đối phó thế nào đây Điền quân?
Điền Bạc ngồi như đã ngủ, hai mắt gần nhắm nghiền, giây lâu mới đáp:
- Binh thư có nói: “Tướng tài không có chiến công” nhưng xưa nay thiên hạ đã được mấy tướng tài mà không có chiến công?...
Trung Hỏa Tướng nóng lòng vụt hỏi:
- Tại sao lại vô ý như thế? Đã là tướng tài, thì chiến công phải lẫy lừng mới phải, xông pha trăm trận, chém trăm tướng địch, lấy trăm cửa thành, thì mới gọi được là tướng tài chứ?
Điền Bạc mỉm cười:
- Quả đúng như thế là tướng tài, nhưng tài ấy là cái tài bất đắc dĩ phải dùng đến ở hạ sách mà thôi. Còn thượng sách thì không phải là xông pha chiến trận, đoạt thành chém tướng, mà ở chỗ khác.
Sứ quân cũng lạ lùng, cố nén không được liền hỏi:
- Hay! Đánh giặc không cần cho tướng ra trận, đoạt thành không cần cho quân vây hãm! Cổ kim có việc lạ, bây giờ ta mới nghe nói! Điền quân giảng rõ ro xem nào!
Cả hội cùng chung ý tưởng với Sứ quân, ai cũng nóng lòng muốn nghe lời luận của Điền Bạc, thành thử nghe Sứ quân nói vậy cả Hội đều xôn xao tán thưởng, thúc giục Điền Bạc nói mau đi. Điền Bạc ung dung giảng:
- Việc vừa mới xảy ra, tại sao lại có thể chìm vào quên lãng mau thế được! Chúa công không nhớ hay sao?
Sứ quân nhíu mày suy nghĩ. Việc gì mới xảy ra đâu, mà bảo là quên với nhớ? Cả Hội cũng không ai hiểu thế nào, đành ngồi im. Điền Bạc ung dung nói tiếp:
- Việc Chúa công sai tôi xuống Tam Đái, ta có cần phải ra quân đánh phá lần nào đâu, thế mà vẫn xua được tướng Cao Duy Hưng bỏ chạy, thu phục được tướng Lâm Huy Chung, làm cho nội bộ Tam Đái tan nát. Như vậy chẳng phải là “không cần đến xuất quân cũng đạt được chiến thắng là gì”?
Cả Hội “À” một tiếng, Sứ quân cao giọng tán thưởng:
- Đúng! Hay lắm, thế mới gọi là chiến công lẫy lừng đấy! Thế bây giờ quân tướng địch đến bên thành rồi, Điền quân định gây chiến công lẫy lừng như thế nào đây?
Cả Hội lại cười “ồ” có vẻ vừa tán thưởng câu nói của Sứ quân, vừa hởi lòng vì đã được hiểu rõ thế nào là phép “không xuất trận mà đoạt được chiến công lớn”.
Điền Bạc ngồi thẳng dậy, mắt mở lớn, trịnh trọng đáp:
- Thưa Chúa công, đây mới là chiến công lớn đấy! Lần trước, chẳng qua mới chỉ là việc dụ tướng, li gián địch; lần này mới là việc cứu nước thoát cảnh binh đao, bảo toàn được lãnh thổ, cần giữ được chung quanh không xâm phạm đến bờ cõi của ta đây!
Cả hội im lặng, Sứ quân tỏ vẻ cực kì khẩn trương, hết sức chú ý lắng nghe mưu sĩ Điền Bạc nói về tình thế. Điền Bạc giảng tiếp:
- Nay Tam Đái đem quân đánh ta để rửa thù, việc ấy là tự nhiên. Nhưng đánh ta, là tự dấn thân vào cõi chết, chết không ở phía ta đánh lại mà chết vì bỏ trống cả bờ cõi, khác nào xúi chung quanh mau mau xông vào nhà mình mà cướp phá! Trước khi ra quân, Tam Đái không tạo được thế liên kết với các Sứ quân chung quanh tức là không bảo toàn được thế yên ổn của mình, ngược lại, còn mời bên ngoài hãy dòm ngó vào. Thoảng hoặc, ở phía Nam Sứ quân Ngô Nhật Khánh nghe lời tướng Cao Duy Hưng thừa cơ xuất quân đánh chiếm Tam Đái, thì liệu Nguyễn Khoan làm sao đối địch cho được. Ở mặt phía Đông, Đỗ Cảnh Thạc, Nguyễn Siêu, rồi Cổ Loa nữa nếu nhất tề ra quân, thì hỏi rằng một mảnh Tam Đái liệu được mấy nả mà không tan thành cát bụi? Đánh ta, chưa biết thế nào, tôi cho rằng: quân Nguyễn Khoan chưa ra đến biên ải thì các Sứ quân khác đã vào đến Tam Đái rồi cũng nên!
Cả Hội không một ai dám lên tiếng, tất cả lặng nghe lời Điền Bạc mà rùng mình kinh sợ. Điền Bạc nói tiếp:
- Nếu Nguyễn Khoan chết một mình, ta cũng chẳng lo ngại gì, nhưng nếu Nguyễn Khoan chết liệu Phong Châu ta có được yên hay không, đấy mới là việc hệ trọng!
Sứ quân Tam Chế giật mình:
- Điền quân nói phải, bây giờ ta mới sực nghĩ ra mối nguy ấy. Bây giờ phải làm sao?
Điền Bạc đáp:
- Nếu Nguyễn Khoan không ra quân cái thế yên của ta còn được vững, mai hậu còn có cơ phát triển. Nếu Nguyễn Khoan chết, chẳng khác nào rào giậu che chung quanh nhà ta bị triệt hạ cả. Dạo nọ, ta phá Tam Đái là để làm cho Tam Đái phải nương vào ta mà được yên, tức là làm rào giậu cho ta được kín nhà mà ngủ yên, lo đại sự. Nay Nguyễn Khoan lâm nguy, ta phải cứu y, chứ không phải là ra quân để đương cự lại y!
Cả Hội là “ồ” một tiếng. Các võ tướng có vẻ bứt rứt, không yên lòng, ai cũng chực lên tiếng. Sứ quân ra hiệu bảo đừng nói, rồi hỏi:
- Vậy Điền quân định hành động như thế nào?
- Tôi được biết: hồi Tướng quân Thẩm Chu Bình ra Đông ải dụ tướng Lâm Huy Chung, dọc đường gặp quân Cổ Loa sắp hưng binh tiến xuống phương Nam, cho nên cho một đạo quân dò la tình hình mạn Tây Bắc, nếu mạn Tây Bắc lục đục tan nát, thế nào Cổ Loa cũng quay sang chinh phục. Tôi lại được biết: Sứ quân Ngô Nhật Khánh từ lâu vẫn có ý dòm ngó Tam Đái, để tìm đường thôn tính nốt ta, hầu có thể đương cự với Cổ Loa, chống giữ các Sứ quân ở mặt Đông Nam. Nay được tin Nguyễn Khoan ra quân, thế nào Ngô Nhật Khánh cũng thừa cơ hội để đánh úp y, như thế hỏi làm sao ta yên ổn cho được. Chỉ còn có cách là: bảo Nguyễn Khoan hãy mau mau hồi binh giữ nhà thì y mới thoát chết, mà ta mới yên được.
Sứ quân vụt hỏi:
- Chắc Điền quân lại lĩnh mệnh đi bảo cho Nguyễn Khoan biết như vậy đấy chứ?
Cả Hội bật cười. Điền Bạc hai mắt lim dim:
- Nguyễn Khoan mà gặp tại hạ lần nữa, chắc thế nào y cũng nướng sống rồi chia thịt cho quân tướng của y ăn không còn mảnh xương nhỏ ấy chứ, làm sao bảo y được nữa!
Cả hội lại cười, rồi lặng lẽ, bây giờ cái khó khăn lớn nhất là làm sao bảo cho Nguyễn Khoan biết lẽ sống còn, để Nguyễn Khoan mau mau lui binh. Hội nghị bàn mãi không làm sao giải quyết được, cuối cùng Sứ quân ra hiệu im lặng, rồi nghiêm trang bảo:
- Điền quân ra mưu phá Tam Đái, việc xong rồi, chiến công quả là có lớn. Nay việc trầm trọng hơn thế nhiều, liệu Điền quân định kế như thế nào để lập đại chiến công đây?
Điền Bạc thưa:
- Việc đã đến như vậy, tại hạ thật không dám từ nan, nhưng biết chắc là lần này tại hạ không thể lên đường được nữa, thành thử còn băn khoăn chưa biết nhờ ai để thi hành mưu kế đấy ạ.
Cả Hội nghị gay cấn. Sứ quân cũng gay cấn, như thế là Điền Bạc đã có dự liệu cả rồi, bây giờ chỉ cần có người đi thay Điền Bạc thi hành mưu kế là xong, nhưng ai mới có đủ tài như vậy?
Rút cục, hội nghị lại thành khẩn xin Điền bạc cho nghe kế. Sứ quân bảo:
- Nếu Điền quân không đi được, thì danh tài Phong Châu ai là người có thể đảm đương được, thì một là tình nguyện ra đi, hai là để tùy ý Điền quân lựa chọn.
Điền Bạc lại hỏi:
- Chúa công, các vị, như thế nào là người tài giỏi bây giờ có thể đảm đương công việc bảo Nguyễn Khoan lui binh được đây?
Sứ quân đáp:
- Phải như Điền quân mới được!
Cả Hội lại cười về câu nói của Sứ quân, Điền Bạc tủm tỉm cười:
- Lần này xuống phương Nam, ta không cần được “mềm lưỡi”, mà chỉ cần người tay cứng mà thôi!
Cả Hội ngạc nhiên. Việc trọng đại khó khăn như thế, tại sao lại không cần người tài giỏi đảm đương, mà lại cần người tay cứng, để làm gì? Trung Hỏa Tướng nắm chặt tay, co co ruỗi ruỗi làm như thể xem cánh tay ông ta có mạnh không. Các tướng phì cười, Sứ quân ngạc nhiên vẻ mặt băn khoăn xen lẫn vui vẻ. Sứ quân bảo:
- Điền quân định kế tất là hay, vậy kế thế nào xin cho biết?
Điền Bạc thưa:
- Hồi trước tại hạ có dặn tướng Trấn Giang Cao Duy Hưng là “cuối Đông năm nay, khi nào nghe trên sông có trống đánh, hãy tìm đến thì sẽ được thoát nạn, tìm được chân chúa mà thờ”. Nay, đến lúc trống sắp khua mừng Chúa công sắp có thêm tướng tài về giúp sức đấy!
Sứ quân ngơ ngẩn, cả hội cũng không ai biết tí gì, nhiều người gật gù hết nhìn Điền Bạc lại nhìn Thẩm Chu Bình, vì hai người này độ nọ lĩnh mệnh xuống Tam Đái, thì ngoài Điền Bạc chắc Thẩm Chu Bình biết cả mọi việc nhưng ông ta kín đáo không tiết lộ. Kỳ thật, Thẩm Chu Bình cũng không hiểu ý Điền Bạc định mưu ra sao, chỉ biết Điền Bạc có dặn Cao Duy Hưng như vậy mà thôi.
Sứ quân hỏi:
- Tại sao lại có trống đánh, mà tướng tài về giúp ta là sao?
- Bẩm Chúa công, lúc ly gián tướng Trấn Giang Cao Duy Hưng, tại hạ đã luận cho y nghe tất cả về Phong Châu và Tam Đái, tại hạ còn dặn y là hãy ẩn nấp ở Đường Lâm để tránh tiếng cho Phong Châu, đợi đến cuối Đông năm nay khi nào nghe trên sông có tiếng trống giục, thì hãy tìm đến, tại hạ cho người đón về với Phong Châu. Y đã nhận lời. Bây giờ Sứ quân Nguyễn Khoan ra quân, Ngô Nhật Khánh thế nào cũng động binh, ta phải hành động trước mới được. Tại hạ xin Chúa công cử một tướng xuống phía Nam, theo đường thủy mà đi, tướng đó mang độ một trăm thuyền nhẹ trang bị như là thuyền chiến, giống như của Đường Lâm, trên thuyền mang theo trống đủ loại, nương theo bóng đêm đi gấp. Tới phía Nam theo dòng sông mà đóng thuyền, giăng dài một giải từ Hát Môn đến Tam Sơn, đi theo dòng sông mà đóng thuyền, giăng dài một giải từ Hát Môn đến Tam Sơn, di chuyển thoe giờ giấc trong ngày, cốt làm sao nương được vào sường mù trên sông không để cho Tam Đái trông thấy, cùng Đường Lâm phát giác ra. Như thế, Tam Đái sẽ tưởng là chiến thuyền của Đường Lâm sắp đổ bộ đánh mạn Nam Tam Đái; mà Đường Lâm thì lại ngỡ là chiến thuyền của Tam Đái chực đánh xuống Đường Lâm. Nguyễn Khoan được tin quân Đường Lâm sắp xâm phạm bờ cõi, tất thế nào y cũng phải vội vàng kéo quân về chống đỡ. Thế là ta hoàn thành được mưu kế mà lại đón được danh tướng thủy chiến Cao Duy Hưng.
Sứ quân cùng hội nghị bật lên khen ngợi, Sứ quân bảo:
- Hay lắm! Kế hay lắm! Nhưng nội bộ ta thì sao?
Điền Bạc thưa:
- Ta chỉ cần một tướng đem thuyền xuống phía Nam, thi hành kế mà thôi, mặt phương Nam không mấy hệ trọng. Hệ trọng ở chỗ: ta phải làm sao, tỏ cho Nguyễn Khoan biết là ta không ra quân đương cự y, cũng không đuổi theo khi y rút về. Ta cũng lại phải giúp cho đám thuyền xuôi Nam của ta, bằng cách phao đồn là Đường Lâm sửa soạn đại quân, mang ba nghìn thuyền chiến sắp lên lấy Tam Đái rồi, để làm cho Nguyễn Khoan kinh hoảng chạy về mau. Ta cũng lại phải biểu dương lực lượng, làm cho Cổ Loa thấy cái thế vững vàng của ta, có thế mới cứu ta và giúp Nguyễn Khoan khỏi bị Cổ Loa tiến đánh.
Hội nghị không ai là không chịu kế Điền Bạc, Trung Hỏa Tướng bây giờ xem ra cũng không còn nóng nảy muốn ra quân nữa, chỉ hỏi:
- Điền đại nhân đã nghĩ Tướng nào xuống phía Nam chưa? Liệu hai tay tôi có đủ cứng để đánh cho thủng mặt trống hay chưa?
Hội nghị cười ồ, Điền Bạc cũng cười thật tươi:
- Cánh tay của Đại tướng cần phải cho cứng, để chống đỡ ở nhà, chưa cần đến sức hùng ấy vào việc gõ trống dọa Nguyễn Khoan đâu. Tùy Chúa công cho ai đem trống đi đánh ở phương Nam cũng được cả, chỉ có một điều là phải đợi lúc sương mù hay bóng đêm mà xuôi dòng cho nhanh đừng để cho chiến thuyền Tam Đái bắt gặp là được.
Sau hội nghị, Sứ quân nghe lời Điền Bạc cắt cử các Tướng đem quân trấn giữ các mặt, nhưng không dàn quân tại vùng Nguyễn Khoan sẽ tiến binh vào. Lại sai tướng Phạm Văn Duật gấp rút lựa một trăm khinh thuyền ngụy trang làm thuyền chiến của Đường Lâm. Hai bên mạn thuyền bọc rơm để chống tên, trong thuyền lính vừa bơi vừa giữ chặt dùi trống. Tất cả vào nghe Điền Bạc dặn dò kỹ lưỡng, rồi đợi bóng đêm là lập tức khua chèo xuôi Nam ngay.
Muốn biết việc gì xảy ra, xin xem hồi sau sẽ rõ.
—ooOoo—