Hồi Thứ Mười Một Trống đánh, tin truyền,
Nguyễn Khoan cuốn cờ về Nam gấp
Nhật Khánh xem quân,
Thủy chiến Duy Hưng mù một mắt
Tiền quân của Tam Đái do tướng Phúc Nghiệp Trình điều khiển thẳng hướng Bắc mà tiến. Hữu quân do tướng Phạm Hồng Dương chỉ huy thì đi vòng lên mạn Đông Bắc, lan rộng mãi đến gần Đông ải, quân trẩy như cọp về rừng, gấp rút cho kịp ngày hẹn, đi đến đâu cũng chỉ thấy cảnh thê lương buồn vắng, dân chúng xơ xác nghèo nàn, lòng quân với dân cùng chung mối buồn, không mấy người là hứng khởi trong việc binh đao. Cánh quân đi phía tả, do tướng Nguyễn Thành Ý thống lĩnh, men theo đường sông tiến lên, đường đi không mấy xa, cũng chẳng cần gấp rút nên quân đi thong thả; tả dực lên đến gần Ba Hạc thì đóng quân lại, chờ tiền quân tiến phát, đợi trung quân tới cùng hợp sức vượt biên.
Đây lại kể về việc Phong Châu khi được tin quân Tam Đái đã đến gần biên giới, thì dân chúng không khỏi hãi sợ, bồng bế nhau chạy lên phía Bắc lánh nạn. Sứ quân Kiều Công Hãn nghe lời mưu sĩ Điền Bạc, ngầm cử Đại tướng Đặng Nhất Hùng mang hai nghìn quân kéo dốc xuống Hương Lai, lại sai Thẩm Chu Bình lĩnh tám trăm quân ra phía Đông làm thế yểm trợ cho trung quân ở mặt trái, đoạn lại truyền tướng Lý Mạnh Đạt lĩnh năm trăm binh men bờ sông tiến xuống giữ mặt Bạch Hạc. Sứ quân đích thân thống lĩnh một nghìn quân, mang theo các tướng Đồng Dịch Liên, Chu Đình Thắng, Phạm Huy Tạng, hành tướng Lâm Huy Chung, tiến theo sau làm hậu quân tiếp ứng; lại sai Từ Hoạch Dinh giữ chức Quân Lương Tướng phải cung ứng đầy đủ quân lương tiếp tế cho cả mấy cánh quân. Bên trong, Sứ quân để mưu sĩ Điền Bạc lại nhà tạm thay quyền Sứ quân trông coi mọi việc, bên cạnh Điền mưu sĩ có tướng Lý Sùng Bang trực tiếp nghe lệnh để tuần phòng gìn giữ an ninh.
Sứ quân nghe lời Điền Bạc, một mặt cho người xuống Tam Đái, chia nhau đi khắp nơi phao đồn ầm lên rằng: “Ngô Nhật Khánh ở Đường Lâm đang gấp rút sửa sang thuyền bè, huy động các lộ quân, sắp vượt sông xâm phạm Tam Đái, ngày sang thuyền bè, huy động các lộ quân, sắp vượt sông xâm phạm Tam Đái, ngày đêm, trên sông thuyền bè đi lại tấp nập, chỉ vài ngày nữa là đại quân của Đường Lâm bắc tiến”. Người phao đồn xuống tận phương Nam, ngày đêm ra sức tung tin, khiến cho dân chúng ở suốt một vùng từ Hát Môn về đến Tam Sơn bỏ cửa, bỏ nhà, thu góp tài sản bồng bế nhau chạy lên Tam Đái, tình cảnh thật khốn khổ. Lúc ấy, Phong Châu lại cho người dạy trẻ con những câu hát, loan truyền trong dân chúng cốt để đến tai Nguyễn Khoan. Ở đâu cũng thấy trẻ nít hát:
Trèo lên Tam Sơn Đứt thắng đái ngựa Bẻ gãy múi khoan Bắt con oanh vàng Mang về núi mộng
Bài hát lọt tai Nguyễn Khoan, lại được tin cấp báo từ Tam Đái gửi ra chiến trường rằng Đường Lâm sắp vượt sông xâm phạm bờ cõi. Nguyễn Khoan trong lòng bối rồi. Liền truyền hội nghị để bàn xem nên tiến thoái như thế nào.
Mưu sĩ Hàn Đồng nói:
- Việc phương Nam, chưa lấy gì làm chắc. Biết đâu chẳng phải đây là mưu kế của Phong Châu cố ý làm cho tinh thần ta biến loạn mà kéo quân về. Có thế nào chăng nữa, thì cũng phải đợi thêm vài ngày nữa xem sao.
Tịnh Nhật bàn vào:
- Từ trước đến giờ, ta chưa từng gây thù chuốc oán với Đường Lâm, thì không lẽ gì Đường Lâm lại nhân cơ hội ta Bắc phạt đánh úp ta. Vẫn biết rằng Sứ quân lúc này chẳng ai nhường ai, nhưng sức Đường Lâm không phải là sức chọi được với ta.
Nguyễn Khoan nghe bàn thì lọt tai, nhưng trong lòng vẫn không thể nào yên được, vả lại còn những câu trẻ con hát khắp nơi khắp chốn, thì rõ ràng là có dịch muốn xâm phạm bờ cõi của mình rồi. Trong bài hát, rõ ràng là địch sẽ lên Tam Sơn, đánh úp Tam Đái. Cái câu “bẻ gãy mũi khoan” rõ ràng là địch muốn tiêu diệt Nguyễn Khoan. Lại đến câu “Bắt con oanh vàng” thì Nguyễn Khoan không làm sao nén cái giận cho được. Chẳng là vì, Nguyễn Khoan vốn ham mê sắc đẹp, trong phủ lúc nào cũng sẵn gái đẹp. Trong đám mỹ nhân ấy, có nàng Hoa Lê là được sủng ái hơn cả. Nguyễn Khoan mê mệt nàng Hoa Lê, coi nàng còn hơn cả tính mạng mình nữa, ai khéo chiều chuộng nịnh bợ nàng thì được Khoan thích, ai dám không kính nàng mà lại tỏ ý khuyên can Khoan đừng quá mê nữ sắc, thì thế nào cũng bị Khoan ghét bỏ. Xưa kia, danh sĩ Khúc Đồng Kim cáo từ ra về rồi bị giết, cũng chỉ vì cái tính ngay thẳng của ông ta, có lần Khúc Đồng Kim khuyên Nguyễn Khoan rằng: “Ngài ở ngôi cao, nên lấy trăm dân làm trọng, phải nên yêu tướng như sĩ như yên bản thân mình, chứ không được lấy tướng sĩ làm kẻ tôi tớ hầu hạ phục dịch cho gái đẹp. Chúa công không xa lánh nàng Hoa Lê, thì cái sắc đẹp mỹ miều chứa đến bảy tướng sát phu ấy, có phen sẽ làm hại Chúa công đấy...”
Nguyễn Khoan không nghe, có ý hận Khúc Đồng Kim, lại thêm đám mưu sĩ nịnh bợ hùa nhau gièm pha họ Khúc, tâng bốc Hoa Lê, khiến cho Khúc phải từ quan mà về rồi chết thảm. Hoa Lê ỷ sắc đẹp, được Sứ quân chiều chuộng bảo gì cũng nghe, tha hồ bịt mắt Khoan mà làm bậy, tìm người trai khỏe mạnh để thông dâm, thế mà Sứ quân vẫn chẳng hề hay biết. Sứ quân cất binh ra biên ải đánh Phong Châu, e ngại dọc đường vất vả làm mệt nhọc Hoa Lê, nên nén lòng không mang nàng theo. Hoa Lê được cơ hội, bảo rằng: “Xin ở lại nhà, dọn sẵn tiệc mừng Chúa công khải hoàn”, làm cho Nguyễn Khoan xuất chinh nhưng kỳ thật thì hồn lúc nào cũng vướng vít ở nhà, tưởng nhớ đến Hoa Lê. Hoa Lê từ lúc Nguyễn Khoan mang quân lên Bắc thì một tay quyết định mọi việc, như thể thay hẳn Nguyễn Khoan mang quân lên Bắc thì một tay quyết định mọi việc, như thể thay hẳn Nguyễn Khoan mà giám định mọi việc. Hoa Lê lại tha hồ tự do đưa bọn thanh niên khỏe mạnh vào phủ, ngày đêm bày cuộc dâm bôn. Hoa Lê thích mặc áo lụa vàng, nàng lại giỏi nghề ca hát. Tiếng hát trong như tiếng oanh hót, nên thường được Nguyễn Khoan gọi là “Con Oanh Vàng” cực kỳ chiều quý.
Nay, trong câu hát của trẻ con ở khắp nơi, lại có câu “Bắt con oanh vàng”, thì chẳng là bắt nàng Hoa Lê, còn bắt ai nữa? Vả lại từ mùa hạ năm ngoái, Sứ quân Ngô Nhật Khánh khởi sự việc bồi lại thành đắp lại lũy như để chuẩn bị chiến tranh; rồi lại tuyển gần bảy trăm dân thợ ngày đêm xây cất Tòa Mộng Thất cao bảy tầng ở núi Mộng Sơn, để làm nơi rong chơi cho xứng với địa vị Sứ quân của mình. Sứ quân Ngô Nhật Khánh cũng là kẻ ham mê sắc dục, so với Nguyền Khoan có lẽ chẳng ai nhường ai. Trong câu hát, có câu “bắt con oanh vàng, mang về núi mộng”, thì rành rành là Ngô Nhật Khánh có ý dòm ngó nàng Hoa Lê, phen này đánh úp được Tam Đái thì thế nào cũng bắt nàng Hoa Lê về giam ở núi Mộng để thỏa tình mây mưa.
Khoan ngày đêm nghe trẻ con hát, trong lòng vừa buồn giận, chưa biết phải tiến lên Phong Châu hay nên trở về giữ Tam Đái. Tình cảnh Nguyễn Khoan quả là tiến cũng không xong, lui thì càng tệ cứ như vậy đến mấy ngày vẫn án binh chưa quyết.
Sực có tin cấp báo từ Tam Đái lên nói rằng: “Chiến thuyền Đường Lâm đã ra khỏi doanh, dàn thành trận tuyến dài cả chục dặm, trống trận nên đến tung cá sóng nước, nhưng có lẽ vì sương mù cuối năm dày quá nên quân Đường Lâm chưa xuất trận, chỉ ít ngày nữa Đông tàn Xuân tới, thời tiết quang đãng tất thế nào quân Đường Lâm cũng đánh lên bộ”. Nguyễn Khoan được tin, không còn trù trừ ngần ngại gì nữa, liền cho gọi mưu sĩ Hàn Đồng, Tịnh Nhật vào trướng bạn định việc lui quân, gấp rút về trấn thủ phía Nam chống lại Đường Lâm. Tịnh Nhật nói:
- Thế còn mạn Bắc, nhỡ quân Phong Châu cũng đuổi theo sát phạt ta thì thế nào?
Nguyễn Khoan kinh hãi, chưa biết đáp ra sao, Hàn Đồng góp lời:
- Thật ra, ta cử binh đi đánh Phong Châu, chứ Phong Châu đâu có dám đánh ta! Ta ra quân, Phong Châu tất sợ hãi, nay ta tự lui quân là điều mừng cho Phong Châu rồi, làm gì có chuyện xua quân đuổi theo ta nữa! Vả lại, tế tác của ta cho hay: Phong Châu dường như không biết việc ta ra quân, vẫn không thấy có động tĩnh gì cả. Như thế, ta lui về cũng sẽ được yên ổn, đến khi Phong Châu mà biết thì đã chậm quá rồi không kịp đánh up ta đâu!
Nguyễn Khoan cho là phải, liền truyền lệnh cho các lộ quân mau lẹ rút về Tam Đái, lại truyền cho đạo quân thủy chiến phải thận trọng đi sau, làm thế an toàn cho các đạo quân trên bộ; thế là lệnh ra, hậu quân đổi thành tiền quân, Nguyễn Khoan gấp rút cuốn cờ trở về. Nguyễn Khoan ruột nóng như lửa đốt, không cho quân có thì giờ nghỉ ngơi, lệnh truyền ra là “ngủ trên lưng ngựa, võng nhau mà chạy cho được nhanh”.
Dọc đường, lại được tin từ Tam Đái hỏa tốc gửi lên, báo tin: “Chiều hôm trước, nương theo sương mù dày đặc, chiến thuyền Đường Lâm tới sát Tam Sơn, xạ tiễn lên đồn ải của ta”. Sứ quân càng khiếp hãi, thúc quân băng rừng, vượt núi mà trở về. Chuyến lui quân thật tất tả, lính mệt không được nghỉ, vừa bôn tập vừa lấy lương khô ra ăn, ngựa sải vó không ngừng, chẳng kể đường bằng hay khấp khểnh. Về đến gần Phù Ninh thì trời lúc ấy tối mịt, sương mù che khắp sông núi, quân phải mò mẫm mà đi. Lúc qua lạch Ninh Thọ, ngựa của Sứ quân mệt mỏi quá rồi liền quỵ xuống, hất Nguyễn Khoan ngã gãy mất chân trái. Từ đấy, Nguyễn Khoan phải nằm cáng mà về, tình cảnh lại càng bi thảm!
Mấy cánh quân Phong Châu âm thầm trấn ở biên giới, khi được quân Tam Đái lặng lẽ rút về, liền vội bẩm trình lên Trung Quân biết. Sứ quân Kiều Công Hãn cả cười bảo:
- Điền Bạc đoán việc như thần, xếp đặt công việc lại càng thần tình hơn nữa! Ta được Điền Bạc, chẳng khác nào trời cao mở sẵn giang sơn để dành cho ta chiếm lấy!
Đoạn truyền các đạo quân cứ im lặng ở lại thêm một vài ngày nữa, đợi cho quân Tam Đái đi thật xa mới triệt binh trở về.
Đây lại kể đến đoàn thuyền của tướng Phong Châu là Phạm Văn Duật chỉ huy, được lệnh của Sứ quân và sau khi nghe dặn dò của Điền Bạc, ngay trong đêm hôm ấy nương theo sương mù che khuất cả mảnh trăng hạ huyền, ra sức chèo về mạn xuôi. Thuyền kéo đi êm như ru, cả đoạn thuyền chiến của Tam Đái đóng bên kia sông cũng không hay biết gì. Càng xuống phương Nam, cảnh sắc càng hoang vắng, không có gì cản trở, thành thử chỉ một ngày đêm là đoàn thuyền đã tới được nơi định liệu. Phạm Văn Duật truyền cho thuyền ẩn vào lau lách, sửa soạn lương thực, nghỉ ngơi, đợi đến chiều tối sương mù bắt đầu đùn lên che kín cả mặt sông, liền truyền cho thuyền ra giữa dòng: thuyền nọ dắt díu thuyền kia, rồi nhất tề hò reo, khua trống. Thuyền xuôi dòng thủy triều đang rút, cả đoàn chậm chậm di chuyển xuống phía Nam xa hơn nữa. Đêm hôm ấy, đoàn thuyền của Phạm Văn Duật xuôi được một lần đến tật Hát Môn, rồi lại trở mũi quay lên ngược đến tận Tam Sơn.
Trống đánh ầm ầm trên sông, tiếng quân reo rung rinh cả sóng nước, làm cho hai mạn Bắc Nam đều kinh hoàng. Tam Đái tưởng Đường Lâm xua quân Bắc tiến; Đường Lâm thì lại tưởng Tam Đái xua quân để xuống Nam hỏi tội tướng bỏ trốn là Cao Duy Hưng và Sứ quân Ngô Nhật Khánh dung dưỡng tướng phản bội. Cả Tam Đái lẫn Đường Lâm đều kéo quân ra đóng bờ sông, hai bên im lặng cầm cự, không bên nào dám tiến quân trước.
Mờ sáng hôm sau, nắng tàn Đông le lói, sương mù trên sông nước lất phất như những màn lụa mỏng, làm cho đoàn thuyền của Phạm Văn Duật lúc ẩn lúc hiện, hai bên bờ sông thấy thấp thoáng có nhiều thuyền chiến di chuyển ở giữa dòng, không biết là địch định hành động ra sao, Phạm Văn Duật dặn quân trên thuyền rằng: “Lúc ra đi mưu sĩ Điền Bạc không dặn trước và nếu sương mù tan mất thì phải làm sao! Nếu sương mù tan, thì đoàn thuyền bị bại lộ, có lẽ phải chạy trốn, vậy quân phải sẵn sàng mọi thứ. Chuẩn bị cung tên”.
Đến gần giữa Ngọ, sương mù bỗng nhạt hẳn, từ giữa dòng sông đã có thể trông thấy thấp thoáng hai bên bờ. Trên bờ, cũng đã thấy thấp thoáng bóng thuyền, sương mù lất phất đến cuối giờ Mùi thì tan hẳn, mặt sông quang đãng, từ trong bờ nhìn ra thấy rõ mồn một đoàn thuyền giăng.
Phạm Văn Duật thấy nguy hiểm, liền truyền lệnh cho cả đoàn thuyền ngược dòng mà đi, vừa may lúc ấy thủy triều cũng bắt đầu lên, thuyền ngược dòng không mấy vất vả, tướng Phạm Văn Duật thận trọng kéo thuyền ngược đi không dám để thuyền lại sát bờ Bắc hay Nam, cũng cố ý không đi nhanh quá khiến trên bờ có thể đoán biết được ý tứ của mình.
Đây lại kể về Sứ quân Ngô Nhật Khánh ở Đường Lâm khi được tin có thuyền địch xuất hiện hò reo, đánh trống dường như thuyền chiến của Tam Đái toan tính đổ bộ phía Nam, xâm phạm bờ cõi Đường Lâm. Sứ quân Ngô Nhật Khánh là người nhu nhược, một mình chiếm giữ một giang sơn rộng lớn, thường tự cho mình là dòng dõi Ngô Vương nhưng không biết xếp đặt việc lớn, chỉ ngày đêm nghĩ đến các công việc tự gọi là “việc của những vương giả” tức là xây cung điện, may sắm những đồ xa hoa, liên miên yến tiệc, sống theo nghi lễ quân vương thời bình! Bờ cõi Đường Lâm rộng lớn người đông, của nhiều, nhưng Ngô Nhật Khánh không biết tài bồi những lợi thế ấy, lại đem sức lực vào cuộc truy hoan, làm cho giang sơn tuy rộng, thành quách thì nhiều, nhưng nếu địch bên ngoài đánh vào tất phá nát được Đường Lâm.
Nay, được tin có chiến thuyền địch trên sông, Sứ quân Ngô Nhật Khánh cả kinh. Truyền hội họp chúng tướng, mưu sĩ lại bàn:
- Thuyền địch đóng nghẹt cả sông, xem ra thì là thuyền của Tam Đái. Như thế, tất Tam Đái định gây sự với ta. Các tướng nghĩ thế nào?
Quân sư của Ngô Sứ quân là Đạo sĩ Phùng Chuyết Tình lên tiếng trước:
- Bẩm chúa công, cứ theo như vận hành của sao trên trời, nước chảy ở dưới đất, thì lúc này không phải là lúc ra quân tranh hùng. Thế mà, thuyền địch, đóng nghẹt sông, giương thế ra oai, hò reo, đánh trống, rõ ràng có ý muốn xâm phạm bờ cõi của ta. Địch ra quân nhằm ngày Sao Trực, Sao Bế, tức là ngày Sát chủ, tất thế nào cũng bại vong mà về. Thảng hoặc, có cần phải ra quân để phòng bị, thì ta cũng chỉ nên huy động đến một vài toán nhỏ, không cần phải đưa đến đại quân ra ải quan làm gì.
Sứ quân nghe quân sư Phùng Chuyết Tình nói như thế, trong lòng rất an vững. Sứ quân hớn hở, hỏi các tướng:
- Các tướng nghĩ thế nào?
Sứ quân Ngô Nhật Khánh tuy nhu nhược, nhưng trong hàng thuộc hạ cũng có được người tài. Người tài của Sứ quân là tướng Tổng quản Bùi Nhật Hướng. Tướng Bùi có tài xung trận, tính tình chín chắn, ưa xét việc theo thực tế ghét việc mê tín, vì vậy không ưa Đạo sĩ. Quân sư thường vẫn bảo Đạo sĩ là người sẽ làm cho Đường Lâm tan nát sau này. Nay nghe Đạo sĩ khuyên Sứ quân, rồi lại nghe Sứ quân hỏi, tướng Bùi Nhật Hướng đứng lên nói rằng:
- Địch tới, không thể cứ ngồi im mà xem thiên văn, nghiệm địa lý được. Việc thực tế trước mắt bây giờ là phải chống đỡ, phải huy động khả năng của mình để thích nghi với hoàn cảnh, cốt làm sao chiếm cho được thế lợi, chứ không phải là chọn bình an trong cái nguy của mình được. Tôi thiết nghĩ: Chúa công nên cho lệnh ra quân trấn giữ các ải, lại cho lệnh chiến thuyền của ta sẵn sàng ứng chiến, trên mặt nước ta sẽ đương cự thẳng với địch, quân trên bộ của ta làm sức yểm trợ phòng địch ở khắp dọc biên giới dòng sông. Có như thế, mới có thể yên tâm mà bài cãi, đợi thêm biến chuyển được.
Các tướng đều cho lời bàn của tướng Bùi Nhật Hướng là đúng, ai cũng ủng hộ. Duy có quân sư Đạo sĩ Phùng Chuyết Tình thì cứ phe phẩy chiếc quạt lông trĩ mà cười nhạt hoài. Đạo sĩ vốn người ở núi Đồng Lư, tự nhận là “Rồng của Núi” ra giúp Sứ quân; Đạo sĩ không ăn chay, chẳng niệm Phật, nhưng thích nói đến phù phép linh thiêng luôn luôn xúi bẩy Sứ quân thiết lập đền này đài nọ, cốt huy động quỷ thần trợ lực để dựng nghiệp lớn. Nay nghe tướng Bùi bàn như vậy, Đạo sĩ chỉ cười nhạt khiến Sứ quân phân vân không biết tính sao. Nếu nghe lời Đạo sĩ, nhỡ địch xâm phạm bờ cõi thật, hỏi làm sao ngăn giữ được nữa? Nếu nghe lời các tướng ra quân, sợ mất lòng Đạo sĩ thì từ đây làm thế nào để Đạo sĩ hết lòng giúp rập, cầu khẩn quỷ thần cho được nữa?
Hội họp gần hết đêm hôm ấy, mà cũng chẳng quyết được gì. Các tướng thì nóng lòng, giận Đạo sĩ xui dại Sứ quân. Đạo sĩ thì cứ quả quyết là giặc không thể xâm phạm bờ cõi Đường Lâm được. Cuối cùng, Bộ tướng Bích Thừa Vu góp lời:
- Cách đây không lâu, có Đại tướng Trấn Giang của Tam Đái về hàng, Chúa công vẫn để cho y được an nhàn, đối đãi tử tế. Nay có việc như thế này, Chúa công thử cho vời y đến hỏi việc xem y nói ra sao?
Hội nghị cho là phải, Sứ quân liền truyền gọi Trấn Giang Đại tướng Cao Duy Hưng của Tam Đái xưa kia tới hội nghị.
Cao Duy Hưng tới bàn rằng:
- Bẩm Sứ quân, trước ngày tôi bỏ Tam Đái mà đi, thì nội bộ Tam Đái không ổn, chia rẽ nhau. Sứ quân Nguyễn Khoan là người không quyết, làm việc thường hay nghe những lời bàn xét. Nay, có thuyền xuất hiện trên sông, cũng có thể là Tam Đái muốn hỏi tội tôi, tức là có thể sẽ xin Sứ quân đem tôi trao trả để Tam Đái hành quyết tôi. Tôi thiết nghĩ: Sứ quân Nguyễn Khoan không phải là minh chúa, địa thế lại thua xa Chúa công đây, tất y không dám xâm phạm bờ cõi Đường Lâm, nhưng chắc chỉ muốn bắt tôi hỏi tội mà thôi. Vậy, tôi xin Chúa công để tôi tình nguyện cưỡi một chiếc thuyền đi gặp thuyền Tam Đái xem sao. Tôi dám chắc, các tướng sĩ thủy chiến của Tam Đái khi gặp tôi, không ai là không nghe lời tôi nói, cũng không ai nỡ bắt giữ tôi. Tôi sẽ thừa cơ hội dụ hàng cả đoàn thuyền về với Đường Lâm, như vậy vừa tránh khỏi nạn can qua, lại vừa được thêm sức mạnh.
Sứ quân nghe bàn rất hài lòng, vì như vậy là tránh khỏi phải ra quân làm phật ý Đạo sĩ, mà cũng lại vừa có cái lợi là dụ hàng được địch. Về phần các Tướng, nghe lời bàn của Cao Duy Hưng cũng thấy có lý phần nào còn băn khoăn chưa quyết thì Cao Duy Hưng đã nói thêm:
- Bẩm Sứ quân, tuy thế tôi nghĩ rằng: mình cũng phải sẵn sàng cả quân thủy lẫn lộ, để đề phòng mọi bất trắc. Như vậy, khi tôi đi gặp chiến thuyền Tam Đái, ở đằng sau ta cũng được yên tâm, như vậy tốt hơn.
Sứ quân cho là rất phải, các Tướng cũng cho là lời bàn hay; Đạo sĩ tủm tỉm cười nói rằng:
- Tướng quân cứ cưỡi thuyền mà đi, thế nào cũng không có nạn binh đao đâu. Tướng quân xử sự cho khéo vào, thể nào Chúa công cũng có thêm chiến thuyền về giúp sức đấy!
Sứ quân càng đẹp dạ, các Tướng tuy yên tâm, nhưng vẫn còn hậm hực có ý không ưa Đạo sĩ tâng bốc Cao Duy Hưng.
Về phần Cao Duy Hưng, từ khi tạm lánh thân, thờ chủ mới ở Đường Lâm, thường vẫn chẳng có gì làm cả, ngồi rỗi lúc nào cũng tưởng nhớ đến lời dặn dò của Điền Bạc, bấm đốt ngón tay nóng lòng chờ tàn Đông để lắng tai nghe tiếng trống. Quả nhiên, tàn Đông có tiếng trống khua trên sông. Cao Duy Hưng chưa biết làm cách nào để liên lạc được, thì may thay Sứ quân triệu thỉnh hỏi ý kiến. Cao Duy Hưng thừa cơ tình nguyện đi dụ hàng thuyền địch.
Cao Duy Hưng bí mật bảo vợ con cùng mấy người thân tín cũ sửa soạn hành trang, bỏ lại hết thảy những gì xét ra không cần thiết, sẵn sàng xuống thuyền để mạo hiểm một phen. Sửa soạn xong, Cao Duy Hưng vào trình Sứ quân Ngô Nhật Khánh, Sứ quân bảo:
- Tướng quân ra sông phen này phải cẩn thận, lành dữ thế nào chưa biết, có thể nguy đến cả việc lớn, mà cũng có thể an được cả. Tướng quân đừng để phụ lòng ta dung dưỡng tin cậy nhé.
Cao Duy Hưng thưa:
- Sứ quân dung dưỡng, tôi thật cảm kích. Tôi bỏ Tam Đái mà đi, đất rộng không hướng về đâu, chỉ tìm đến Chúa công, lòng tôi đã rõ. Nay, Đường Lâm có việc cần đến tôi, tôi xin hết lòng với Chúa công. Duy có điều xin được trình lên Chúa công, là tôi ra sông, phía sau Chúa công nên phòng bị, đề phòng địch không chịu, nhất định giết tôi mà tiến quân, thì lúc ấy Chúa công cũng không bị lúng túng khi ứng chiến. Từ khi tôi bỏ Tam Đái ra đi, tôi chắc Tam Đái chưa tìm được tướng giỏi đâu. Phó tướng của tôi chưa phải là tay thủy chiến cự phách, nhưng ta vẫn cứ phòng bị là hơn. Lúc này trời sương mù kín sông, xáp chiến khó khăn, phải dùng đến lối “viễn chiến” tức là sử dụng đến tối đa sức mạnh cung tên mới có lợi. Vậy chúa công nên cho quân thủy bộ đều sử dụng cung cứng, tên cho thật nhiều, phòng khi dùng đến vừa ngăn được địch từ xa, lại vừa bảo đẩm được thế thủ thắng của mình đấy.
Sứ quân nghe Cao Duy Hưng thưa rất đẹp dạ, các tướng cũng cho là rất phải. Đạo sĩ Phùng Chuyết Tình lại hùa vào:
- Thế nào cũng không có đánh nhau đâu! Chúa công cứ ra lệnh cho tướng Tổng Quản cắt đặt các đạo quân thủy bộ, gọi là để phòng hờ mà thôi. Còn Chúa công, thì cứ việc lên trấn ải uống rượu mà xem tình hình.
Sứ quân cho là phải, truyền tướng Tổng Quản được toàn quyền cắt đặt các đạo quân thủy bộ, gìn giữ các nơi trọng yếu để phòng bị quân Tam Đái tấn công, xong truyền sửa soạn yến tiệc trên đối ải Tam Sơn, để thưởng thức cảnh tàn Đông sương mù trên sông lớn, nghe trống trận trong sương mù. Sứ quân coi việc binh đạo như đi xem hội hè, phong độ thật ung dung nhàn nhã, giả sử giặc có tràn vào bờ cõi tất không làm sao cản cho nổi được!
Đây lại nói về tưởng Tổng Quản Bùi Nhật Hướng, ngày đêm vẫn thường lo lắng về việc giặc bên ngoài có thể xâm phạm bờ cõi, bên trong Sứ quân lại không biết cẩn thận phòng bị, chỉ ngày đêm lo tính những việc xa hoa phí phạm, mở cuộc truy hoan hơn là lo luyện tập quân sự, xài phía hơn là tích trữ lương thực để dành mai sau. Nay, được lênh của Sứ quân trao cho quyền điều động hai quân thủy bộ ứng chiến, liền trước hết lệnh cho tướng trấn thủy trại Tiên Phong là Vũ Mạnh Đạt phải huy động hết thảy chiến thuyền, đếm chung được hơn hai trăm chiếc đặt soái thuyền làm nơi xuất phát hiệu lệnh tuần phòng suốt giải sông nước từ Tam Sơn xuôi xuống Hát Môn. Thủy trại mở rộng phạm vi canh giữ ra ngoài khơi, thuyền canh đi lại như mắc cửi, kỷ luật thật nghiêm minh. Các thuyền chiến, lại được phân làm ba đạo, một do tướng Cung Đức Hào thống lĩnh bay mươi hai chiếc chở quân trang bị cung ứng, lại kèm theo đao ngắn, có thể xung trận xáp chiến, hoặc chặn địch từ xa. Một đạo do tướng Mạc Đình Loan chỉ huy, mang theo năm mươi thuyền lớn, quân trên thuyền thuần sử dụng cung tên, có thể xạ tiễn nửa ngày trời không ngừng tên mới hết, đây là đạo thuyền chiến mở đường cho các đạo quân khác xung trận, đạo quân này lại có khả năng tiếp trợ từ xa cho các lực lượng đương trận. Đạo quân thuyền thứ ba, do tướng Hồ Hưng Nguyệt cai quản, đông một trăm mười chiếc, trên chở quân giáp chiến chuyên sử dụng đoản đao, có thể chiến đấu cả trên mặt nước lẫn trên bộ. Thủy quân của Đường Lâm đông được gần ba nghìn người.
Cắt đặt xong, tướng Tổng Quản Bùi Nhật Hướng bảo tướng trấn thủy trại Vũ Mạnh Đạt rằng:
- Ta xem Chúa công sơ xuất quá lẽ, coi Cao Duy Hưng như hàng thủ túc. Nếu chẳng may họ Cao làm phản thì liệu lúc ấy ta giở tay làm sao kịp! Tướng quân phải canh chừng thật ráo riết nếu thấy có gì khả nghi thì phải báo cho ta biết ngay. Tướng quân cũng đừng sơ xuất, phải sẵn sàng ứng chiến, đề phòng Tam Đái đổ bộ nhé.
Dặn xong, Bùi Nhật Hướng về doanh, cắt đặt các đạo bộ chiến canh phòng khắp mặt, lại truyền đóng chặt ải quan, quân tuần canh không ngừng đi lại. Trên ải quan, Sứ quân truyền dọn tiệc, để cùng mưu sĩ Phòng Chuyết TÌnh và các tướng thưởng thức cảnh sương mù trên sông nước, nghe trống trận buổi tàn Đông. Lúc ấy là vào khoảng giữa giờ Dậu, khí núi miên man đùn lên cửa ải, khí lạnh vẫn còn cắt da xẻ thịt, ngồi trên vọng lâu ải quan, nhìn xuống dưới sông chỉ thấy mờ mờ một giải trắng đục, trời mờ mây dày cộm, tình thế này mà xáp chiến thì thật là khó khăn. Tiệc vừa dọn xong, trăm ngọn đèn lồng cháy rực mặt thành, rõ ràng là cảnh thanh bình an lạc. Quân đi lại canh phòng lẫn phục dịch rầm rập. Sứ quân Ngô Nhật Khánh và đầy đủ thuộc hạ đều vào tiệc, chúa tôi ngắm cảnh thật hùng vĩ, nghe tiếng trống chiến thuyền Tam Đái văng vẳng trên sông, không ai là không cảm khái. Tiệc vừa bắt đầu, quân vào bẩm:
- Bẩm Chúa công, các đạo quân thủy bộ đã tuần canh đúng theo cắt đặt, thuyền của hàng tướng Cao Duy Hưng đã sắp ra khơi, còn đợi lệnh của Tổng quản nữa thôi.
Sứ quân hài lòng, truyền rót rượu, chúa tôi nâng ly hân hoan khôn tả; duy có tướng Tổng quản Bùi Nhật Hướng thì luôn tỏ ra băn khoăn, vui mà không vui trọn. Tuần rượu vừa hết, Tướng Bùi Nhật Hướng đứng lên hướng về Sứ quân, thưa:
- Bẩm Chúa công, giang sơn ta bao la, bờ cõi ta như vựa lúa, kho người tài, không khỏi làm cho các sứ quân khác thèm thuồng nhòm ngó. Nay, anh hùng mỗi người chiếm giữ một vùng. Coi Cổ Loa như không có. Tự nhiên là ai tài tất được cả thiên hạ, sức chiến đấu chưa chắc ai đã hơn ai. Thế mà Tam Đái bỗng nhiên ngông cuồng, đem thuyền chiến xuống khiêu khích ta, lại toan tính làm những chuyện cướp đất chiếm thành, hỏi làm sao ta không sẵn sàng ứng chiến cho được? Bây giờ mọi việc đã chuẩn bị xong cả rồi, hàng tướng Cao Duy Hưng còn đợi lệnh để đi thuyết phục thuyền địch, chuyến đi này của y chưa chắc đã trôi chảy, đúng với ý muốn của ta. Nhưng ta cứ để y được đi, nếu y thành công thì là điều hay, thảng hoặc y có lòng làm phản thì ta cũng đã sẵn sàng cả rồi, xin đợi lệnh Chúa công cho y ra khơi.
Sứ quân vui lòng lắm, truyền cho tướng Tổng quản chuyển lệnh cho hàng tướng Cao Duy Hưng rời bến.
Tướng lệnh từ trên ải truyền xuống, thuyền Cao Duy Hưng lìa bến chậm chạp ra khơi. Trên thuyền Cao Duy Hưng bảo thuộc hạ:
- Cứ thong thả mà đi, vừa tránh được nguy hiểm ở phía trước mặt, lại vừa không làm cho trên ải nghi ngờ.
Lúc ấy, trời sâm sẩm tối, Sứ quân cùng chúng tướng, mưu sĩ, ngồi trên ải dự tiệc, ai cũng thấy rõ chiếc thuyền của Cao Duy Hưng ra khơi. Con thuyền đen sậm, chậm chậm hướng thẳng ra giữa sông, mờ mờ trong sương mù bắt đầu vẩn lên còn thấy thấp thoáng bóng các thuyền chiến của địch.
Trên ải quan, tiệc càng lúc càng vui, Sứ quân nói:
- Thật lâu lắm, ta mới lại có cái cảnh hội họp không còn thiếu một ai mà tiệc tùng như thế này. Vả lại, hôm nay ngồi trên ải quan, nghe tiếng trống trận, ngắm cảnh sương sa, thật không còn gì thú vị cho bằng!
Chúng tướng, chúng mưu sĩ, ai cũng một lời hùa vào để làm đẹp lòng Sứ quân hơn nữa. Trên mặt sông, con thuyền của Cao Duy Hưng đã khuất dạng trong lớp sương mù. Thấp thoáng, có ánh đèn chiến thuyền Tam Đái ẩn hiện trên sông. Trên ải quan, đèn lồng ngựa thông thắp la liệt, sáng rực như ban ngày, cảnh sắc thật tráng lệ, đúng là đại hội yến ẩm giữa buổi thanh bình thịnh trị. Trời tối hẳn, phong cảnh trên sông nước không còn thấy gì nữa, chỉ thấy một vùng mù mịt, tưởng dày đến trăm trượng không hết. Trên ải quan, trong tiệc, Sứ quân vụt cười lên ha hả, dứt tràng cười, Sứ quân bảo:
- Hôm nay đối trận mở tiệc, vui thật vui! Rõ thật là nhờ có Tam Đái gây sự, ta mới được một buổi vui như thế này!
Nói xong, lại giục chúng tướng, chúng mưu sĩ, cùng rót rượu nâng ly, uống tràn không kể gì chúa tôi trên dưới nữa. Được một lát, Sứ quân lại hỏi:
- Này đạo sĩ, lúc Tam Đái thả thuyền toan tính gây sự với ta, ta có nghe nội bộ Tam Đái không yên, Nguyễn Khoan có đề binh đi đánh Phong Châu, sao y lại còn dám gây sự với ta nữa như thế?
Đạo sĩ Phùng Chuyết Tình nửa tỉnh nửa say thưa:
- Thế mới là Nguyễn Khoan! Tôi có nghe Khoan bị Phong Châu lừa bịp nát cả nội bộ tức quá, liền đem quân đi hỏi tội Phong Châu đấy.
Tướng Tổng quản Bùi Nhật Hướng suốt từ lúc vào tiệc đến bây giờ, vẫn trầm ngâm không nói, trong lòng có nhiều điều thắc mắc không yên, nay nghe Đạo sĩ nói như vậy thì nhíu mày hỏi lại:
- Thật ra Tam Đái có đề binh hỏi tội Phong Châu thật, tôi có nghe binh Tam Đái đã ra đến ải Bắc, lại nghe thấy nội bộ Tam Đái có nhiều biến loạn, chưa rõ ra sao, tế sứ của ta có được biết việc ấy không?
Biên tế sứ Phan Phòng Lục, giữ nhiệm vụ dò la tin tức ở biên giới, đứng lên thưa:
- Thưa, mọi tin tức tiện nhân đã trình báo lên Chúa công cả rồi. Nay tướng quân muốn nghe lại, tôi xin trình lại cũng không sao.
Rồi Biên tế sứ thuật đủ mọi chi tiết nào là Nguyễn Khoan ba đường tiến quân, lại đích thân cầm cờ lệnh ở Trung quân. Sau, lại được tin chiến thuyền Tam Đái giàn trận ở phương Nam, nhưng không được rõ Tam Đái có thật muốn đánh Đường Lâm hay không. Biên Tế Sứ cũng không quên thuật lại khắp vùng Tam Đái trẻ con ngày đêm hát bài:
Trèo lên Tam Sơn Đứt thắng đái ngựa Bẻ gãy mũi khoan Bắt con oanh vàng Mang về núi mộng.
Đến nay, thì không rõ binh Tam Đái đã giao chiến với quân Phong Châu chưa, Sứ quân nghe trình, cười lên ha hả mà rằng:
- Binh ra trận vất vả, con dân không lo lắng giúp rập, lại đặt bài ca mà hát như thế là thế nào?
Cả tiệc không ai biết trả lời ra sao. Tướng Tổng quản ngồi lặng lẽ cúi đầu suy nghĩ có vẻ lung lắm. Hồi lâu nhíu mày hỏi:
- Có ai ở đây biết: tại sao trong bài hát lại có câu: “Bắt con oanh vàng, mang về núi mộng” là sao không?
Chưa ai lên tiếng, Sứ quân đã nói ngay:
- Con oanh vàng thì ta không biết, chứ núi mộng thì thuộc giang sơn ta còn gì nữa. Ở núi Mộng, ta chẳng có tòa Mộng thất cao bảy tầng, dễ thường mọi người quên cả rồi sao?
Vừa lúc ấy, có người vụt đứng lên nói tiếp:
- Nếu thế thì tại hạ biết “con oanh vành” rồi!
Cả tiệc bỗng im lặng, ai cũng chăm chú nhìn người vừa nói. Người vừa nói là Hồ Kính Trung nổi tiếng là tay lọc lõi ở đời, không chỗ nào có việc gì lạ mà lại không biết. Sứ quân rất yêu Hồ, cho theo ở bên cạnh để kể chuyện thiên hạ cho Sứ quân nghe làm vui. Sứ quân hỏi vội:
- Con oanh vàng là gì?
Hồ Kính Trung mặt trắng, hai mắt hơi xếch, tầm vóc mảnh mai, gương mặt có nhiều nét gian giảo, liền tủm tỉm cười thưa:
- Tôi có nghe thiên hạ kể rằng: Nguyễn Khoan có nàng ái thiếp cực kỳ xinh đẹp. Nàng ta tên là Hoa Lê, giỏi nghề múa, lại ca rất hay. Nàng Hoa Lê thích mặc áo lụa vàng, nên Nguyễn Khoan thường gọi đùa là “con oanh vàng” của y đấy.
Cả tiệc cười tán thưởng, Sứ quân càng vui hơn nữa tít mắt cười rồi nói:
- Ừ, nếu ta có “con oanh vàng” giam vào Mộng thất trên núi Mộng thì cũng hay lắm đấy!...
Mọi người lại cười nịnh, duy có tướng Tổng quản càng nhíu mày hơn nữa.
Bùi Nhật Hướng lại hỏi:
- Bài hát ở tận Tam Đái, tại sao lại bảo là bắt con oanh vàng mang về núi Mộng là ở giang sơn của Đường Lâm ta chứ?
Cả tiệc không biết trả lời ra sao, Sứ quân lại cười mà nói rằng:
- Bùi Tướng quân hay thắc mắc mà làm gì. Nếu ta bắt được con oanh vàng ấy tất thế nào cũng bắt Tướng quân mỗi ngày phải đứng ngoài Mộng thất nghe nó hót mới được!
Cả tiệc cười như chưa bao giờ lại có tiệc vui đến như thế. Bất thần, tướng Tổng quản Bùi Nhật Hướng vụi đứng lên làm mọi người kinh mang nín cười luôn. Bùi Nhật Hướng hướng về Sứ quân run giọng:
- Bẩm Chúa công, nguy mất rồi!...
Bùi Nhật Hướng chưa nói dứt câu, Sứ quân cũng có vẻ khiếp sợ đặt chén rượu xuống hỏi dồn:
- Làm sao? Ta nguy làm sao?
- Bẩm, tôi chắc đây là kế của Phong Châu mất rồi! Tôi có nghe Phong Châu có một mưu sĩ cực kì lợi hại, chính y từng đích thân xuống tận Tam Đái dùng kế li gián chúa tôi Nguyễn Khoan. Chắc vì Nguyễn Khoan đem binh hỏi tội Phong Châu, nên mưu sĩ ấy mới lại bày kế để giải nguy đây chứ chẳng sai.
Sứ quân lại hỏi:
- Tướng quân thấy thế nào? Mau nói ta nghe!
Bùi Nhật Hướng thưa:
- Bẩm, theo tôi nghĩ, thì mưu sĩ Điền Bạc của Phong Châu khi được tin Nguyễn Khoan động binh, thì ra kế “khai cửa Nam, để nước ứ ở cửa Bắc phải rút xuống”, tức là lén cho chiến thuyền xuống phía Nam làm ra vẻ là chiến thuyền của ta muốn đánh Tam Đái, khiến cho Nguyễn Khoan sợ hãi phải kéo binh ở mặt Bắc về, như thế là Phong Châu được yên. Chắc mưu sĩ Phong Châu lại lén sai người truyền rao bài hát cho trẻ con hát, cốt để lung lạc tinh thần Nguyễn Khoan, trong bài hát có ý nói ta sẽ thúc quân lên Tam Sơn, phá Tam Đái, giết Nguyễn Khoan, bắt “ái thiếp” của y mang về khiến cho Nguyễn Khoan không thể chần chừ được nữa phải đem quân phạt Bắc chạy về ngay...
Cả tiệc im lặng, Sứ quân ngồi đờ người nhìn ra sông đen nghịt. Bùi Nhật Hướng nói tiếp:
- Thật ra, Đường Lâm ta có bao giờ cho chiến thuyền khiêu chiến Tam Đái đâu. Lại nữa, thuyền lạ không tỏ ý đánh Tam Đái thật, cũng lại chẳng dám xâm phạm bờ cõi ta. Chắc là thuyền của Phong Châu cốt ý làm ta sợ, nhưng thật ra là để dọa Nguyễn Khoan. Việc con oanh vàng cũng vậy, Phong Châu biết chắc Nguyễn Khoan háo sắc sợ mất ái thiếp tất phải triệt binh. Điều đáng lo của ta là hàng tướng Cao Duy Hưng, không biết trong vụ này y có trách nhiệm gì đây?
Sứ quân kinh mang, ai nghe lời bàn của tướng Bùi Nhật Hướng cũng đều thấy có lý lắm. Đạo sĩ Phùng Chuyết Tình lè nhè:
- Như vậy thì rõ ràng là không có binh đao rồi. Họ Cao đi được việc hay không thì có sao đâu?
Bùi Nhật Hướng vụt la lên:
- Không được! Thế nhỡ họ Cao ẩn thân hàng ta là để làm nội ứng giúp Phong Châu khuấy động ở phương Nam này thì sao?
Sứ quân như tỉnh hẳn rượu nói:
- Tướng quân định liệu thế nào?
- Bẩm, tôi đã đề phòng trước cả rồi. Tôi chắc đám thuyền chiến ở ngoài sông không có giao chiến đâu, ta phải đuổi theo bắt cả về đây mới được.
Nói xong, xin phép rời tiệc, xuống ải truyền cho tướng Mạc Đình Loan thúc tiễn thuyền xung trận trước. Lại truyền cho tướng Cung Đức Hào đem quân thủy bộ kéo theo, sẵn sàng ứng chiến. Tướng lệnh vừa truyền ra trống hiệu nổi lên rầm rầm, cửa lớn thủy trại mở toang, các thuyền chiến tắt hết đèn lớn, chỉ treo đèn hiệu nối đuôi nhau vun vút chèo ra đúng phép. Trên ải quan, Sứ quân và chúng tướng mưu sĩ ngẩn người nhìn cảnh hùng vĩ.
Lại nói về Cao Duy Hưng cho thuyền ra khơi, ngoảnh mặt lại nhìn lên ải quan thấy đèn treo la liệt, đẹp như trong buổi thanh bình thịnh trị, bất giác nghĩ:
- Điền Bạc dặn ta rằng: Sứ quân Ngô Nhật Khánh không phải là người đáng để cho kẻ hiền tài thờ, quả thật không sai!
Thuyền chèo được một lát, thì đi vào trong sương mù, mái chèo khua nước nghe róc rách, trời tối đen tưởng như bịt mắt mà đi. Thỉnh thoảng mới lại thấy có ánh đèn thuyền Phong Châu le lói rồi vụt lại bị sương mù che khuất. Bơi thêm một đỗi nữa, bỗng có tiếng quát:
- Thuyền nào, dừng lại!
Cao Duy Hưng truyền thuộc hạ ngưng tay chèo, rồi gióng tiếng:
- Cao Duy Hưng muốn được gặp gỡ Điền Bạc!
Cao Duy Hưng không biết phải nói ra sao, đánh nói bừa như vậy. Bên kia, tướng Phạm Văn Duật vừa được quan báo cho biết có một chiếc thuyền lạ, âm thầm hướng mũi về phía ta, thì cũng đồ là thuyền của Cao Duy Hưng tìm đến. Tuy thế, vẫn cẩn thận truyền chuẩn bị cung tên, sẵn sàng ứng chiến. Kịp đến khi truyền cho quân quát hỏi, lại nghe đẹp như vậy thì cả mừng, liền truyền quân nói to lên:
- Cao Tướng quân cứ chèo tới!
Thoáng chốc, thuyền của họ Cao đã tới sát đám chiến thuyền của Phạm Văn Duật, quân giòng thuyền của Cao đến soái thuyền trình Phạm Văn Duật, Phạm Văn Duật thân ra đón Cao Duy Hưng, giơ tay đỡ sang thuyền mình, miệng nói:
- Tôi vâng lệnh đại nhân Điền Bạc, xuống đây đón ông lâu rồi!
Cao Duy Hưng vũng lên tiếng tạ lại.
Phạm Văn Duật lại hỏi:
- Cùng đi với Tướng quân, còn có ai nữa không?
- Có, còn có cả vợ con tôi nữa.
- Thế thì hay lắm! Xin mời tất cả lên thuyền này.
Nói xong, Duật truyền quân đưa cả gia đình Cao Duy Hưng lên soái thuyền, đối đãi cực kì trọng hậu, coi như là người quen thuộc từ lâu xa cách nay lại gặp nhau, chứ chẳng có gì là khách khí cả. Mọi người vừa yên chỗ, Phạm Văn Duật đã nói:
- Điều đại nhân có dặn tôi: khi nào đón được Tướng quân rồi, thì phải gấp rút về ngay, thế nào Đường Lâm cũng đuổi theo gây sự đấy.
Cao Duy Hưng đáp:
- Cứ xem cung cách này, thì chúa tôi Sứ quân Đường Lâm chưa tỉnh hơi men đâu, làm gì có sự đuổi theo quấy rồi ta nữa!
Cao Duy Hưng vừa dứt lời, đã nghe thấy trống trận Đường Lâm rầm rầm, ấy là lúc thủy trại mở cửa để các thuyền chiến kéo ra.
Mọi người nhìn nhau, Cao Duy Hưng hơi bẽn lẽn nói:
- Quả thật Điền đại nhân không phải là người thường rồi!
Phạm Văn Duật đứng lên, truyền nhổ sào thuyền, theo hàng năm ngược dòng lên mạn Bắc. Hàng thuyền bên ngoài phía Đường Lâm lại cho thêm tay chèo, dựng thêm vách mây ở mũi thuyền, đoạn cả đoàn lặng lẽ, tắt hết đèn đuốc, thuyền nọ nối đuôi thuyền kia ra sức vượt dòng.
Thuyền đi được một đỗi, tiễn thuyền của Đường Lâm đã lại được gần, trời tối đen trông xa không thấy, nhưng nghe rõ ràng tiếng quân Đường Lâm lao xao. Chiến thuyền Phong Châu cứ bình tĩnh chèo đi. Lại đi được một lát, thì chiến thuyền Đường Lâm như mò mẫm trong sương tối, loanh quanh không biết địch ở đâu mà tấn công, nhưng nếu cứ tình cảnh này thì có khi hai bên va cả vào nhau mà không biết. Phạm Văn Duật liền truyền lệnh cho bốn hàng thuyền phía trong gấp tay chèo tiến lên, còn đoàn thuyền ngoài cùng đợi cho bốn hàng thuyền trong đi khỏi rồi mới quay mũi, hướng về phía có tiếng quân Đường Lâm lao xao, bất thần khai tiễn; Soái thuyền này dự chiến. Tên trên thuyền Phong Châu phóng đi, có mũi chẳng vào đâu, có mũi trúng thuyền Đường Lâm, có vài tiếng la hét của quân trúng tên.
Lập tức, trống trận Đường Lâm nổi lên đùng đùng, quân reo như thác nước đổ, nhưng kì thực thì có biết địch ở phía nào đâu mà tìm đánh. Phạm Văn Duật truyền quân liên tiếp bắn tên. Chừng được cạn chén trà thì lại ra lệnh đổi hướng thuyền, sang hẳn phía Nam, tức là lại gần bờ phía Đường Lâm rồi hướng mũi im lặng đợi chờ. Quân Đường lâm loanh quanh trong bóng tối, không dám nổi hồng để tìm địch, cứ hò hét trợ oai, trống đánh dồn dập. Phạm Văn Duật liền truyền quân cũng tiễn nhất tề bật tên lửa phóng đi một loạt. Tên lửa vạch sương mù bay đi, thoáng lát tám chín chiến thuyền Đường Lâm bị trúng tên lửa bốc cháy sáng mặt sông. Phạm Văn Duật truyền tất cả ra sức đẩy chèo, hướng phía Bắc chạy trốn.
Thuyền Đường Lâm ngùn ngụt cháy, nhưng soi sáng chiến trường, có người đã nhận thấy thuyền Phong Châu đang hướng về phía Bắc chạy trốn. Lập tức, tiễn thuyền Đường Lâm bỏ mặc các thuyền bị cháy, gấp rút đuổi theo địch. Phạm Văn Duật biết thế nguy, truyền đoàn tiễn thuyền đi đoạn hậu này chia ra làm đôi, mỗi bên được mười một chiếc, theo hình chánh chim tiếp tục tiến lên phía Bắc. Soái thuyền rong ruổi ở chính giữa. Duật nói với Cao Duy Hưng rằng:
- Thủy chiến tôi chẳng bằng Tướng quân, nay tình thế gấp rút lắm, phải nhờ đến Tướng quân mới được!
Cao Duy Hưng trong lòng cũng đang lo lắng, nghe Duật nói như vậy thì vội đáp:
- Nếu tôi giúp được gì Tướng quân, xin không dám chối từ!
Tiễn thuyền Đường Lâm thấp thoáng ở mạn dưới, gấp rút đuổi theo thuyền Phong Châu, dần dần khoảng cách gần lại vừa tầm đường tên. Tiễn thuyền Đường Lâm xạ tiễn, tên bay nghe vi rút không ngừng, mười phần nguy hiểm. Phạm Văn Duật truyền lệnh cho hai cánh thuyền:
- Hãy giạt cả vào bờ, dàn hàng ngang rồi tận dụng sức tên, loạt tên cuối cùng thì dùng đến hỏa tiễn. Bắn hết tên, lại quay mũi chạy lên hướng Bắc, nhưng chạy được một đỗi thì nương vào lau mà ẩn thân, đợi khi nào có lệnh tiễn hãy tiếp tục lên đường trở về.
Lệnh truyền xong, soái thuyền thong dong đi giữa dòng sông, đằng sau xa xa, soái thuyền Đường Lâm của tướng Mạc Đình Loan vun vút đuổi theo trên cái nền lửa cháy ở mãi đằng xa, phong cảnh thật hùng vĩ. Được một lúc, sương mù dày đặc, khó lòng trông rõ được nhau, thì cũng là lúc thuyền đôi bên cách nhau không xa mấy nữa. Trên soái thuyền Đường Lâm, có tiếng tướng Mạc Đình Loan hô lớn:
- Thuyền Phong Châu đừng chạy nữa! Thuyền Phong Châu đừng chạy nữa!
Phạm Văn Duật và Cao Duy Hưng nhìn nhau lo lắng, Duật bảo:
- Đợi khi nào thuyền địch nghe đã ở gần, phiền Tướng quân lấy cái uy thủy chiến dọa địch một phen. Tướng quân cũng đừng quên hô lớn truyền cho thuyền ta khai tiễn nhé!
Cao Duy Hưng gật đầu. Được một lát, trong bóng tối ở mạn dưới, lại nghe tiếng tướng Mạc Đình Loan hô lớn:
- Tướng Phong Châu. Mau dừng thuyền lại! Đừng chạy nữa!
Tiếng hô nghe đã gần, tiếng hô vừa dứt, lại nghe tiếng trống trận nổi lên ầm ầm trợ oai. Đợi cho tiếng trống trận vừa dứt, Cao Duy Hưng cùng với Phạm Văn Duật đứng ở lái soái thuyền, Hưng hô lớn:
- Thuyền Đường Lâm về đi! Các ngươi bị ta bao vây rồi!
Giọng Cao Duy Hưng nghe vang vang trên sông nước, khiến cho quân Đường Lâm chẳng khỏi gai người sợ hãi. Cao Duy Hưng lại hô lớn:
- Các ngươi chưa biết tài Con Rồng Thiêng Trên Sóng Nước ư? Thuyền khai tiễn!
Hai hàng chiến thuyền Phong Châu bọc sát bờ sông, bây giờ ở vào đoạn cuối tiền quân của Đường Lâm, nghe rõ tiếng hô vang rền của Cao Duy Hưng, vội vàng dừng chèo, ra sức bắn tên liên miên không dứt. Tên bay như sao sa, không còn biết đằng nào mà tránh được nữa. Quân Đường Lâm kinh hãi, ngỡ rằng quân Phong Châu quả nhiên đã bao vây được mình, hậu quân rối loạn ai cũng lo sợ cái tài thủy chiến nức danh của Cao Duy Hưng thành ra không còn lòng dạ nào tính chuyện tấn công địch nữa, bèn lui về thế thủ chống đỡ tên địch từ bóng đêm vụt tới.
Hai cánh thuyền Phong Châu bắn một hồi, tên gần cạn, thì liền mau lẹ dùng đến tên lửa, ra sức bắn cho thật nhanh. Khoảng một khắc, thuyền Đường Lâm nhiều chiếc trúng tên bốc cháy, lửa lại sáng cả mặt sông. Quân Đường Lâm rối loạn không biết chống đỡ thế nào. Tướng Mạc Đình Loan vừa tức vừa sợ, truyền bỏ mặc thuyền bị cháy, ra sức chèo lên mạn Bắc đuổi theo soái thuyền Phong Châu, lại truyền vừa đuổi theo vừa khai tiễn thị oai. Soái thuyền Phong Châu gấp rút chạy dài, Phạm Văn Duật với Cao Duy Hưng đứng ở đằng lái quan sát tình hình lấy làm yên dạ lắm. Chợt thấy thuyền địch từ trong sương mù phóng ra, đuổi theo gấp rút, lại thấy tên địch vi vút vượt trên đầu, biết còn nguy lắm.
Hai cánh thuyền Phong Châu ở hai bên bờ, không phải là không thấy tình cảnh ấy, liền gấp rút tiến lên, gom góp tất cả số tên còn lại nhất tề bắn vào soái thuyền Đường Lâm, lại nổi trống rầm rầm làm ra vẻ đại quân đang xung trận. Tướng Đường Lâm Mạc Đình Loan vừa sợ vừa tức lồng lộn, cho là địch có vẻ ung dung như thể nhử mồi dụ cho mình tiến tới. Loan ngập ngừng, vụt kinh hoàng cho là Cao Duy Hưng dàn quân từng chặng một, nếu mình cứ tiếp tục đuổi theo ắt thế nào cũng trúng kế địch, nguy mất. Nghĩ thế, liền truyền tất cả đoàn thuyền ra sức xạ tiễn, hướng cả vào soái thuyền Phong Châu bắn một hồi nữa, đoạn dừng chèo chỉnh đốn hàng ngũ chuẩn bị, đợi xem tình hình thế nào đã.
Bên này, Phạm Văn Duật với Cao Duy Hưng chưa biết làm cách nào để cản địch, thấy hai cánh quân hai bên nỗ lực đập trống bắn tên, cũng không chắc uy hiếp được địch, thì lo lắng lắm. Sực lại thấy tên của địch bắn tới như mưa rào, mạ mạnh lắm, rõ ràng là hai bên đã gần nhau lắm rồi.
Hai tướng còn đang phân vân, chợt một mũi tên xé gió bay tới đâm thẳng vào mắt bên trái Cao Duy Hưng. Hưng rú lên một tiếng khẽ, hai tay bưng lấy mặt. Phạm Văn Duật kinh hãi, vội dìu Hưng vào trong. Duật vẫn không dám đốt đuốc, liền đặt Hưng nằm xuống, lúc ấy máu ra đầy mặt Hưng. Tướng thủy chiến Cao Duy Hưng đau quá ngất đi rồi, Duật bối rối, truyền quân tiếp tục tay chèo, không được lơi tay. Thuyền chạy trốn thêm một lát nữa thì thấy tên địch thưa dần, rồi tắt hẳn. Phạm Văn Duật bỏ Cao Duy Hưng nằm một mình bước ra ngoài thuyền quan sát tình hình, thấy mạn xuôi im lặng, không biết quân Đường Lâm toan tính gì đây.
Liền truyền quân cứ tiếp tục chèo. Duật không dám bỏ vào trong, cố giương mắt nhìn vào bóng tối xem động tĩnh thế nào, nhưng chẳng thấy gì cả. Một hồi lâu, tình hình vẫn yên tĩnh, bây giờ Duật mới yên lòng. Ước lượng đi đã được xa, Duật truyền quân bắn một phát tên lửa lên trời, để ra lệnh thu quân hai bên bờ lại, cũng là để dò la xem địch tính thế nào.
Cao Duy Hưng chưa tỉnh, nằm thoi thóp thở, máu từ mắt bên trái ứa ra ướt cả áo chiến. Duật truyền quân sắp sẵn mọi thứ thuốc dịt, nhân lúc Cao Duy Hưng mê man chưa biết đau, liền mạnh tay rút bật mũi tên ra. Mũi tên lôi theo cả con mắt bị lép, Cao Duy Hưng giật nảy người lên. Duật vội dịt thuốc rồi xé vải buộc kín con mắt Hưng. Từ đấy, Cao Duy Hưng mất một mắt, sau người đời đặt cho biệt danh là “Con Rồng Nước Một Mắt”.
Sau chuyến chạy trốn trối chết ngược dòng mà về Bắc đoàn thuyền của Phạm Văn Duật đi đón Cao Duy Hưng cũng về được đến Phong Châu, lúc ấy, các đạo quân Tam Đái Bắc phạt đã lui về cả rồi. Mọi việc coi như tạm yên, chúa tôi Sứ quân Kiều Công Hãn mở tiệc ăn mừng, kiểm điểm mọi việc lấy làm đắc ý lắm. Hồi ấy, mới chớm vào Xuân, cây cỏ xanh tươi, cảnh sắc thật đẹp, nhưng thật ra cái nạn binh đao cũng đã bước vào thời kỳ thật trầm trọng, thật khủng khiếp. Giữa tiệc mừng, Điền Bạc đứng lên nói rằng:
- Bẩm Chúa công, nay mọi việc tạm yên, tính toán của Phong Châu ta đều không có chỗ nào sai trật cả. Chỉ tiếc một điều, là hiền tài về với Chúa công có Đại tướng Cao Duy Hưng chẳng may ngộ nạn mất một mắt, còn thì không có gì đáng phàn nàn nữa. Việc tuy tạm yên, nhưng tôi nghĩ rằng việc lớn thiên hạ từ đây đã chuyển động. Mới đây, việc Cổ Loa đem binh thăm dò phía Tây, nếu ta không kín rào giậu, thì binh đao chắc đã xảy ra rồi. Theo như động tĩnh, thì chắc nay mai Cổ Loa sẽ động binh, chưa biết nhằm vào đâu. Tôi lại mới được biết, lúc này thiên hạ xuất hiện nhiều người tài, Ngô Xương Xí vừa được một kiện tướng trí vũ song tài, đã trấn giữ Bình Kiều, coi như bỏ Cổ Loa. Các Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc thì xây thành đắp lũy, lập thủy trại lớn ở sông Đỗ Động; ba Sứ quân Lý Khuê, Nguyễn Thủ Tiệp, Lữ Đường liên kết với nhau ở Siêu Loại, Tế Giang, Tiên Du, nhưng kỳ thực thì hầm hè chực cấu xé nhau; Nguyễn Siêu hùng cứ Phù Liệt; đáng kể nữa là Phạm Phòng Át tung hoành ở Đằng Châu. Thiên hạ anh hùng chẳng ai chịu ai, binh đao lớn sắp xảy ra rồi. Nhưng đáng kể hơn cả, đáng sợ hơn cả, là bọn Đinh Bộ Lĩnh ở đất Hoa Lư. Mới đây, tôi có nghe một tay tuổi trẻ nhưng đáng mặt hùng tài thao lược đã về với Bộ Lĩnh, lại xếp đặt để Bộ Lĩnh ra quân tranh hùng với thiên hạ, chỉ nay mai thôi là Bộ Lĩnh sẽ xuất động tung hoành, nguy cơ chung của thiên hạ là bọn Bộ Lĩnh đấy...
Cả tiệc im lặng, Sứ quân hỏi:
- Kẻ hùng tài thao lược nào vừa đến giúp Bộ Lĩnh?
Điền Bạc rầu rầu đáp:
- Cái ngày huyện quan Bồ Điền bị cắt đầu mổ bụng, cũng là ngày tay hùng tài thao lược, thủ phạm vụ giết người ấy lên đường xuống Nam về với Bộ Lĩnh đấy.
Sứ quân lại hỏi:
- Y về với Bộ Lĩnh ra sao?
Muốn biết người tuổi trẻ đã giết huyện quan Bồ Điền ngày nào về với Bộ Lĩnh ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.
—ooOoo—